Bán Dạ Đông Thiên

Lời Khuyên Tu Hiền - Thanh Sĩ,Ông Thanh Sĩ,Bán Dạ Đông Thiên
BÁN DẠ ĐÔNG THIÊN
( THANH SĨ )
(gồm 1173 câu)


  • Bán Dạ Đông Thiên
  • Lời Khuyên Tu Hiền
T hâm canh hồn điệp mơ màng,
Cựa mình thổn thức bàng hoàng xót chua;
Hắt hiu một ngọn gió đùa,
Tựa như có kẻ đến xua dậy ngồi.
Ngửa trông ánh nguyệt lưng Trời,
Quang minh tinh tú thứ ngôi chỉnh tề;
Chạnh lòng gẫm kiếp trần mê,
Lắm công lo liệu xứ quê chưa rồi.
Ruộng cồn nay lở mai bồi,

10.Bèo mây tan hiệp lắm hồi gian lao;
Rày đây mai đó ngán ngao.
Biết ai đặng có cùng trao mảnh tình.
Mảnh tình yêu mến sanh linh,
Muốn sao người được như mình mới thôi;
Thoàn nghiêng bởi sóng dập dồi,
Thề rằng quát cạy ngược xuôi mặc lòng.
Thấy mây bổn phận Ngư Ông,
Lái lèo giữ trước để phòng gió mưa;
Tuy rằng đạm bạc muối dưa,

20.Nhưng lòng trong sạch có thừa mười phân.
Chẳng ham quyền tước bạo Tần,
Cũng không mong được cái ân bất lành;
Dòng sông uốn lộn khúc quanh,
Khi qua voi vịnh chị anh rán phòng.
Tránh sao khỏi vướng nọc chông,
Ấy là mới thoát khỏi vòng truân chuyên;
Như ai muốn đặng công thiềng,
Đường lành nương gởi phước duyên được nhờ.
Đèn tâm soi lúc tối mờ,

30.Vượt qua hố thẳm đến bờ giác linh;
Tâm ta có đủ diệu minh,
Hương duyên cũng đó, sóng tình cũng đây.
Phật ma vốn một lòng nầy,
Móng tâm tìm kiếm bên ngoài uổng công;
Thân sao thân quá viễn vông,
Lòng sao lại quá rối lòng vò tơ.
Người tu tại lẽ huyền cơ,
Hay tu lấy có mà ngơ ngẩn lòng;
Xa Thầy vừa mới mấy đông,

40.Mà xem lắm kẻ đạo đồng lãng lơ.
Giảng kinh xem hiểu thời cơ,
Cớ sao chữ đạo lu mờ thế ư?
Hổ mình có sách có sư,
Tại sao rượu thịt say nhừ sớm trưa.
Muốn cho tạn mặt người xưa,
Sớm rèn đức hạnh phụng thừa Tổ Tiên;
Xử phân theo lệ Thánh Hiền,
Không làm Tiên Phật cũng thiềng Thần nhơn.
Bởi đời nay quá thiểu duơn,

50.Cho nên đạo nghĩa dễ lờn mau phai;
Chợ đông tấp nập gái trai,
Trưa rồi lần lượt mạnh ai nấy về.
Nhà xiêu vách nát ủ ê,
Ruột rà khua chạm não nề lại thêm;
Được may thanh điểu tới thềm,
Còn chưa sửa dạ để tìm đâu xa.
Rừng tòng so chí của ta,
Sớm khuya hai chữ hảo hòa trầm ngâm;
Ví mình tiều lão rừng thâm,

60.Giang sơn một gánh toại mầm Thần Tiên.
Còn hơn Vương Thạch nhiều tiền,
Không lưu cái thảm cái phiền đấy sao?
Trên đời nhiều bực thấp cao,
Đem ra so sánh hơn nhau chữ thành.
Làm nên việc tốt việc lành,
Được người ca tụng sử xanh soi truyền;
Bằng gieo ác nghiệp ác duyên,
Sống nhơ danh tiết thác phiền khẩu bia.
Sách đèn hôm sớm trau tria,

70.Suy kim nghiệm cổ ngày kia thanh nhàn;
Giả chơn được hiểu rõ ràng,
Để vinh hậu thế làm vang tiền đồ.
Tàn thu lá cỗi nhành khô,
Trải cơn đông sảnh mơ hồ màu xuân;
Trực nhìn bóng ác tà huân,
Phải mau toan liệu kẻo phần trễ bê.
Hạ Nguơn biến đổi gớm ghê,
Máu hồng lửa đỏ tràn trề khắp nơi;
Sáu châu ảm đạm khí Trời,

80.Ngọc Hoàng sắc lịnh lập đời Thượng Nguơn.
Sấm vang đài lộ Thất Sơn,
Hốt nhiên đổi vật đổi nhơn quả cầu;
Tiềng còi kinh động một bầu,
Cả kêu bá tánh quày đầu tu thân.
Giống xưa thiệt giống hiền nhân,
Từ đời Đinh, Lý, Lê, Trần tới nay;
Tổ Tiên ăn ở thảo ngay,
Biết tin tưởng Phật biết say đạo mầu.
Cội lành xua đã trồng sâu,

90.Thế nên bông trái dài lâu đượm đà;
Con lành học thói ông cha,
Đặng gìn gương kiếng nỏn nà tốt xinh.
Tu hành thường khán kệ kinh,
Mở mang trí độ của mình thêm ra;
Dặn lòng tránh việc xấu xa,
Kiếm tầm lẽ tốt để mà làm theo.
Biển lòng giữ được trong veo,
Ngọc Minh xuất hiện mốc meo chẳng còn;
Rán mà vẹn một lòng son,

100.Khổ lao dẫu gặp chớ mòn chí tu.
Bấy lâu sống cảnh lao tù,
Nay lo vùng vẫy cho cù hóa long;
Chẳng mau tránh họa chim lồng,
Để khi mắc lưới khó hòng thoát thân.
Ruộng lòng gieo giống Tứ Ân,
Đền ơn thủy thổ đáp phần cù lao;
Nam nhi chí khí anh hào,
Sống không hổ tiếng thác vào miễu son.
Tu hành đâu quản mất còn,

110.Miễn sao đạo nghĩa vuông tròn đấy thôi;
Khó khăn tai họa có nhồi,
Cũng đừng rủn chí gặp hồi thảnh thơi.
Thần Quang quì lạnh đêm Trời,
Phép mầu tỏ ngộ muôn đời còn thơm;
Tu như khát nước thèm cơm,
Đường xa muôn dặm cũng hờm đến nơi.
Kiên tâm mới thấu cơ Trời,
Đừng gieo nửa buổi, chiều thời muốn ăn;
Làm giàu còn phải khó khăn,

120.Huống chi làm Phật làm Thần dễ đâu.
Dục tu thời phải thật cầu,
Trước sau như một mới hầu thành công;
Còn ai sớm bưởi chiều bòng,
Nhà Tiên cửa Phật khó hòng đáo lai.
Nên kim sắt nọ rán mài,
Buổi đầu chịu khổ sau nầy mới vui;
Học qua vần ngược vần xuôi,
Chừng ra thí ứng giựt dùi đăng khoa.
Mấy ai từ nhỏ đến già,

130.Chẳng thèm khổ học được mà đậu quan;
Như ta muốn tới đầu san,
Phải cần chịu mỏi lội càn gốc gai.
Hiểm nguy lao khổ không nài,
Non Bồng nước Nhược có ngày đến nơi;
Sống trong lửa dục biển đời,
Cái nào cũng giết được người dễ không.
Hận sân un đốt cõi lòng,
Phàm tâm ưa ghét lại nồng thêm ra;
Người thương lòng chẳng muốn xa,

