Châu Thuyết

Lời Khuyên Tu Hiền - Thanh Sĩ,Ông Thanh Sĩ,Châu Thuyết
-
Lượt Xem
CHÂU THUYẾT
( THANH SĨ )
( gồm 1197 câu)


  • CHÂU THUYẾT
  • Lời Khuyên Tu Hiền
Giữa thời đại hai mươi thế kỷ,
Cuộc xuân qua hạ chí liền tay;
Bóng quang âm khuất dạng tây đoài,
Vòng cương tỏa khói mây u uất.
Bầu nhiệt huyết sụt sôi nô nức,
Cả muôn người bực tức hỏi han;
Tại vì đâu sóng dậy đất bằng,
Lòng bá tánh ngổn ngang trăm mối.
Nhà vô chủ lửa hương bối rối,
Nước đảo huyền nhiều khối sanh ra;

11. Bắc, Trung, Nam dân tộc ngầy ngà,
Quyền hành chánh phân ra từ nhóm.
Thừa cơ hội tham ô ky cỏm,
Bọn sâu dân mọt nước tóm thâu;
Dân quê mùa nặn vọt điên đầu,
Cảnh điêu đứng thần sầu quỉ khóc.
Đám ngu dại nông phu lăn lóc,
Bị cường quyền bóc lột thương đau;
Vì thân hèn sức yếu cô giao,
Chỉ ngồi ngó lệ trào ạo ực.

21.Chịu thống khổ nghiệt cay áp bức,
Muốn đồng nhau vạch đất kêu oan;
Nhờ xét soi cho kẻ khốn nàn,
Bị ngón xảo tham quan ô lại.
Nhưng thầm tưởng tuần huờn năng cải,
Lẽ rồi đây việc phải bạch minh;
Lý nào tay độc thủ trường sinh,
Người hiền đức lụy mình nhơn thế.
Luật trời đất chí chơn công lệ,
Cũng thương giùm những kẻ khốn nguy;

31.Con thơ ngây biết trọng đạo nghì,
Lúc thế giới loạn ly tân khổ.
Cảnh tan nát nước nhà bộc lộ,
Dạ còn e lưỡng hổ tương tranh;
Hơn thua nhau xơ xảy cỏ xanh,
Chịu ảnh hưởng vùng quanh thế hệ.
Đêm ngồi nghĩ ngậm sầu nuốt lệ,
Con lạc cha thân thể héo von;
Lệ tràn mi cân não mỏi mòn,
Phân hai ngã đầu non góc bể.

41.Phải con đặng nhẹ nhàng thân thể,
Nhơn loài chim thúy điểu non xanh;
Bay khắp nơi tầm kiếm cha lành,
Được hội ngộ phỉ tình trông nhớ.
Lúc nguy biến cửa nhà tan vỡ,
Chịu tai bay họa gởi nhiều bề;
Cảnh điêu tàn dạ trẻ ủ-ê,
Hằng khẩn vái cha về mau chóng.
Hầu sáng tạo mở khai nền móng,
Khỏi nhuốc nhơ hư hỏng tấm lòng;

51.Hằng giữ gìn mỹ tục thuần phong,
Theo cách thức tổ tông truyền dạy.
Nay sự nghiệp tan tành hư hoại,
Những cơ đồ biến cải khuynh nguy;
Chưng vì con cách phụ lìa sư,
Đành phế bỏ gia cư tan nát.
Buổi tha hương thân nầy phiêu giạt,
Tớ xa Thầy lỗi lạc bơ vơ;
Giữa canh thâu lặng lẽ như tờ,
Ngoài thỏ bạc thẩn thơ trêu ghẹo.

61.Hình mai mỉa con người bạc bẽo,
Kiếp phù sanh trời khéo đẩy đưa;
Mãi dấn thân bụi cát giày bừa,
Đêm trằn trọc ngẩn ngơ hồn phách.
Trò lạc bước ngàn mây xa cách,
Thầy phương nao thân xác mạnh chăng ?
Có gặp nhiều cảnh ngộ khó khăn,
Hay là được bình an vô sự.
Sống chung chạ với người hung dữ,
Mãnh thân vàng tư lự đắn đo;

71.Nhờ Hoàng Thiên sắp đặt hay ho,
Ngày kết cuộc Thầy trò tương ngộ.
Mở yến diên bồ đào tiệc độ,
Đồng vui say lớn nhỏ tiêu dao;
Chốn lư bồng nhược thủy thanh cao,
Đầy khoái lạc con cờ chén rượu.
Hội quần Tiên trưng bày non núi,
Cuộc tao đàn hồ hải ngao du;
Cảnh vinh quang sấu nọ hóa cù,
Khắp bá tánh an cư lạc nghiệp.

81.Mùi bát ngát kim chi ngọc diệp,
Nhà Tiên bang phảng phất hương hoa;
Cảnh thanh nhàn gần sắp diễn ra,
Cuộc tan cải nay đà dồn dập.
Muốn cứu thế sá chi nhơ nhớp,
Quyết độ đời thân xác quản bao;
Dầu xanh xanh ua úa cách nào,
Cũng chẳng kể khổ lao bịnh tật.
Miền Châu Đốc An Giang nhơn vật,
Chịu tai nàn trói buộc gớm ghê;

91.Cảnh thương tâm nước mắt dầm dề,
Nhìn đồng đạo thảm thê nhiều nỗi.
Đức Thầy đã xa ngàn gót trổi,
Cả tín đồ lìa lọi tay chân;
Có lắm người yểm cựu nghinh tân,
Cũng nhiều kẻ bưởi bồng thay đổi.
Mãi bắt chước theo chàng Tần Cối,
Giết Nhạc Phi Bàn Cử oan hồn;
Đời vô liêm phi nghĩa bất tồn,
Lòng Trời thế lòng dân cũng thế.