140.Kẻ đem dạ ghét gây ra oán cừu.
Bởi đâu có việc sầu ưu,
Ấy do nhơn ngã tạc thù mà ra;
Cũng nên tập tánh khoan hòa,
Ngoài đường kẻ mến trong nhà người thương.
Quí tu hơn quí kim cương,
Mộ hiền hơn mộ bước đường công danh;
Phiến tâm gìn một sắc thanh,
Ơn trên tam cõi đâu đành bỏ ta.
Ở trong đô hội phồn hoa,

150.Lòng không cảm nhiễm lụa là mới siêu;
Dung nhan thường được mỹ miều,
Oan tình chẳng buộc mai chiều đằng phi.
Đường xa chơn nọ lần đi,
Mang sao đội nguyệt quản gì tấm thân;
Nam mô sáu chữ cho cần,
Dầu lâm đại biến thoát phần hiểm nguy.
Thềm son đền ngọc phương phi,
Lánh thân khỏi tục hồi qui hưởng phần;
Ngày đêm chim hót hoa mừng,

160.Bóng trăng vặc vặc ánh hồng chang chang.
Hồ trong in nét Quảng Hàn,
Cây cao gió thổi như đàn lên dây;
Trần gian khó sánh cõi nầy,
Trăm hoa ngũ sắc trưng bày thiên nhiên.
Đủ đầy rượu Thánh trà Tiên,
Sơn trân hải vị yến diên nực nồng;
Phàm tâm đã giũ sạch không,
Về đây an ngự khỏi vòng khổ lao.
Bồ Đề hôm sớm giồi trau,

170.Lợi danh chẳng tưởng sắc màu không ham;
Nương mình giữa chốn thiền lam,
Trên cầu Phật lực dưới đam phép truyền.
Lấy thân đổi một chữ hiền,
Dầu ai cười ngạo chẳng phiền chi ai;
Dốc lòng gặp Phật Như Lai,
Phải làm những việc của Ngài làm ra.
Cũng như muốn lúa vào nhà,
Nên cày cấy trước lúa mà có sau;
Muốn cầu đời tới cho mau,

180.Mà không cải sửa thì nào tồn sanh.
Hồ trong đựng mảnh hồn thanh,
Quả tu dày dặn duyên lành thơm tho;
Bấy lâu khó kiếm nơi phò,
Nay tầm được gốc còn dò đi đâu.
Bá gia chớ có cơ cầu,
Tu cho thiệt tánh chớ hầu giả tâm;
Lần theo kẻ lạc xa xăm,
Đến chừng kết cuộc khó tầm kiếm ra.
Muôn thu đắm biển ái hà,

190.Khổ kia thậm khổ ai mà biết chưa?
Hết chiều rồi kế đến trưa,
Trẻ qua già lại có chừa ai đâu.
Tóc xanh rồi kế bạc đầu,
Sống chưa thỏa mãn thác hầu đến nơi;
Dầu cho bạc chất đầy trời,
Cũng không mua được sống đời trường sanh.
Thế mà lắm kẻ tham danh,
Cố đem tài sức tranh giành mãi thôi;
Quên rằng ví được cao ngôi,

200.Cũng không tránh khỏi những hồi lâm chung.
Làm quan trị được dân cùng,
Chớ đâu trị nổi hành hung tử thần;
Bình sanh ác đức bất nhân,
Mạng chung thấy tội khó phần ăn năn.
Lòng ta đau đớn vô ngằn,
Thương đời u ám tiếc lằn điễn quang;
Sợ cho người phế giữa đàng,
Đến ngày sấm nổ tiêu tan xác hồn.
Gượng mà theo bớ chư môn,

210.Gian nan chịu được phần hồn mới cao;
Kính Thầy thì phải thương nhau,
Chớ nên chia rẽ làm đau lòng Thầy.
Chúng ta như nhạn lạc bầy,
Gặp cơn gió bão khổ nầy chi hơn;
Đâu đành lợi dưỡng một thân,
Nỡ gây thù oán giận hờn lẫn nhau.
Ai ơi ! Thức tỉnh với nào,
Bớt lòng ganh ghét thêm vào lòng thương;
(( Cá không ăn muối cá ươn)),

220.(( Không nghe lời dạy lầm đường chông gai )).
Hai câu trên của Đức Thầy,
Lời khuyên thống thiết đến nay rõ ràng;
Dầu ai lòng dạ sắt gang,
Nghe qua lời ấy cũng tan cũng mềm.
Hữu duyên có Phật tới thềm,
Chẳng trau sửa gấp còn hềm việc chi;
Đời ơi ! Cảnh khổ lâm ly,
Sớm mau hướng thiện diên trì họa to.
Làm lành được phước Trời cho,

230.Dữ dằn đến việc tiêu tro thân hình;
Mong ơn các bực Thần minh,
Lấy tâm chánh trực giữ gìn hiền nhơn.
Có khi làm phước làm ơn;
Lại mang tai họa hoặc cơn oán thù;
Ấy là nợ trước chưa bù,
Ngày nay phải trả người tu chớ phiền.
Có khi Phật thử người hiền,
Coi lòng người có được bền hay không;
Thật tình thì chẳng phế công,

240.Giả tâm ắt phải đổi lòng bê tha.
Đời ơi ! Rán một lần ba,
Tu cho cha mẹ ông bà siêu thăng;
Hội nầy chẳng sớm qui căn,
Thì sau phải chịu muôn ngằn đọa sa.
Ngày kia bể khổ muốn ra,
Cũng không dễ gặp như là hội nay;
E khi tạo ác kiếp nầy,
Thân sau đọa xuống các loài khổ hơn.
Chừng ni mờ ám trí thần,

250.Đâu có linh mẫn lánh trần như nay;
Hiện giờ thoàn nhã đáo lai,
Trễ chơn sau ắt kiếm hoài không ra.
Mấy khi Phật đáo Ta Bà,
Không tu chừng quỉ tới nhà hết mong;
Tu hành thì phải chí công,
Như cây siêng tưới mới hòng trổ hoa.
Chữ tu là sửa lòng ta,
Đi ngay nẻo chánh, lánh xa đường tà;
Chừng nào trong sáng lòng ta,

260.Không còn nhơ bợn mới là thật tu.
Chữ hành khuya sớm công phu,
Thi ơn bố đức dãi dù cũng cam;
Ở trong mọi cảnh tục phàm,
Mà hay làm những việc làm siêu nhân.
Cư trần không chút nhiễm trần,
Lại thường khuyến khích nhơn dân làm hiền;
Dạy cho kẻ lánh phàm duyên,
Thẳng đường Tịnh Độ cổi phiền thế gian.
Chữ hành với hạnh liên quan,

270.Ngoài sao trong vậy lẽ hằng không sai;
Cả kêu nam nữ gái trai,
Trau trong nhơn đức giồi ngoài đoan trang.
Nói năng chọn tiếng dịu dàng;
Dạ thưa đối đáp phong nhan ôn hòa;
Trẻ cho chí những đến già,
Đối nhau lễ nghĩa theo mà tục xưa .
Làm chi cũng phải lọc lừa,
Việc ta việc kẻ cho vừa với nhau;
Xét chung tình nghĩa đồng bào,

280.Mình vui người khổ lòng nào nỡ cho.
Phải kiêng Trời có mắt to,
Việc làm ta khó giấu cho đặng Ngài;
Cầm cân thưởng phạt muôn loài,
Việc ta hiếp kẻ Trời Ngài đâu dung.
Làm hung sớm muộn gặp hung,
Việc hiền chầy kíp cũng chung với hiền;
Đời nầy báo ứng nhãn tiền,
Người lành, kẻ dữ, trả liền chẳng lâu.
Sắp gần biến đổi năm châu,

290.Cho nên nhơn quả đáo đầu rất mau;
Thôn hương thành thị chỗ nào,
Phật Tiên đều có bủa rào xét soi.
Việc làm giữa chốn lẽ loi,
Mắt Thần xem thấy như ngồi chợ đông;
Luật Trời thật rất chí công,
Vạn dân bá tánh đừng lòng dễ khi.
Qui điều phải rán hành y,
Làm theo cho đúng phú thi của Thầy;
Xong rồi cửa Phật sum vầy,
Phỉ lòng mong đợi tớ Thầy bấy lâu.

300.Ngày đêm tha thiết khẩn cầu,
Dưới trên hòa thuận đạo mầu hết lu;
Làm sao khỏi hổ chữ tu,
Không sai lời hẹn, lời cầu sớm trưa .
Nếu tu chè rượu đừng ưa,
Bạc bài cũng phải rán chừa chớ mê;
Tu sao chữ hiếu vẹn bề,
Lòng trung cũng trọn nhi thê cũng rồi.
Tu là việc nghĩa đắp bồi,
Đạo người ngày tháng trau giồi vẹn thân;

310.Tu nên thận trọng xác trần,
Đừng làm điếm nhục tủi phần mẹ cha.
Tu thời chẳng có xa hoa,
Quần bô áo vải ấy là cũng xong;
Tu không tham lận hơi đồng,
Miễn sao hai bữa no lòng đấy thôi.
Tu là chừa việc tanh hôi,
Không gây ác nghiệp lo bồi thiện duyên;
Tu cho trọn tốt trọn hiền,
Quí yêu đạo đức hơn tiền thế gian.

320.Tu không mến của giàu sang,
Chẳng cần ai trọng ai màng chi đâu;
Tu đây hướng thiện quày đầu,
Theo đường chánh giáo chẳng cầu vị danh.
Tu sao mười việc trọn lành,
Tám điều trọn chánh mới đành người tu;
Tu lòng sáng tợ trăng thu,
Ngàn cây muôn cụm đâu đâu rỡ ràng.
Tu cho Đức Phật trên bàn,
Rờ đầu hoặc có lời vàng ngợi khen;

330.Tu cho trăm họ đều quen,
Hiệp nhau trừ bỏ giống hèn giống nhơ.
Tu gồm đời đạo chẳng sơ,
Nhơn tâm cũng hiểu thiên cơ cũng tường ;
Tu gìn ngũ giới ngũ thường ,
Tam qui vẹn nghĩa tam cương vẹn tình.
Tu chừng nào sạch vô minh,
Không còn lục dục thất tình mới thôi;
Tu cầu cho Chúa gặp tôi,
Tớ Thầy hiệp mặt phủi rồi gian nan.

340.Tu cho thấy hội trên ngàn,
Xem coi núi đá hóa vàng ra sao?
Tu đây tránh cuộc ba đào,
Tránh cơn nước lửa ồ ào cháy lan.
Tu cho biết sức chư bang,
Lòng tham của họ được toàn hay chăng?
Tu cho rõ cuộc sơn băng,
Xem coi ác thú lung lăng bực nào?
Tu cho mấy gã ba Tàu,
Khiếp oai Nam Việt hết vào lăm le;

350.Tu xem ngoại quốc tàu bè,
Dàn ngoài mặt biển để lòe mắt nhau.
Tu coi lưỡng hổ phong giao,
Hai con chẳng một con nào tồn sanh;
Tu xem lũ cáo đua tranh,
Giành mồi trong bẫy lụy mình thương đau.
Tu cho lan huệ anh đào,
Hổ hang vẻ đẹp úa xào khô khan;
Tu coi vạn quốc chư bang,
Đến khi mạt lộ vái van Phật Trời.

360.Chừng ni mới được thảnh thơi,
Cha con hòa hợp đạo đời quang minh;
Nay còn đầy dẫy yêu tinh,
Hữu hình giặc giã, vô hình ốm đau.
Trong cơn trà trộn vàng thau,
Mạnh ai nấy lựa phải màu thì mua;
Chừng nào có Phật có Vua,
Thì là tà quỉ như cua gãy càng.
Bá gia phải rán sửa sang,
Để cho Tiên Phật mượn thoàn bơi đua;

370.Thoàn trơn be chắc ăn vùa,
Ván hư cong mục thì thua sạch tiền.
Nói cho ai nấy sớm chuyên,
Để khi đến việc đừng phiền rủi ro;
Tu mà còn tánh so đo,
Một đồng một chữ không cho người nghèo.
Chừng khi gặp nạn hùm beo,
Chạy thôi trối chết không đeo một đồng;
Còn e mạng nọ khó phòng,
Lựa là ôm giữ vàng vòng được đâu.

380.Biết thân thì sớm lo âu,
Tu nhơn tích đức mới hầu toàn thây;
Làm lành được phước đến ngay,
Tin rằng báo ứng luật nầy chẳng ngoa.
Thấy chăng từ lớp ông bà,
Sanh tiền cũng sắm cửa nhà điền viên;
Vật nầy của nọ huyên thiên,
Chừng khi thác xuống huỳnh tuyền tay không.
Phước thay con cháu tưởng lòng,
Bàn linh phụng tự hương nồng hoa thơm;

390.Tới ngày kỷ niệm quải đơm,
Bưng lên đem xuống cá cơm nguyên tiền.
Dầu cho của để trăm thiên,
Cũng làm như vậy gọi yên đấy rồi;
Thế mà lúc sống ối thôi !
Hơn thua từng chút lỗ lời từng ly.
Sao bằng nối chí Từ Bi,
Treo gương trung liệt vậy thì khắp nơi;
Kẻ mê dạy dỗ đủ lời,
Nọ đường đạo nghĩa kia nơi ân tình.

400.Rút trong Phật lý Thánh kinh,
Răn đời tự sửa lấy mình sạch trong;
Dạy người mình phải làm xong,
Thì ai dám có lời ngông với mình.
Thấy người đau yếu động tình,
Thuốc men cho đó trị lành bịnh căn;
Gặp người đói kém cho ăn,
Hoặc bằng bánh trái, hoặc bằng gạo cơm.
Miễn sao kẻ được no mồm,
Ấy là phước mọn mà thơm muôn đời;

410.Thấy ai rách rưới tả tơi,
Cũng nên bố thí cho người vải bô.
Dầu cho dân Mọi dân Hồ,
Cũng nên lấy chữ Nam Mô thương đồng;
Những khi thí của giúp công,
Ta nên dứt hẳn tấm lòng biệt phân.
Cũng không đợi kẻ trả ân,
Chẳng mong ai biết chẳng cần ai khen;
Giàu sang như kẻ nghèo hèn,
Ngã nhơn không chấp lạ quen chẳng nài.

420.Miễn sao đem của thí tài,
Giúp người được việc đâu nài gần xa;
Thương người nào khác thương ta,
Được lòng như vậy hẳn là Phật Tiên.
Có tâm chơn thật lương hiền,
Nỡ đâu gây oán kết phiền thế gian;
Từ đây nấu lọc tim gan,
Chung thân chỉ một con đàng mà thôi.
Mặc ai nay lở mai bồi,
Phận mình sống thác một lời sơn minh;

430.Sá chi một lũ yêu tinh,
Làm cho xao xuyến chơn tình hiền nhơn.
Dẫu người có phụ nghĩa ơn,
Thì ta cũng rán xử thân vuông tròn;
Nếu không rồi phận tôi con,
Ắt ngày chung cuộc hết còn nhìn ai.
Lạ gì những đứa tà tây,
Quá tham chung đỉnh đổi thay tấm lòng;
Khuyên ai chớ đắm rượu nồng,
Nó hay khiến kẻ cuồng ngông tinh thần.