101.Dầu cho kẻ trăm mưu ngàn kế,
Chẳng công bình như thể bèo trôi;
Mạnh đến đâu cũng chẳng qua Trời,
Tuy yếu đó chiều mai mạnh đó.
Dầu tài giỏi đức lành không có,
Khác nào cây rễ mó trên khơi;
Gặp gió dông phải ngã rồi đời,
Đâu hưởng được lâu dài trên thế.
Tu nhơn đức như Lương Võ Đế,
Lập chùa chiền xiết kể tốn hao;

111.Nhưng tiền thân Ngài giết Võ Hầu,
Sau trả quả chịu câu Ngạ Tử.
Tên Hầu Kiển trước kia là khỉ,
Sau đầu thai đỗ vị Quân Sư;
Võ Đế thời kiếp trước tiều phu,
Sau trở lại làm vua chánh trị.
Biết hâm mộ tu theo đạo lý,
Được nhờ ông Phó Sĩ dắt dìu;
Thế mà oan nghiệp trước không tiêu,
Còn phải trả quả kia thảm thiết.

121.Nay đời sắp gần ngày tiêu diệt,
Sao chúng dân chẳng biết cử kiêng;
Mãi làm nhiều tội ác huyên thiên,
Đâu tránh khỏi oan khiên vay trả.
Tống Thái Tổ xưa kia cao cả,
Giết Trịnh Ân mất dạ Hoàng Thiên;
Thành Thọ Châu chịu khổn tam niên,
Luật công lý không riêng chẳng vị.
Bực Vương Đế mà còn bi lụy,
Huống thứ dân tự ỷ được đâu;
Phải sớm lo hướng thiện quày đầu,

131.Làm ác đức họa sâu đeo đắm.
Đứng trung nghĩa miễu son tượng chấm,
Lũ nịnh thần máu ngậm còn tanh;
Sống vì dân vì nước hy sanh,
Thác để tiếng ngợi danh hào kiệt.
Sống nịnh tặc bợ bưng đủ việc,
Chết tiếng đời mắng nhiếc liên miên;
Người chết còn sử sách ghi biên,
Cọp hủy mạng lưu truyền da cọp.
Gương Thánh Hiền ngàn đời bái mọp,

141.Nhờ được tâm chánh trực trung lương ;
Biết yêu dân tâm trí lo lường,
Không lạm thực lại còn liêm sỉ.
Đấng Quan Thánh trung cang nghĩa khí,
Phò Lưu Huynh tận chí hy sanh;
Thất cơ binh dầu thác cũng đành,
Chữ hải thệ sơn minh gắn bó.
Nơi đào viên tam ca ngày nọ,
Nay vẫn còn ghi rõ tuổi tên;
Hỡi bá gia gương cổ đừng quên,

151.Miền lục tỉnh vang rền Trung Trực.
Số côi cúc cha già sớm khuất,
Một cành huyên còn chút náo nương;
Mẹ Ngài hằng bói quẻ âm dương,
Được lịch lãm văn chương nho học.
Nơi Nhựt Tảo Tân An căn gốc,
Thạo lưới chài gia thất đơn sơ;
Lòng trung cang dõng mãnh ai ngờ,
Thuở Tự Đức cõi bờ chinh lở.
Nguyễn Trung Trực xuất thân trả nợ,

161.Giết quân thù tan vỡ mấy phen;
Nghe danh Ngài địch thủ run en,
Lòng kiên cố nhúm nhen quyết thắng.
Đốt tàu chiến quân thù hỏng cẳng,
Sau thầy tăng bắt đặng mẹ Ngài;
Lòng muốn cho trung hiếu vẹn hai,
Về chuộc mẹ bó tay đền mạng.
Đám quân Pháp dụ Ngài quá đáng,
Nếu qui đầu phong đặng tước quyền;
Ngài cho rằng cái chức giết Phiên,

171.Chớ chẳng muốn tước quyền chi khác.
Dụ không đặng quân thù giết thác,
Tuy chết rồi man mác hồn thiêng;
Nay vẫn còn lịch sử ghi biên,
Danh Trung Trực vang miền Nam Việt.
Tuổi thơ ấu đủ đầy khí tiết,
Lòng trung quân ái quốc tràn trề;
Hỡi thanh niên ngước mắt ngó về,
Miền Rạch Giá tấm bia còn đó.
Phải cương quyết soi gương hùng võ,

181.Đầy thanh liêm chớ có ô danh;
Luận việc đời cho rõ ngọn ngành, N
hắc sơ tích nhơn sanh tường lãm.
Đặng nhờ đó đem lòng hoài cảm,
Có tu hành nhàm chán lợi danh;
Kể từ ngày lố dạng Sĩ Thanh,
Miền Châu Đốc chỉ rành đường lối.
Khi vắng mặt Đức Thầy tăm tối,
Giục giã người phấn khởi tu hành;
Miệt Cái Dừng kêu réo nhơn sanh,

191.Lời chỉ bảo đệ huynh tha thiết.
Làng Phú Lâm, Long Sơn bày thiệt,
Rằng Hạ Nguơn tận diệt từ đây;
Phật Thánh Tiên xuống thế đông dầy,
Lo dạy dỗ gái trai chưa tỉnh.
Phải ăn ở gìn theo đạo hạnh,
Thói hư hèn bá tánh bỏ đi;
Đất An Giang biến đổi lạ kỳ,
Rán tu tỉnh gặp khi xuất Thánh.
Nhưng cần mẫn trau giồi tâm tánh,

201.Nên cải tà qui chánh từ đây;
Hãy gắng ghi lời dạy Đức Thầy,
Ở chòm xóm đừng gây thù oán.
Chữ nhơn ái nơi lòng phải rán,
Hằng khoan dung đại lượng thứ tha;
Nếu như người phạm lỗi đến ta,
Biết thú nhận thì là thương xót.
Kẻ giàu có dư xài chia sớt,
Người thiếu ăn thiếu mặc khốn nguy;
Đời chiến tranh tai nạn li bì,