440.Cũng đừng đắm sắc mê nhân,
Sa vào ắt phải khổ thân chẳng cùng;
Lắm khi vì nó bất trung,
Gây ra nhiều việc vô cùng nhuốc nhơ.
Mẹ cha quên việc phụng thờ,
Cũng do ô nhiễm đào mơ phần nhiều;
Biết bao cửa nát nhà tiêu,
Cũng vì cờ bạc với điều phấn son.
Cá kia ham miếng mồi ngon,
Mắc câu vướng lưới hết còn nghêu ngao;

450.Lắm khi vì chút sắc màu,
Nỡ đành dứt nghĩa đồng bào đệ huynh.
Ai ơi ! Sớm lặng sóng tình,
Rán trau đức hạnh cho mình quí cao;
Lửa đâu chẳng thấy âm hao,
Nó hay thiêu đốt anh hào rã tan.
Phải chăng lửa ẩn tim gan,
Chờ khi có dịp cháy tràn châu thân;
Nó hay xúi việc loạn luân,
Quên câu phụ tử quân thần tôn ti.

460.Nhắn ai muốn vẹn đạo nghì,

Không nên nhen nhúm làm chi lửa lòng;
Những điều hút sách cũng không,
Lỡ khi ghiền gập dằn lòng bỏ đi.
Người đời khổ thảm sầu bi,
Bởi chưa ra khỏi phủ vi bốn tường ;
Như ai nhứt nguyện một đường,
Sắc, tài, tửu, khí lòng thường tránh xa.
Lâm chung cõi Phật được qua,
Sanh tiền quỉ phục với là thần khâm;

470.Tai nàn cũng ít khi lâm,
Bởi nhờ được có cái tâm tốt lành.
Bốn ma chẳng dám hoành hành,
Ba đường ác đạo tan tành sạch không;
Xuống lên chìm nổi cõi hồng,
Tại vì nghiệp báo với lòng mê si.
Định thần để trí nghiệm suy,
Thấy trong dương thế có gì sướng vui;
Biết thời chi xiết ngậm ngùi,
Không hay không hiểu lo vui lo mừng.

480.Chẳng lo lập đức lập nhân,
Cẩn ngôn cẩn hạnh cho gần Phật Tiên;
Mảng lo bổng lộc tước quyền,
Đến khi ngộ nạn đâu yên thân phàm.
Đâu bằng nương cửa già lam,
Trên thừa ân Phật dưới làm nghĩa Vua;
Chẳng màng tiếng nói hơn thua,
Cũng không lanh lợi chanh chua với người .
Gái khôn lựa tiếng nói cười ,
Khéo nghề chắc nết vàng mười khó qua;

490.Trai lành thờ mẹ kính cha,
Trọng Thầy tưởng Chúa ai mà dám đương.
Những khi chơn bước ra đường,
Biết tôn cô bác biết nhường chị anh;
Chẳng nên bước lấn ngồi tranh,
Cũng đừng nói tỏi nói hành với ai.
Thấy hiền nên nhớ vãng lai,
Gặp hung phải sớm tránh ngay chớ gần;
Phải luôn lấy nghĩa trau thân,
Dẫu cho nghèo đói tâm thần đừng phai.

500.Tuồng đời như trở bàn tay,
Trưa nầy lại với trưa mai khác rồi;
Mấy khi gốc mục nên chồi,
Hết cơn bĩ cực đến hồi thới lai.
Mảng trông bắc khuyết tây đoài,
Hết hồi u ám đến ngày quang minh;
Trúc mai giá lạnh còn xinh,
Ngọc son dễ đổi được tình lắm sao.
Bến xưa thoàn cũ đã vào,
Duyên kia đượm thấm nỡ nào rẽ đôi;

510.Đau lòng tớ lắm Thầy ôi !
Lẽ đâu ôm chí mãi ngồi trông sao.
Một phen nhảy được khỏi rào,
Mới là thỏa chí mận đào ước mơ;
Ngóng trông từng phút từng giờ,
Tướng binh thỏn mỏn nước cờ chưa ăn.
Khổng Minh xưa có câu rằng :
Người nguyền như vậy Trời hằng chưa cho;
Ối thôi tạo hóa hay ho,
Đông phong một ngọn thổi lò thì xong.

520.Nên hư cũng ở Thiên Công,
Có khi Trời cũng chiều lòng người ngay;
Song cơ báo ứng khó thay,
Việc mơi lại muốn bữa nay không thành.
Làm lành ắt được gặp lành,
Có khi cũng phải nhọc nhành chờ lâu;
Ai ơi : thiện ác đáo đầu,
Cũng nên bớt nỗi ưu sầu đắn đo.
Hiệp nhau tránh nạn ngao cò,
Trên Thầy vui dạ dưới trò cũng vinh;

530.Ví dầu kẻ chẳng kết tình,
Phận ta ta cứ giữ mình cho xong.
Cõi trần nhiều nỗi long đong,
Muốn cho khỏi nạn rèn lòng chánh chơn;
Tìm người lưu thủy cao sơn,
Dìu nhau đến chốn có đờn năm dây.
Chi lan một cuộc sum vầy,
Mới là bù đáp những ngày lao lung;
Sớm khuya hai chữ đại hùng,
Phá mê đương ẩn thân trung của mình.

540.Thâu cho được lũ yêu tinh,
Như con sư tử rừng xanh độc hùng;
Tuy là vào cõi mông lung,
Lòng như sen nọ dưới bùn chẳng hôi.
Cũng thân tứ đại như ngƣời,
Mà tâm sáng tỏ tựa trời mùa xuân;
Cứu đời phải dụng ứng thân,
Đặng mà phương tiện tố trần chữ tu.
Trong khi được vén ngút mù,
Thân dầu có thác như tù mãn căn;

550.Chói ngời nhứt phiến tâm băng,
Lo gì không được siêu đằng cõi Tiên.
Doanh Châu hoặc chốn Đào Nguyên,
Lòng ta nếu tưởng đến liền chẳng xa;
Kim sơn với cảnh Ngọc Tòa,
Muốn thân được dựa rán mà tỉnh tâm.
Không Làm những việc tà dâm,
Cũng không trộm cướp , thường tầm thi ân;
Hằng làm chữ đức chữ nhân,
Ngọc cung được đến Phong thần khỏi vô.

560.Ai ôi ! Chớ dạ mơ hồ,
Việc đời như cá ao khô thấy rồi;
Đường tu cứu vớt được thôi,
Nẻo trần khó tránh làm mồi yêu tinh.
Muốn cho kiến hiệu anh linh,
Nhứt tâm theo dõi lộ trình Thần Tiên;
Tiêu trừ sạch hết các duyên,
Mượn câu đại lực cổi phiền Tông môn.
Trấn an thần trí linh hồn,
Ngồi thoàn bát nhã phi bôn cứu trần;

570.Quản chi khổ xác lao thân,
Miễn sao cứu được khách trần đấy thôi.
Bao nhiêu hoặc nghiệp sạch rồi,
Sống không lụy kiếp thác hồi Thanh tiêu;
Ước mơ thời buổi Thuấn Nghiêu,
Nam phong thảnh thót nhạc thiều du dương.
Hiến thân nơi chốn đạo trương,
Học đòi Hứa Chủ theo gương Di Tề;
Chẳng ham phú quí vinh huê,
Không màng đến việc khen chê của người .

580.Lòng mình chẳng chút hổ ngươi,
Đó là cũng được vui tươi lắm rồi;
Đừng theo giọng nói ngoài môi,
Của phường buôn đứng bán ngồi người ta.
Thấy đời muốn ứa ruột rà,
Ngoài mang lốt Phật, trong là yêu tinh;
Đầu môi uốn lưỡi đưa tình,
Đáy lòng nham hiểm luật hình khó tra.
Muốn cho mình được vinh hoa,
Bày mưu gạt gẫm người ta đủ điều;

590.Sợ cho qua Nại Giang Kiều,
Cọp vồ sấu nuốt rã tiêu xác hồn.
Chớ nên ỷ thế lanh khôn,
Phải lo tích thiện để tồn hậu lai;
Tiền trần nào khác sương mai,
Phất phơ ngọn cỏ gió vay rã rời.
Bồng lai tốt lắm bớ đời,
Ai người có rảnh sang chơi sẽ tường ;
Động trung phong cẩn thiên hương,
Hào quang ngũ sắc kiết tường đẹp thay.

600.Trên cành hạc ré công bay,
Dưới bồn hoa kiểng mặt mày xanh tươi;
Gió rung như hé nụ cười ,
Tựa đoàn cung nữ sân Trời múa ca.
Rỡ ràng trăm thức trăm hoa,
Hương bay ngào ngạt gần xa nực nồng;
Các Tiên da trắng gót hồng,
Nghi dung đẹp đẽ oai phong lạ thường .
Mỗi Tiên mỗi có mùi hương,
Không già không bịnh phi phương vô cùng;

610.Đồ ăn vừa đến khẩu trung,
Thơm tho xiết kể miệng dùng thao thao.
Phàm gian dầu kẻ sang giàu,
Gân nai tai gấu dễ nào cho qua;
Cả kêu nầy bớ bá gia,
Lánh thân khỏi chốn nê hà sớm đi.
Phật đài Tiên phủ hồi qui,
Đằng vân giá võ còn chi sánh bằng;
Gần ngày hội các linh căn,
Phải toan liệu sớm cho bằng người xưa .

620.Chí tâm nguyện sớm chiều trưa,
Cầu trên Tiên Phật phước thừa rưới ban;
Thế gian chẳng nhiễm thế gian,
Cũng không xiên xỏ hành tàng của ai.
Trót đem thân hiến Phật đài,
Nguyện làm đẹp mặt nở mày Tổ Tiên;
Lấy câu nhơn quả làm nguyên,
Trái oan chớ kết nghiệp phiền đừng gieo.
Hột châu mười tám liền đeo,
Thường ngày cố gắng khỏi đèo yêu ma;

630.Trừ xong thập bát cửa tà,
Bước vào chánh điện thấy mà Phật Vương.
Ối thôi bát ngát ngũ hương,
Đến đây mới hết lầm đường chông gai;
Thảm thương những kẻ đứng ngoài,
Bị loài ma quỉ xéo giày đảo điên.
Thương đời tróc nguyệt hồ viên,
Đăng sơn mích thủy luống phiền uổng công;
Thế gian có Phật tại lòng,
Sao còn nghi kỵ mà không kiếm tầm.

640.Khác hình đâu có khác tâm,
Hồng non hồng chín chớ lầm hai cây;
Tội sanh ở tại lòng nầy,
Thì là phước cũng tâm đây khởi hành.
Ngộ rồi bất diệt bất sanh,
Còn mê thay dạng đổi hình chuyển luân;
Tử sanh nghiệp báo xoay vần,
Thánh phàm khác chỗ kẻ đần người ngoan.
Cũng đồng ở cõi thế gian,
Kẻ vùi một góc, người nhàn bốn phương;

650.Hai điều một ghét một thương,
Ngục môn cũng đó thiên đường cũng đây.
Từ bi nếu có về tây,
Hung hăng ở lại đọa đầy phàm gian;
Tục trần chừng hết cưu mang,
Nương theo Bảo cái thẳng đàng về Tây.
Cuộc đời biến đổi ngộ thay,
Người khôn trở dại cá bay chim trầm;
Trớ trêu máy tạo khó tầm,
Chợ đời khúc chiết ngán ngầm xiết bao.

660.Kho kinh sớm lục chiều sao,
Trưa về Bửu Tự, tối vào Ngọc môn;
Tập cho giọng nói ôn tồn,
Lời vang đến Phật tiếng đồn đến Vua.
Việc đời đâu nệ hơn thua,
Miễn tròn Minh Đức lại vừa Tân Dân;
Đăng tâm một ngọn sáng trưng,
Lên non cũng dễ vào rừng khó chi.
Giồi trau cho hết vít tì,
Giá cao bán đắt mỗi kỳ chợ đông;

670.Chí tình tưới kiểng trồng bông,
Khó khăn dẫu lắm với lòng cũng vui.
Chừng nào huê nở trái muồi,
Ấy là đến lúc an vui miên trường ;
Nay buồn giống quí đã ương,
Gặp cơn nắng hạn dân lương khốn nghèo.
Đầu sàng điển tích mốc meo,
Mấy ai gối sách để treo gương hiền;
Làm cho người cổ luống phiền,
Phiền đời trọng bạc trọng tiền nhiều hơn.

680.Cũng vì phụ nghĩa vong ơn,
Trong trần có cuộc oán hờn đao binh;
Buồn ai có lỗi chẳng nhìn,
Thấy người làm phải không kình học theo.
Buồn ai quá đỗi rít keo,
Không lòng bố thí kẻ nghèo một trinh;
Buồn ai thấy kẻ hơn mình,
Chẳng mừng thì chớ lại tình ghét vơ.
Buồn ai được biết thời cơ,
Mà không tu tỉnh đặng nhờ thân sau;

690.Buồn ai mỏi mệt hồi nào,
Nằm đâu ngủ đó tiêu hao tinh thần.
Buồn ai quá trọng xác thân,
Chiều theo lục dục bất cần nhục vinh;
Buồn ai sôi nổi sóng tình,
Nhận tà làm chánh muôn nghìn tối tăm.
Buồn ai lòng quá hiểm thâm,
Thấy người có lỗi bụng thầm giận gay;
Buồn ai việc quấy không bày,
Cứ đem chuyện phải khoe tài vang rân.

700.Buồn ai lấy oán đáp ân,
Cang thường đảo ngược lý luân xiêu càn;
Buồn ai khi được giàu sang,
Nỡ quên những lúc bần hàn khi xưa .
Buồn ai hẹn sớm quên trưa ,
Nói rồng vẽ rắn nói chừa lại không;
Buồn ai xử việc bất công,
Chẳng còng kẻ tội, lại còng người ngay.
Buồn ai khinh nghĩa trọng tài,
Người dưng giàu trọng hơn rày bà con;

710.Buồn ai quá đỗi cúi lòn,
Đem thân đổi vật hết còn giá danh.
Buồn ai lên bực công khanh,
Vội vong những thuở chòi tranh sập sình;
Buồn ai xuống núi lộng tình,
Phụ lời sơn thệ trụ hình đáng ghê.
Buồn ai mỹ sắc quá mê,
Thành trì nghiêng ngửa xứ quê tiêu điều;
Buồn ai vội trách lão tiều,
Đến sau tự tử mang điều nhuốc nhơ.

720.Buồn ai vội giận bạch thơ,
Đâu dè đến việc bất ngờ thành công;
Buồn ai quá bén hơi đồng,
Không bì được kẻ mang vòng thuở xưa .
Buồn ai vội ghét vội ưa,
Nói làm chẳng lọc không lừa giả chân;
Buồn ai phải quấy chưa phân,
Vội vàng nói quỉ nói Thần chê khen.
Buồn ai phân biệt lạ quen,
Không gây tình cảm có hèn hay chăng?

730.Buồn ai khi nói khi rằng,
Thiếu điều lễ độ chẳng hằng ngữ ngôn.
Buồn ai tự ỷ lanh khôn,
Không nhường kẻ nhỏ chẳng tôn người già;
Buồn ai miệng niệm Di Đà,
Mà lòng chẳng giống mới là buồn hơn.
Từ đây việc khổ chập chờn,
Bá gia khuyên hãy mau chơn tu hành;
Học theo người cổ hiền lành,
Làm nghề chánh đáng dưỡng sanh hằng ngày.