211.Tiền bạc chớ dành chi vô ích.
Sự yêu quí là như xác thịt,
Còn không sao biết chắc nay mai;
Ở trên đời sống thác tên bay,
Kiếp người thể chòm mây lững đững.
Cuộc tan hiệp hiệp tan vô định,
Khi sanh tiền sớm tính nghĩa nhân;
Nếu muốn tu nhứt quyết xả thân,
Lìa vật chất ái ân dẹp gác.
Lo đạo đức tâm thần uyên bác,

221.Để làm gương kẻ khác học theo;
Thấy những ai gặp lúc nghiêng nghèo,
Liền cứu vớt tùy theo việc phải.
Đã được việc giúp người lâm hại,
Còn treo gương bác ái từ bi;
Đó là ta thiệt kẻ tu trì,
Lòng gắng gổ hành y Phật pháp.
Dầu gặp lúc mưa sa nắng táp,
Lòng sắt son chẳng chút núng nao;
Mãi thương dân thành thị bôn đào,

231.Khắp thôn dã ra vào khuyên nhủ.
Thấy bá tánh còn đương mê ngủ,
Khá tỉnh tâm chuyên chú đạo mầu;
Kiếp phong trần hưởng đặng bao lâu,
Chịu trăm thảm ngàn sầu thống khổ.
Việc sắp đến trời long đất lở,
Cảnh đìu hiu vò võ sầu tư;
Mãi lần lần thưa thớt gia cư;
Đó mới biết trường đồ mã lực.
Ai bền chí tu hành gắng sức,

241.Ai ngã lòng đạo đức thả trôi;
Kể sơ qua những chuyện bại tồi,
Cho sanh chúng chiều mơi lo liệu.
Vùng Tân Châu trẻ già được hiểu,
Nghe lời khuyên bỏ nẻo hung hăng;
Cũng lắm người tỉnh thức ăn năn,
Có nhiều kẻ mưu toan làm dữ.
Thấy sanh chúng sự sanh sanh sự,
Làm dữ thì có dữ trả vay;
Luật công minh nhơn quả cao dày,

251.Sự báo ứng xưa nay chẳng sót.
Khuyên bá tánh đàng ngay nối gót,
Bớ chư hiền lựa lọc nẻo chơn;
Gặp chông gai dạ sắt chớ sờn,
Dầu nhắm mắt ghi xương chạm dạ.
Làng Long Thuận đạo đồng nong nả,
Đợi chờ xem núi đá hóa vàng;
Cảnh lâm sơn chớp cánh phụng hoàng,
Nhà thượng cổ sửa sang cho chúng.
Đức Thánh Chúa noi theo Nghiêu Thuấn,

161.Đời an khương gầy dựng tôi trung;
Khắp thần dân hưởng sự thung dung,
Cả muôn họ vui mừng hả dạ.
Đời hiền đức gìn theo phong hóa,
Khắp hoàn cầu một dạ yêu nhau;
Ớ chúng sanh đạo lý giồi trau,
Đường tội phước xét soi kỹ lưỡng.
Dầu làm lụng Di Đà niệm tưởng.
Thường biện minh liệu lượng chánh tà;
Kẻo lạc lầm muôn kiếp đọa sa,

271.Khó gặp đặng Thích Ca truyền đạo.
Đời Hạ Nguơn Đức Thầy chỉ giáo,
Hầu dắt dìu bổn đạo rành đường;
Cả chúng sanh mang mển tai ương,
Chịu đói rách thê lương đủ thứ.
Phật từ bi ái dân như tử,
Dùng đạo mầu kêu hú nữ nam;
Nẻo mê si trói buộc tâm phàm,
Trong sanh chúng muốn ham nhiều việc.
Cứ chấp cảnh trần hoàn là thiệt,

281.Thường còn hoài chẳng diệt chẳng sanh;
Màn vô minh che đậy tánh lành,
Nên mờ ám tham sanh úy tử.
Cõi giã tạm hồng trần vạn sự,
Hằng chuyển luân sanh tử không thôi;
Còn nghiệp mê còn mãi luân hồi,
Nhơn với quả cuốn lôi chẳng ngớt.
Từ nay khá tà gian bỏ bớt,
Lần lần qua cõi Phật nhà Tiên;
Đối với ai tỏ vẻ lương hiền,

191.Đầy liêm chánh thiên nhiên hữu phước .
Hằng buông tiếng ngọt ngào nhơn đức,
Nói ra thời suy trước nghĩ sau;
Đừng học theo những kẻ hỗn hào,
Mãi xoi xỉa thấp cao kiêu hãnh.
Gây thiện cảm cùng trong bá tánh,
Ở chòm riềng đức hạnh đoan trang;
Lời thiết tha khuyên nhủ xóm làng,
Khá nối chí theo trang hiền sĩ.
Thôn Phú Thuận lời lành dẫn chỉ,

301.Đừng rẽ chia đạo lý bất bình;
Hãy thương nhau như một gia đình,
Đừng lấn lướt sanh tình thù oán.
Sự ganh ghét đời nầy thêm chán,
Cuộc điêu linh thời hạn mấy năm;
Bởi vì chưng hiểu ý sai lầm,
Mãi nghi kỵ sanh tâm chia rẽ.
Đức Thầy mặc dù không sanh đẻ,
Dạy chúng ta như trẻ con thơ;
Cũng một cha chủ nghĩa đồng thờ,

311.Nay sao lại mưu mô giết bỏ.
Đức Thầy dù ngàn sương bạt gió,
Tuy xa vời cũng có ngày gần;
Lúc trở về hòa hợp Sở Tần,
Được yến ẩm huỳnh tương một cuộc.
Hỡi huynh đệ đạo mầu trau chuốt,
Khá miệt mài hạnh đức vẹn thân;
Đừng say sưa học thói vua Tần,
Đốt sách vở chôn thân nho sĩ.
Gương Hàn Tín nhận nhìn cho kỹ,

321.Lúc còn đang ẩn sĩ qui điền;
Chịu lòn trôn giữa chốn thị thiềng,
Thà thọ nhục mà yên thân thể.
Soi gương đó ở đời huynh đệ,
Dầu khôn ngoan tột thế cách nào;
Cũng chớ nên tranh luận thấp cao,
Phải nhẫn nhịn chiều theo thời buổi.
Chừng gặp đặng thời cơ thuận lợi,
Đem tài năng gánh nổi giang san;
Đó mới tài hào kiệt đáng trang,

331.Cả ngàn thuở thế gian khen ngợi.
Chốn sơn lãnh nay còn chờ đợi,
Người trọn lành bước tới xem qua;
Kìa tường vân năm thức chói lòa.
Nọ rực rỡ trăm hoa ngũ sắc.
Cảnh xinh đẹp cửu trùng đài các,
Đời thiếu chi vàng bạc của tiền;
Hợp hòa nhau chẳng có tư riêng,
Đời bình trị nhà không đóng cửa.
Giữ thức lệ cách ăn thói ở,

341.Chẳng luu manh gian trá mị dân;
Đời dẫy đầy báu ngọc châu trân,
Không có kẻ gian thần dòm ngó.
Đức Thánh Chúa như trang vua Võ,
Trị vì dân lớn nhỏ an cư;
Nhờ từ bi Phật xuống phước dư,
Cho bá tánh được câu hạnh phúc.
Ta dầu có mang thân trần tục,
Miễn cho đời lao ngục thoát ly;
Được thẳng xông đến chốn lam kỳ,

351.Hưởng đức tánh từ bi chư Phật.
Ở trần thế đeo mang bịnh tật,
Chịu luân hồi quả đất tanh hôi;
Nào tử sanh bịnh lão dập dồi,
Thân tứ đại trên đời giả dối.
Tứ diệu đề hiểu thông nguồn cội,
Được thiệt hành tránh nỗi trầm luân;
Cả chúng sanh mới đặng vui mừng,
Khỏi luân chuyển xác thân ô uế.
Bát chánh đạo nhiệm mầu luu để,

361.Xưa Thích Ca nhờ đó thành công;
Ngồi tham thiền quán tưởng cõi lòng,
Tìm chơn lý suốt thông bản giác.
Khi Ngài đã rành đường giải thoát,
Ra cứu đời dìu dắt chúng sanh;
Dứt mê si giác ngộ tánh lành,
Lìa ái dục bất sanh bất diệt.
Phật sẵn có tại tâm chơn thiệt,
Rán công tầm mới biết tánh Ta;
Bớ chúng sanh sớm dứt lòng tà,

371.Thời Phật tánh hiện ra tỏ rõ.
Có ngày nọ bóng hồng vừa tỏ,
Buổi sớm mai lớn nhỏ lao xao;
Thấy trẻ già qui tựu vườn cau,
Làng Long Khánh xôn xao chờ đợi.
Khi Thanh Sĩ để chơn bước tới,
Liền trổi câu nhắc nỗi thương tâm;
Kể cho đời những chuyện sai lầm,
Nhắc cuộc thế bi hoan ly hiệp.
Gà lạc mẹ nhiều cơn khủng khiếp,

381.Bị quạ diều ai tiếp cho thân;
Chịu khổ lao nắng Sở mưa Tần,
Còn mắc phải Trịnh Hâm Bùi Kiệm.
Đời bạc phước gặp nhiều nguy hiểm,
Nhắc cho đời liệu biện tu hành;
Có nhiều người nghe giọng Sĩ Thanh,
Kể nỗi khổ tâm thần ngơ ngẩn.
Giọt nước mắt tuôn ra mùi mẫn,
Lộ vẻ buồn tủi phận xa Thầy;
Cảnh thương đau ngó thấy châu mày,

391.Tình huynh đệ phô bày đôi lẽ.
Lúc nắng hạn sương qua mát mẻ,
Tạm lời lành đỡ dạ khát khao ;
Giảng vừa xong Thanh Sĩ bôn đào,
Lìa Long Khánh xuống tàu tách bước.
Tàu rồ máy chạy coi xé nước,
Bóng ác vàng gần khuất tu di;
Nhìn xa xa chẳng biết làng gì,
Trời u ám tứ vi mây phủ.
Mưa tầm tả ngọn đồi ủ rủ,

401.Khi tới nơi tàu đậu lê la;
Đồng anh em rảo bước lên nhà,
Gặp ông Cả dạo đồng về tới.
Được nhận rõ là thôn Mỹ Hội,
Thường nghe danh làng nọ nho văn;
Nay đến đây đạo lý luận bàn,
Kể những chuyện lầm than đói rách.
Tiếng khoan nhặt dịu dàng đủ cách,
Luận tình đời bội bạc vô lương;
Có một người núp mặt trong buồng,

411.Nghe điệu giọng du dương thảm thiết.
Lòng Ông ấy chua cay nhiều việc,
Nghĩ phận mình thua thiệt hơn người;
Thân giày bừa chà xát hết hơi,
Nay còn chịu màn trời chiếu đất.
Trong đêm ấy đệ huynh buồn bực,
Ngồi ngẩn ngơ tiêm tất xốn xang;
Còn bên kia ông Cả đồn vang,
Thầm khen ngợi lời phân chánh lý.
Rồi đêm ấy ngưng lời đi nghỉ,

421.Qua ngày sau đạo lý biện phân;
Tại trúc viên nơi rạch Đồng Tân,
Thấy già trẻ được phần hả dạ.
Có cô nọ người chi là lạ,
Lại xen vào ca cá nhiều câu;
Đời Hạ Nguơn tà chánh lộn nhầu,
Còn trà trộn vàng thau lọc lựa.
Mặc bá tánh nhận nhìn xem sửa,
Giảng xong rồi lần lượt lui chơn;
Ít ngày sau giảng tại Tham Buôn,