740.Mẹ cha ở thẳng ăn ngay,
Khiến cho con cái học đây mà làm;
Tại nhà giới ngũ qui tam,
Từ trên chí dưới rán làm cho y.
Làm trai trung nghĩa nhớ ghi,
Sống thơm danh khí thác qui Phật Thần;
Gái thời hiếu hạnh ân cần,
Dưng cơm vùa nước ấy phần nữ nhi.
Nết na phải được nhu mì,
Đứng đi duyên dáng phương phi dịu dàng;

750.Nói năng thauw dạ đàng hoàng,
Chớ đừng bốc hốt bướng càn không nên.
Làm chi cũng đợi lịnh trên,
Lời cha mẹ bảo việc nên rán làm;
Cửa nhà dọn dẹp cho kham,
Không nên để bẩn đừng làm bề nhê.
Vá may nấu nướng mọi bề,
Phải cho kỹ lưỡng chỉnh tề khéo ngon;
Có chồng khi đã có con,
Manh quần tấm áo mất còn phải lo.

760.Lúc con biết lật biết bò,
Khi nằm giấc ngủ phải lo canh chừng;
Uống ăn làm mẹ phải cần,
Tránh cho con khỏi lây phần bịnh căn.
Khi con vừa biết nói năng,
Dạy lời hiền đức, phải ngăn lời tà;
Như nào con mẹ thằng cha,
Cấm không được phép dạy ra lời nào.
Chửi thề mắng nhiếc hỗn hào,
Phận làm cha mẹ đón rào luôn luôn;
Lại thêm tiểu thuyết thơ tuồng,

770.Đó là loại sách quay cuồng mê ly.
Dễ làm hại kẻ thiếu nhi,
Phải nên cấm tuyệt khuyên thì chớ xem;
Mỗi người khi có con em,
Rán trau chữ đức, cần đem chữ hiền.
Phải luôn trọng nghĩa khinh tiền,
Ắt là thân tộc, gia viên thuận hòa;
Đâu hay xáo thịt nồi da,
Cũng không chẻ đũa cất nhà nữa đâu.
Tổ tông khỏi nỗi buồn rầu,

780.Mẹ cha cũng được một bầu vui say;
Có câu bất phú hoạnh tài,
Mưu thâm họa diệc chớ xài của rơi.
Đây nầy bá tánh hỡi ơi,
Ta không hề có một lời xưng hô;
Kiểng nhà bụi héo bụi khô,
Phải đem nước mắt tưới vô đỡ cành.
Phận ta đạo lý chưa rành,
Khi Thầy vắng mặt đâu đành ngó lơ;
Nói ra hoặc viết giảng cơ,

790.Khuyên nhau kẻo để lu mờ đạo tâm.
Ví như lời có sai lầm,
Cũng nên tha thứ chớ tâm ngạo cười ;
Nhược bằng nhận lẽ tốt tươi,
Đây xin khuyên đó mỗi người rán ghi.
Ở nhà cố tưởng Hương Kỳ,
Dầu đi xa cũng nhớ thì Bửu Sơn;
Ngàn đời mới gặp một cơn,
Long Hoa tại thế Thượng Nguơn hiện tiền.
Quí thay sanh chúng hữu duyên,

800.Tu thời có Phật, trung liền có Vua;
Đào tiên sớm chẳng lo mua,
Để khi tan chợ, hết mùa làm sao?
Thấy nguy thì sớm bôn đào,
Chần chờ thọ khổn xé rào khó thay;
Than ôi ! Việc loạn chiều mai,
Biết sao chấm dứt cho khuây nỗi lòng.
Trải qua lụt ngập tràn đồng,
Cỏ cây tróc gốc trống không cửa nhà;
Cũng nhờ phép Phật trương ra,

810.Hộ trì lương thiện đặng qua buổi nàn.
Tới đây đá biết tuổi vàng,
Từ bi cũng cám, hung tàn cũng thương ;
Sống đây nhờ có nhành dương,
Tới đây nhờ kẻ giữ đường hai bên.
Việc trần thôi cũng nên quên,
Để nương cội cũ theo nền tảng xưa ;
Ế hàng đây phải ngồi trưa,
Lại còn bị nạn kẻ đừa người xô.
Tâm trần như mặt nước nhô,

820.Trách sao khỏi chuyện bán đồ nhi vong;
Quyết nêu lên một tấm lòng,
Vừa hiền vừa đức khắp trong xóm làng.
Cũng không ham phú ham sang,
Chỉ ham một chút đá vàng mà thôi;
Chẳng ham khi lở khi bồi,
Bốn mùa một sắc suốt đời một hương.
Nếu không làm được cột rường ,
Cũng treo gương thiện phố phường khắp nơi;
Nghe chi giọng nói ngạo đời,

830.Của phường vong bổn, của loài vô liêm.
Lòng ta sẵn có tự khiêm,
Không hề quèo móc, chẳng tìm lỗi ai;
Vô tình người có chê bai,
Đây rồi sự thật có ngày thanh minh.
Gần nhau mới hiểu chơn tình,
Không gần đâu rõ bóng hình thể nao;
Khuyên người xem trước xét sau,
Nguồn cơn thấu đáo coi thau hay chì.
Xác ta vốn kẻ nhu mì,

840.Học hành kém cỏi phú thi sơ sài;
Thương dân dụng ý ra bài,
Nào ta có dám khoe tài chi đâu.
Chẳng qua lập luận lẽ mầu,
Của Thầy của Tổ ngõ hầu khuyên dân;
Nếu nghe thì cải sửa thân,
Ví như người chẳng có cần thì thôi.
Ta không lấy đạo làm mồi,
Gạt người mê tín để ngồi hưởng danh;
Tại lòng ta muốn chúng sanh,

850.Cùng chung lánh dữ làm lành mà thôi.
Bởi chưng đời khổ tới rồi,
Không tu ắt phải gặp hồi khổ đau;
Ta đâu nói việc tầm khào,
Cũng không ép một người nào theo ta.
Ta như đồng đạo trẻ già,
Theo Huỳnh Giáo Chủ tại gia tu hành;
Tu hồi mười sáu tuổi xanh,
Đến năm Mậu Tý xuất hành khuyên dân.
Mặc ai nói quỉ nói Thần,

860.Việc ta ta biết việc trần trần hay;
Ví người chẳng hiểu lòng nầy,
Đem lời nhạo báng cũng thây mặc người .
Sợ cho lộng ngữ phạm lời,
Đến khi mắc nạn tơi bời khóc kêu;
Thây trôi tấp nập như rều,
Kên kên quà quạ dập dìu mổ ăn.
Sợ cho ngày hết mạng căn,
Ngục hình cắt lưỡi đục răng khổ nhiều;
Nếu như người có biết điều,

870.Chẳng hề có tánh ngạo kiêu bao giờ.
Trí khôn dạy kẻ ngu khờ,
Ấy là đồng loại cậy nhờ lẫn nhau;
Trên đời kẻ thấp người cao,
Chẳng qua nghiệp trước ai nào muốn chi.
Như nay mình quá ỷ y,
Biết đâu sau sẽ ngu si hơn người ;
Từ nay bỏ tánh ngạo cười ,
Để gieo thiện cảm cho người kính yêu.
Bấy lâu tình nghĩa quạnh hiu,