431.Cũng dẫn chỉ bước đường hành đạo.
Cho dân chúng nghĩ suy chu đáo,
Rồi tìm ra Phật Giáo cao sâu;
Đừng ham mê danh lợi chịu sầu,
Chừng tới việc đáo đầu khó tránh.
Sự cờ bạc rượu chè nên lánh,
Nẻo vui say đàng điếm thôi thôi;
Lo trao tâm trỉa tánh cho rồi,
Được xem thấy Phật Trời thưởng phạt.
Vừa nơi đó xong xuôi tạm gác,

441.Giã từ trong cô bác lui chơn;
Tùy theo lòng của kẻ van lơn,
Làng Nhơn Mỹ để chơn đến đó.
Lúc huỳnh hôn mờ mờ tỏ tỏ,
Thấy xôn xao lớn nhỏ quá đông;
Bèn Sĩ Thanh buông tiếng chuông đồng,
Để giục thúc làng thôn tỉnh trí.
Phải cấu kết tương thân tương kỷ,
Đừng rẽ chia đạo lý mờ lu;
Lòng thương nhau gát bỏ oán thù,

451.Lấy hòa nhã gìn câu nhẫn nhịn.
Dầu trai gái lấy lòng thành tín,
Học gương xưa Khổng Mạnh ở ăn;
Trai thì trau ba mối năm hằng,
Gái nắm chặt tam tùng tứ đức.
Dầu túng thiếu nghèo nàn chơn chất,
Đừng sanh tâm đạo tặc lâm nguy;
Giảng nơi đây cũng được yêu vì,
Liền trổi gót bôn phi chốn khác.
Mỹ Hòa Hưng thôn nầy càn cạt,

461.Cọp vào rừng lung lạc ai hơn;
Đến nơi nầy bày tỏ nguồn cơn,
Lúc chiều tối huỳnh hôn chật vật.
Tại vườn dừa trẻ già đông nức,
Vẻ im lìm được chút thành tâm;
Mở lời khuyên những kẻ lạc lầm,
Tiếng huyễn hoặc của mầm tà kiến,
Nên dứt bỏ đừng sanh lắm chuyện,
Khá giữ theo gương kiến ông cha;
Phải thương nhau huynh đệ thuận hòa,

471.Đừng phân rẽ người ta khi dể.
Đặng xong xả nhiều câu giảng kệ,
Đồng thời trong huynh đệ xuống thoàn;
Chèo một hơi thấy gã Hồng Nam,
Đi ghe máy xâm xâm chạy đến.
Rằng vưng lời của quan Tư Lịnh,
Đi đến đây cầu thỉnh về dinh;
Lòng thương dân chỉ dạy hết tình,
Chẳng có chút ngại ngùng chi cả.
Liền hứa chịu qua tàu giục giã,

481.Đến hành dinh thong thả đi lên;
Khi vào nhà chào hỏi đôi bên,
Quan Tư Lịnh ra niềm hớn hở.
Tối đêm ấy việc đời bày tỏ,
Giảng những câu tao ngộ Ngưu Lang;
Nhắc thời cơ đói rách lầm than,
Kể những chuyện dân quan lộn xộn.
Cuộc phân tranh chư châu thọ khổn,
Cho người mê lánh chốn phồn ba;
Nào lợi danh phú quí vinh hoa,

491.Lòng tham dục người ta bất kể.
Thấy đời quá ở ăn tồi tệ,
Động lòng thương nhắc nhở đôi câu;
Nếu tỉnh tâm thì sớm quày đầu,
Bằng mê giấc thảm sầu đừng trách.
Ỷ oai thế đủ phương cưỡng bách,
Tình anh em phân cách bởi đâu;
Chẳng qua là giành miếng mồi câu,
Gây tai biến chia bâu rẽ áo.
Trời thanh lặng điệu đờn thảm não,

501.Thấy nhiều ông lơ láo xốn xang;
Nửa tỉnh tâm nửa dạ mơ màng,
Lòng bác ái trông càng thương hại.
Nơi hành dinh thoàn từ trở lái,
Cùng anh em đến tại Cần Soai;
Được chút vui gặp mấy cô nầy,
Nhắn với gởi những bài hiền đức.
Về Hòa Hảo tỏ tường sự thật,
Cho ông bà lòng bớt nghi nan;
Rằng tôi đây chung một đạo tràng,

511.Nay gặp lúc nhạn Nam én Bắc.
Thầy lạc tớ không ai dìu dắt,
Tôi đứng ra để nhắc đệ huynh;
Noi theo Ngài Phật Tổ hy sinh,
Lìa vật chất dứt tình tham luyến.
Chớ chẳng có làm điều tà kiến,
Xin nhờ ơn minh chánh giùm cho;
Lấy lòng thương biển cả lần mò,
Cũng được chút thơm tho đạo lý.
Làng Bình Đức đôi câu dẫn chỉ,

521.Hối thúc đời nung chí tu hành;
Đời Hạ Nguơn loạn lạc chiến tranh,
Chúng áp dụng thăng bình dân chủ.
Ỷ thông thái chê đè cổ hủ,
Lo đua chen hấp thụ văn minh;
Nào tự do trai gái kết tình,
Chúng mặc sức ăn xinh bận tốt.
Đời mạt hạ nay đà cùng tột,
Đến đây là ráo rốt việc đời;
Cuộc tuần huờn chuyển động chiều mơi,

531.Tiếng gầm thét rụng rời thân thể.
Khắp thế giới từ đây hết kể,
Sự cạnh tranh cấu xé lan tràn;
Miễn cho mình danh vị cao sang,
Mặc ai bị tai nàn trối kệ.
Đời bạo ác còn chi màng kể.
Lời dạy răn hiếu đễ ông cha;
Nguyện mười phương tháo cổng ta bà,
Thân cá chậu chim lồng thoát khỏi.
Nơi hắc ám rã tan xiềng tói,

541.Cho hồng trần thoát khỏi mê ly;
Lập hòa bình nhờ lượng từ bi,
Khai ruộng phước cứu nguy bá tánh.
Đây cũng được nếm mùi đạo hạnh,
Bèn giã từ bá tánh lui hài;
Ông Cả Mười cùng các bạn trai,
Đồng nhau đến Mương Khai Mỹ Phước.
Thôn nầy thiệt chơn khô chơn ướt,
Đến nơi đây hưởng được chút buồn;
Thấy chúng dân sớn sác luông tuồng,