880.Nay đem kết lại có nhiều vị hương;
Đừng cho đảo ngược luân thường,
Khiến người trở lại con đường thuần phong.
Tuy nay hỗn độn mặc lòng,
Nhưng mà vàng nọ với đồng khác xa;
Muốn tri ai chánh ai tà,
Nên xem hạnh đức với là hành vi.
Nói làm hai lẽ nếu y,
Ấy là chơn chánh có gì lạ đâu;
Lại thêm phú quí không cầu,

890.Oai quyền chẳng bợ công hầu chẳng bưng.
Ai khen chẳng tỏ vẻ mừng,
Dầu ai chê nhạo chưa từng giận ai;
Cũng không khoe giỏi khoe tài,
Những người như vậy mới rày chánh chơn.
Ngoài không cảm nhiễm sắc trần,
Trong không loạn động vị phần thanh cao;
Cái tâm không sắc không màu,
Rất nên mầu nhiệm chỗ nào sánh hơn.
Muốn cho rõ mặt chơn nhơn,

900.Trở về bổn tánh nguồn cơn sẽ tường ;
Đó là chơn tịnh chơn thường,
Giả trần muôn việc khó đương đặng nào.
Muốn đền cúc dục cù lao,
Tìm châu như ý đáp vào mới xinh;
Lại còn thừa sức mầu linh,
Độ cho bá tánh khổ hình khỏi mang.
Ai ôi ! Mích thủy tại giang,
Trông gươm tìm bóng bị màn vô minh;
Ngàn muôn kiếp chịu linh đinh,

910.Cũng do nhận bóng làm hình mà ra.
Lấy thân ngũ uẩn làm ta,
Khởi lòng chấp ngã tạo ra các trần;
Quả sanh gốc tại nơi nhân,
Xuống lên lên xuống dần lân mãi hoài.
Mê man trong giấc mộng dài,
Mở lời kêu réo bớ ai tỉnh hồn;
Hiệp nhau về đến Kim Môn,
Trước chầu Đức Phật sau tôn Chúa hiền.
Chậm chơn ngược nước trễ thuyền,

920.Bơ vơ cảnh khổ thảm phiền lắm đa;
Chừng nào nhiều quỉ nhiều ma,
Lớp kêu lớp hú thiết tha trăm phần.
Mau tu bớ cả chúng dân !
Mấy khi có cuộc tẩy trần vầy đây;
Nay tu có PhậtThầy,
Có Vương có tướng hội nầy dễ tu.
Hạ Nguơn Trời Phật thả tù,
Niệm Phật một tiếng Phật bù mười câu;
Từ bi lòng quá rộng sâu,

930.Nếu không tu niệm đáo đầu hết trông.
Lời khuyên đem tận đáy lòng,
Không nghe chừng khổ mới hòng làm sao?
Nạn tai nhơn loại đồng bào,
Nếu ta thế được ta nào tiếc thân.
Cho nên Tiên Phật xuống trần,
Giảng cơ thúc hối thứ dân tu hành;
Tu cho rõ phép Trời xanh,
Dời non đổi biển tài lành ai đương.
Đoài cung với cửa bắc phương,

940.Nhiều điều mầu nhiệm khó lường lắm ôi;
Ruộng sâu trở lại mọc đồi,
Núi non sau lại phản hồi điền lương.
Phật Trời cảm đức Minh Vương,
Khiến cho quốc thủy cang cường ai hơn;
Vua tôi giữ nghĩa giữ nhơn,
Trên lòng hiền đức dưới thân nhu hòa.
Sau đây Phật ngự Ta Bà,
Hào quang ngũ sắc nơi tòa Kim Liên;
Ngày sau thiệt nợ thiệt duyên,

950.Bây giờ oan trái tiền khiên xoay vần.
Rán tu qui Phật qui Thần,
Hoa liên bạch ngọc phước phần Trời ban;
Hồng trần danh vị cao sang,
Khác nào bông bí trên giàn phất phơ.
Nay vinh mai nhục đâu ngờ,
Trước phàm sau Thánh một giờ thì nên;
Cái chi không tuổi không tên,
Vẫn tròn vẫn sáng vẫn bền biết chưa ?
Lánh rồi cái ghét cái ưa,

960.Gặp ông Đại giác thượng thừa tối cao;
Ông ôi ông ở chốn nào,
Khi ra không mối, khi vào không manh.
Từ trên thượng cõi ông sanh,
Hay từ hạ giái nổi danh tới giờ;
Tầm ông phải viết bằng thơ,
Hay là bằng cái mó rờ hả ông?
Tai nghe một tiếng chuông đồng,
Ở ngoài vào đó, trong lòng mà ra;
Trẻ mang một cặp kiếng già,

970.Trách sao lại bị mắt lòa như mây.
Như ai muốn rõ đoạn này,
Bưng tô nước uống được khuây tấc lòng;
Lời khuyên chẳng phải nói ngông,
Bá gia suy nghiệm để lòng mà coi.
Xác trần chữ nghĩa ít oi,
Vì lòng thương mến giống nòi mới phân;
Rán mà tu bớ nhân dân,
Cây khô còn gốc vun phân đâm chồi.
Một khi cửa thiện phản hồi,

980.Bao nhiêu nẻo ác phủi rồi sạch không;
Cũng như nước nọ trong sông,
Gió vay đã hết sóng bồng cũng tan.
Việc công việc đức hai đàng,
Làm người hiểu đạo phải toan cho đồng;
Mỗi khi gặp việc buồn lòng,
Ngồi an niệm Phật sẽ hòng thoát qua.
Người gây ta cứ việc hòa,
Lửa kia gặp nước thì là tắt mau;
Hung hăng đem đổi hỗn hào,

990.Ắt là sanh sự tranh nhau hãi hùng.
Xác trần giữa chốn lao lung,
Không lo tìm cách vẫy vùng hay sao?
Ngày giờ thấm thoát qua mau,
Cuộc đời càng thúc ồ ào bên lưng.
Bánh xe tạo hóa chưa ngưng,
Bá gia phải rán ân cần lo tu;
Hiệp tâm phá nát ngục tù,
Hết còn nhầm nhận như mù rờ voi,
Rán tu được sống mà coi,

1000.Coi nền hạnh phúc giống nòi Rồng Tiên;
Tài hay võ giỏi khắp miền,
Hội nầy báu quí vô biên bớ người .
Tu hành hiền đức tốt tươi,
Dầu cho bạc bảy vàng mười khó qua;
Nhủ khuyên lớn nhỏ trẻ già,
Một lòng theo Phật đến tòa Hoa Liên.
Như ai ăn ở lương hiền,
Đúng theo đạo lý Phật liền độ cho;
Gặp cơn ách biến gay go,

1010.Cũng nhờ phép nhiệm khỏi lo lụy mình.
Bá gia chớ có lộng tình,
Làm điều bất chánh ngục hình đọa sa;
Khắp nơi địa võng thiên la,
Việc trần khó giấu Chương tòa đặng đâu.
Cũng đừng tưởng việc còn lâu,
Trước sau một khắc địa cầu rung rinh;
Ầm ầm sấm nổ liên thinh,
Cát bay đá chạy thình lình không hay.
Hùm beo tây tượng muôn bầy,

1020.Mình đồng gan sắt thấy vầy cũng ghê;
Bầu trời sấm chớp ủ ê,
Khắp trong nhơn vật đê mê lạnh lùng.
Ông Điên lại với ông Khùng,
Đến đây bá tánh rùng rùng réo kêu;
Thiên binh Thần tướng dập dều,
Lớp thì cầm búa xách rìu thấy kinh.
Chừng ni chúng mới giựt mình,
Làm sao tránh khỏi khổ hình đến nơi;
Dầu cho vái Phật cầu Trời,