551.Ngồi nghe giảng mà dường muốn chạy.
Kẻ chẳng ưa đem lòng phá hoại,
Người thích ham con ráy đi xa;
Dạ ưu buồn tâm tánh bá gia,
Kêu réo mãi lời khô tiếng ráo.
Thân gầy ốm mặc dầu huyên náo,
Cũng hy sinh với đạo phổ thông;
Quyết cứu dân bớt lúc cay nồng,
Nhờ Phật Thánh lấy lòng thuong xót.
Thuyền bát nhã buồm trương cứu vớt,

561.Cho muôn dân an lạc trường miên;
Giảng xong rồi lui gót xuống thuyền,
Đi ngang chợ Long Xuyên rộn rực.
Thấy ghe cộ phố phường chật nức,
Thả thuyền xuôi theo nước đi luôn;
Đến rạch Gòi đánh thức tiếng chuông,
Buổi chiều nọ mưa tuôn tầm tã.
Cả trẻ già bị mưa xối xả,
Vẫn bền lòng chặt dạ không đi;
Cảm tình thương kẻ biết đạo nghì,

571.Bèn mở lối phú thi khuyên nhủ.
Tỏ mọi việc cho dân đầy đủ,
Được làm xong nghĩa vụ trên đời;
Rồi sau nầy gặp dịp thảnh thơi,
Được no ấm muôn đời thong thả.
Phân cạn lời cùng nhau từ giã,
Qua Định Yên tỏ dạ thẳng ngay;
Giảng một hồi tại chợ vang tai,
Cho dân chúng rõ bày thế sự.
Nhắc những cuộc nổi sôi làm dữ,

581.Dân Cái Dầu đồng tử đồng sanh;
Cả gia đình nhiều lúc tan tành,
Chịu nạn cả thất thanh kinh hãi.
Khổ như thế đá vàng chẳng nại,
Lòng kiên trinh khẩn vái Hoàng Thiên;
Thương dân lành cứu độ bình yên,
Được gặp thuở tiền duyên tương ngộ.
Lời giục thúc tu hành gắng gổ
Nầy bá gia đời khổ tới rồi;
Rán mà tu ẩn nhẫn sự đời,

591.Cứng phải gãy mềm thời tồn tại.
Sách Minh tâm Thánh Nhơn đã dạy,
Lời cao siêu chẳng sái bớ dân;
Muốn nói làm suy xét nhiều lần,
Lấy đạo lý cân phân mọi lẽ.
Tài Hạng Võ binh quyền mạnh mẽ,
Thất nhơn tâm tan rã còn chi;
Được trọn lành Hớn Bái phục qui,
Lấy đức rộng trị vì lê thứ.
Hiền lành vẫn thắng hơn hung dữ,

601.Từ cổ kim vạn sự không sai;
Có mấy khi được của hoạnh tài,
Mà thọ hưởng lâu dài mấy kẻ.
Sự tội phước phân minh rành rẽ,
Luật công bình Ngọc Đế định phân;
Nói một hồi liền đó lui chơn,
Ra Vàm Cống vừa cơn buổi sáng.
Thấy đồng đạo đang chờ nghe giảng,
Tình thương yêu luận biện sơ sơ;
Vì mấy ông sắp chẳng đúng giờ,

611.Nên đi tới thớt thưa dân chúng.
Liền hẹn lại ngày sau bổ dụng,
Đây thẳng xông Cái Sắn một hơi;
Vừa chinh chinh bóng ác nghiêng trời,
Thấy bá tánh tới nơi đông đảo.
Cuộc phong vũ trớ trêu ông tạo,
Bỗng đâu thân cảm mạo bất kỳ;
Cái bịnh tình khéo vội thế ni,
Cho dân chúng đợi thì mỏi dạ.
Lòng Thanh Sĩ lấy làm buồn bã,

621.Nhìn đệ huynh tấc dạ xốn xang;
Lòng muốn cho đạo hạnh vẹn toàn,
Liền cất tiếng khuyên can bá tánh.
Nên dẹp gác sự đời tranh cạnh,
Làm hiền lành gặp cảnh Thượng Nguơn;
Nhắc cuộc đời Nam, Bắc rẽ phân,
Tình máu mũ nguyên nhân Hồng Lạc.
Nay vội khéo bày tuồng xô xát,
Làm mộ bia đạn lạc bom rơi;
Đi nồi da xáo thịt tơi bời,

631.Ngoài trận tuyến máu rơi xương bỏ.
Cảnh nước mất nhà tan thấy đó,
Sao chẳng lo củng cố binh lương;
Đợi thời cơ tạo thế hùng cường,
Đặng giải thoát biên cương nòi giống.
Mãi cấu xé thấy đời xúc động,
Cuộc tang thương bi thống nữ nam;
Sự tu hành già trẻ lo làm,
Lòng nhơn ngã sớm toan dứt bỏ.
Làm hiền đức thuận hòa lớn nhỏ,

641.Tay cắt tay dạ có bao đành;
Dầu thế nào cũng nghĩa đệ huynh,
Lấy bác ái gây tình thân mến.
Đặng chờ ngày thời kỳ đưa đến,
Đồng yên vui non lãnh nhàn ca;
Dứt chiến tranh bình định nước nhà,
Khắp thế giới an cư lạc nghiệp.
Đời Thượng cổ giữ theo nề nếp,
Cách ở ăn bặt thiệp khôn ngoan;
Cả gái trai chẳng có lăng loàn,

651.Bỏ thói mới văn minh cặn bã.
Giảng nơi đây chúng chưa hả dạ,
Vì bịnh cơ uể oải tay chơn;
Nên ít lời chỉ vẽ nguồn cơn,
Liền từ giã trở chơn Vàm Cống.
Qua đến đó lòng bèn cảm động,
Thấy trẻ già trông ngóng đã lâu.
Chờ đợi nghe những tiếng cơ mầu,
Nhưng thất vọng vì câu Thiên định.
Thân Thanh Sĩ còn đang cơn bịnh,

661.Bước lên đài trổi giọng khô khan;
Nghe trong mình ngũ tạng bàng hoàng,
Nên giảng rất buồn thân xác thể.
Liền xuống giọng xin đời miễn lễ,
Cho Sĩ Hiền tiếng kệ ngưng qua;
Lòng bâng khuâng bá tánh trẻ già,
Liền giải tán phân ra hai ngả.
Phần Thanh Sĩ xuống tàu từ giã,
Đến Cái Sao thiết hóa tâm kinh;
Buổi sớm mai có vẻ bình minh,

671.Làng Mỹ Thới dân sinh chờ đợi.
Khi Thanh Sĩ để chơn bước tới,
Dùng đôi câu thúc hối bá gia;
Giữ lòng hiền chơn chất thật thà,
Bỏ những lối điêu ngoa xảo trá.
Bởi tham lam phân ra nhơn ngã,
Bài xích nhau có dạ ghét ganh;
Chữ oán thù sân nộ biến sanh,
Nên dẹp gác tu hành chơn chánh.
Lòng mê si hẹp hòi tâm tánh,

681.Ở chòm riềng không nhẫn nhịn nhau;
Nghèo thì sanh ghét bỏ sang giàu,
Mãi dòm ngó tầm mưu đạo tặc.
Kẻ giàu có thì lòng khe khắt,
Hiếp bần cùng siết chặt hồ bao;
Chẳng đem lòng bố thí cho nhau,
Còn áp chế cho vay cắt cổ.
Lòng bá tánh còn nhiều tham cố,
Biết chừng nào biển khổ thoát thân;
Giảng một hồi đánh thức xa gần,

691.Rồi từ giã về thôn Mỹ Hội.
Mình bễ nghễ bịnh căn phát tới,
Cái xác thân tứ đại trói trăng;
Phải đương đầu phong vũ nhiệt hàn,
Dưới quyền lực thiên nhiên đã định.
Con người phải có già có bịnh,
Kiếp vô thường đeo dính bên thân;
Dẫu mà cho đến bực Thánh Thần,
Cũng khó tránh những cơn bịnh tật.
Nằm khô héo ruột gan tiêm tất,

701.Nghiền ngẫm trong đôi mắt mê mang;
Đi châu lưu nong nả quày thoàn,
Về thiết lập trang hoàng cuộc lễ.
Ngày mười tám tháng năm đúng lệ,
Đức Thầy ra cứu thế độ đời;
Xướng danh từ Phật Giáo khắp nơi,
Nên bổn đạo nhớ ngày kỷ niệm.
Nhưng Thanh Sĩ gan bầm ruột tím,
Đến ngày nầy trầm trọng bịnh căn;
Khắp trẻ già bá tánh xa gần,

711.Tới đông đảo thôn lân Mỹ Hội.
Trước đến dự lễ nầy phấn khởi,
Sau được nghe giảng kệ Sĩ Hiền;
Nhưng bịnh tình chưa đặng giảm thuyên,
Đành ôm mối ưu phiền thất vọng.
Từ sớm mai tới chiều lóng nhóng,
Trông mấy người mỏng mảnh còn thơ;
Dầu luống công đói khát cũng chờ,
Lòng Thanh Sĩ vò tơ chín khúc.
Trời quá buổi ác vàng gần khuất,
721.Lòng thương dân đứng trước gia môn;
Mở lời ra giọng nói ôn tồn,
Rằng cô bác lui chơn về nghỉ.
Cám ơn đó có lòng tận tụy,
Cảm tình thương Thanh Sĩ đến đây;
Buổi ốm đau không thế phô bày,
Đành nuốt đắng ăn cay tủi dạ.
Nhờ đồng đạo vui lòng từ giã,
Ra về đi chớ khá ở lâu;
Niệm tình riêng hãy lấp mạch sầu,

731.Đừng oán trách đời sao bạc bẽo.
Phần Thanh Sĩ thơ phòng lạnh lẽo,
Lo thuốc thang điều trị cho thân;
Nhờ ơn trên phục dược lần lần,
Được mạnh mẽ lo phần dắt chúng.
Trời thấm thoát ngày qua tháng lụn,
Ba trăng tròn trị bịnh dưỡng thân;
Ngọn đông phong thổi đến lần lần,
Tuần tháng bảy tâm thần rối loạn.
Lòng chạnh nghĩ trải qua mấy đoạn,

741.Giác cuộc đời như hạn trông mưa;
Nẻo tu hành dân chúng thớt thưa,
Đường danh lợi ganh đua thái quá.
Càng ngày thấy mỏi mòn tấc dạ,
Cứ lung lăng gây họa xóm làng;
Cuộc sanh nhai chúng bị buộc ràng,
Tình nhân loại rã tan từ mảnh.
Dạ áo não thương đời ngoan ngạnh,
Thân ta dầu chưa mạnh bịnh cơ;
Đầy lòng thương bá tánh bao giờ,

751.Quyết chỉ bảo đàng mê nẻo giác.
Cho già trẻ tầm nơi giải thoát,
Lánh ta bà cực lạc siêu sanh;
Lòng quản chi mưa nắng sỏi sành,
Miễn bá tánh hiểu rành chơn lý.
Đường ngàn dặm buồm trương thẳng chỉ,
Phản hồi nơi cố lý Nha Mân;
Về tới nơi Sa Đéc dừng chơn,
Nghỉ tại Tổng hành dinh Phật Giáo.
Nhìn phong cảnh đổi thay thảm não,