1030.Phật Trời cũng chẳng cứu người hung hăng.
Thương người giả đạo giả tăng,
Ngày kia khó tránh cọp chằn nuốt thây;
Bá gia hãy rán nhớ đây,
Tại nhà niệm Phật tưởng Thầy thêm lên.
Chừng ni sấm nổ vang rền,
Được còn nhớ tuổi nhớ tên mới mầu;
Rán tu thấy việc huyền sâu,
Tướng binh mặc bộ sòng nâu nhịp nhàng.
Thẳng đường tới phụng hoàng san,

1040.Long triều hổ bái sắp hàng oai nghiêm;
Hồng quang sơn đảnh ứng điềm,
Hướng bay ngào ngạt cổ kim chưa từng.
Véo von trên khoảng nửa lừng,
Hát ca đờn địch chúc mừng Thánh Vương ;
Hội nầy thấy rõ Kỳ Hương,
Kẻo lòng khao khát chưa tường ra sao.
Bá gia sớm thức với nào,
Nửa đường bỏ dở làm sao cho thành;
Kỳ nầy Phật dạy chúng sanh,

1050.Nếu không hướng thiện phải đành tận tiêu.
Đò đưa một chuyến cuối chiều,
Trễ chơn phải huốt ai điều độ cho;
Hồng trần khuyên hãy sớm lo,
Đời không xa nữa tu cho kịp kỳ.
Lời khuyên Thanh Sĩ nhu mì,
Bá gia còn có ngại nghi chỗ nào?
Biết thân thì sớm liệu mau,
Để khi chung cuộc dễ nào ăn năn.
Lội qua biển khổ nhớ rằng,

1060.Hễ đeo vật nặng nó trằn chìm luôn;
Trở về cội cũ muốn suôn,
Giàu sang danh vọng phải buông cho rồi.
Thương nhau giục thúc từng hồi,
Không nghe ắt phải làm mồi hùm beo;
Mặt hồ nước lóng trong veo,
Bóng trăng tha thướt như neo đáy hồ.
Tu như thể lập cơ đồ,
Binh nhung cũng đủ qui mô cũng đều;
Giao chinh sáu giặc trong lều,

1070.Trừ xong thần trí hưởng điều an cư.
Muốn xem được tánh chơn như,
Phải nên phản chiếu từ từ thấy ngay;
Tu hành phải được dẻo dai,
Nắng mưa chẳng quản chông gai không sờn.
Một lòng khắn chặt keo sơn,
Nếu như được vậy có cơn đắc thành;
Hỡi nầy cô bác chị anh,
Cuộc đời khác thể chỉ mành treo chuông.
Khắp nơi như cọp xổ chuồng,

1080.Dân gian lo việc tầm ruồng không xong;
Rán mà mài miệt tấm lòng,
Tu cho gặp hội Mây Rồng rạng danh.
Sao không hổ phận mày xanh,
Quốc vương chưa vẹn gia đình chưa xong;
Nếu chưa tiện gánh tang bồng,
Cũng là chuẩn bị cho lòng hùng anh.
Ngồi trơ bó gối sao đành,
Đời người bỏ lấp đạo lành ngó lơ;
Đọc qua sự tích truyện thơ,

1090.Thẹn người sông Bạch, hổ cờ núi Lam.
Không bì ông Khổng, ông Đam,
Cũng theo ông Địch, ông Nhan cho bằng;
Lỡ mang lấy sợi xích thằng,
Đừng cho ràng rụa díu dan được mình.
Động lòng nửa giấc chuông thinh,
Tưởng chùng cái kiếp phù sinh lẹ làng;
Khi xem mây trắng trên ngàn,
Nỗi niềm tử lý bàng hoàng nhớ nhung.

1100.Bày ra có hiếu có trung,
Rán trau kẻo để lạnh lùng khó coi;
Rồng Tiên cốt chỉ giống nòi,
Phải làm kẻ mến người soi để lòng.
Tùy duyên phải nói dài dòng,
Mặc tình chọn lựa không lòng ép ai;
Đạo người bảo trọng thảo ngay,
Đạo Tiên đạo Phật cảm hoài từ bi.
Than ôi ! Đạo chẳng hạn kỳ,
Đời nào cũng vẫn dạy thì người tu;

1110.Chừng khi thoát đọa diêm phù,
Mới là toại nguyện chữ tu của người .
Thế mà lắm kẻ biếng lười ,
Chỉ tu lấy có, ít người siêng năng;
Hoặc là lúc mới thì săn,
Cũ rồi lại chán đạo hằng ngó lơ.
Chơn tâm luống để lu lờ,
Đạo mầu chẳng tỏ thiên cơ không tường ;
Khác nào bụi đóng trong gương ,
Mặt mày chưa tỏ nẻo đường chưa thông.

1120.Đến đây lòng bắt động lòng,
Thương người còn đắm bể hồng mê ly;
Thấy đời loạn lạc biến di,
Mà còn tửu sắc li bì say sưa .
Điều gian việc ác không chừa,
Làm sao tránh nạn giày bừa đạn bom;
Nói năng bốc xước quen mồm,
Chửi mưa mắng gió họa hờm bên lưng.
Tuồng đời nhớ đến dửng dưng ,
Cớ sao lắm kẻ lưng chừng việc tu;

1130.Khắp nơi khói lửa mịt mù,
Nước nhà đang bị ví cù thấy chưa .
Cầu Trời ban rải mốc mưa ,
Dầu ai đánh bẫy gạt lừa chẳng sao;
Cầu cho sớm dứt máu đào,
Đặng trong nhơn loại đồng bào an vui.
Cầu cho lũ giặc sớm lui,
Qui y đầu Phật nếm mùi từ bi;
Cầu cho Chúa sớm hồi qui,
Lấy nền đạo đức trị vì bốn phương .

1140.Cầu cho Thầy sớm hồi hương ,
Khiến chư bổn đạo tình thương có nhiều;
Cầu cho Thất Tổ được siêu,
Khỏi đường tội lỗi tiêu diêu Phật Đài.
Cầu cho cha mẹ an bày,
Sống thời trường thọ thác rày siêu thăng;
Cầu cho đạo hữu ni tăng,
Tánh tình hiền đức nói năng ôn hòa.
Hiểu rành đâu Phật đâu ma,
Ngõ hầu lánh trược tầm mà chốn thanh;

1150.Cầu cho gia đạo hiền lành,
Dưới trên hòa thuận học hành kệ kinh.
Cha răn con nể sửa mình,
Phụ từ tử hiếu gia đình phước duyên;
Em vưng lời phải anh khuyên,
Huynh lương đệ đễ xóm riềng ngợi khen.
Dầu cho lâm cảnh nghèo hèn,
Cũng đừng để tiếng trống kèn ngược xuôi;
Vợ hiền chồng ắt được vui,
Phu hành thê hiệu ngậm ngùi nào sanh.

1160.Bạn bè lấy chữ tín thành,
Dám khuyên chỗ quấy dám binh khi nàn;
Được cơn giàu có cao sang ,
Cũng không quên lúc cơ hàn kết giao.
Làm người vẹn trước trọn sau,
Hẳn không ai dám lời nào khinh khi;
Thầy trò chung thỉ gắng ghi,
Phép linh đâu có ngại gì chẳng trao.
Lâm chung mạng đáo Thiên Tào,
Linh hồn cũng được đứng vào bực Tiên;

1170.Tới đây tạm gác bút nghiên,
Chúc cầu bá tánh thoát miền trầm luân.
Như chưa đứng bực Phật Thần,
Cũng là được sống làm dân Thái Bình.../.

Nam Mô A Di Đà Phật

Phụ soạn ngày mùng 5 tháng 9 năm Nhâm Thìn.

Post a Comment

Cảm ơn Đạo Hữu đã đóng góp. Chúc Đạo Hữu một ngày an lạc! A Di Đà Phật