761.Buổi chiều tàn giảng đạo tại đây;
Cảnh tang thương dân tộc châu mày,
Lúc loạn lạc xéo giày khô héo.
Trổi tiếng kệ nhắc đời mỏng mẻo,
Nạn đói nghèo ai khéo diễn ra;
Lại trách ai tàn phá cửa nhà,
Gieo rắc nỗi can qua thậm ngặt.
Làm tồi bại hư hèn gia thất,
Chúng loạn luân trái ngược đạo nhà;
Lo tước quyền tô điểm lụa là,

771.Chúng tài cán phui pha dân tộc.
Nầy đồng đạo mộng trường tang tóc,
Đám ma phiền chôn nhốt tài hoa;
Khá tỉnh tâm chớ có bê tha,
Hãy dẹp tánh điêu ngoa xảo mỵ.
Lo cần kiệm tu hành chánh kỷ,
Vì đói đau lộ vĩ gần đây;
Nên cần lao trồng trặc lúa khoai,
Đặng chi độ qua ngày thống khổ.
Gìn đạo hạnh đừng cho lem ố,

781.Tình anh em điều độ cho nhau;
Khuyên chớ nên tiếng thấp lời cao,
Hãy thương xót lảng xao đâu nỡ.
Đừng nghịch lẫn công trình dang dở,
Tưởng như Thầy còn ở tại nhà;
Trong gia đình huynh đệ thuận hòa,
Chớ xào xáo người ta đàm tiếu.
Nhà giáo dục sử kinh thông hiểu,
Không làm tròn đành chịu tai ương ;
Chớ Phật đâu dung vị bạo cường,

791.Kẻ bội phản pháp trường vong mạng.
Đức Thầy rất đau lòng vô hạn,
Vì mấy thu bặt dạng xa hình;
Thấy tín đồ thù oán chống kình,
Quên đạo lý dứt tình Thầy tớ.
Nếu thương Thầy làm theo sách vở,
Chớ có đâu vô cớ hại nhau;
Đành khép thân khuôn khổ máu đào,
Tình cảnh ấy đớn đau chi xiết.
Thà chúng sanh tu hành chẳng biết,

801.Có lỗi lầm bởi việc mê man;
Chớ là tu đã mấy năm tràng,
Việc đạo đức nẻo đàng đã thấu.
Nay vong bổn phủi rồi nét dấu,
Làm hung tàn tiếng xấu khắp nơi;
Luật công minh thưởng phạt nơi Trời,
Đâu dung vị những người hung ác.
Đức Thầy thương ruột gan tan nát,
Thương thì thương cứu vớt đặng nào;
Tội con làm con chịu biết sao,

811.Dù cha mẹ phương nào gánh được.
Rán tạo lấy duyên lành thiện phước,
Đặng đến ngày chung cuộc an nhiên;
Giảng đây rồi thẳng đến Bình Tiên,
Tới đây rất não phiền mấy đoạn.
Thấy chợ búa miễu đình phá tán,
Cảnh điêu tàn tình trạng biến di;
Cất tiếng kêu bá tánh tu trì,
Dẫu gặp buổi khuynh nguy cũng rán.
Có mấy khi đạo mầu gặp đặng,

821.Chớ ưu buồn xao lảng đường tu;
Đời tới đây tai khổ lu bù,
Vì tận thế muôn thu mới có.
Dù nghèo đói tu hành gắn bó,
Rồi sau đây thấy rõ Phật Tiên;
Cõi thế gian tháo mở gông xiềng,
Đưa nhơn loại non Tiên dựa kế.
Đó là tới thì giờ biến thế,
Nay còn đang lọc lựa chánh tà;
Nên thảm sầu khắp cả bá gia,

831.Chịu lắm cuộc phong ba cuồn cuộn.
Nếu ai biết tu hành yêu chuộng,
Nhờ Phật Trời mở lượng cứu cho;
Giảng đây rồi tách bước lần dò,
Đi chốn khác chỉ cho bá tánh.
Tới Lai Vung phơi bày đạo hạnh,
Nhìn nơi đây phong cảnh đìu hiu;
Thấy đồn điền ủ dợp sớm chiều,
Cảnh tan nát lắm điều khổ não.
Đây cũng dùng nhiều câu chỉ bảo,

841.Rằng anh em đồng đạo từ đây;
Phải thương nhau dìu dắt tháng ngày,
Chớ phân rẽ nạn tai vương vấn.
Xem giảng kệ xử tròn bổn phận,
Mới rằng mình tinh tấn tu hành;
Phải cần nên dẹp gác lợi danh,
Để thong thả đạo lành trau trỉa.
Điều thù ghét đời thường mai mỉa,
Nên tránh xa chớ để trong lòng;
Đời Hạ Nguơn nhiều nỗi long đong,

851.Khá nhận xét đục trong tường tận.
Chớ dua bợ theo thời nhơ bẩn,
Vì tước quyền bán đứng đồng bào;
Kiếp con người dường thể chiêm bao,
Tuy lộng lẫy bỗng vào vô vị.
Thân bèo giạt hoa trôi bi lụy,
Còn tự cường đắc chí khoe danh;
Luận đàm cho dân rõ ngọn ngành,
Rồi thẳng tới Long Thành làng nọ.
Đi đến nơi vẫn còn đông chợ,

861.Thấy nhộn nhàng lớn nhỏ xôn xao;
Dùng đôi câu khuyến khích ngọt ngào,
Nhắc cuộc thế nhiều câu thảm não.
Rằng đạo lý từ ngày biến ảo,
Sự tương tranh khéo tạo nghiệt cay;
Cách mấy đông vắng mặt Đức Thầy,
Tình huynh đệ lợt phai quá lẽ.
Dùng oai thế nhiều người chia rẽ ,
Cậy binh quyền xâu xé lẫn nhau;
Chốn phương trời Thầy rất đớn đau,

871.Tình cốt nhục xáo xào như thế.
Khá nhớ lại Đức Thầy huynh đệ,
Rất dày công dạy dỗ chúng ta;
Dựng tòa lầu đạo đức nguy nga,
Để bổn đạo trẻ già nương ở.
Lúc xa Thầy phá cho tan vỡ,
Tình bạc đen đáng sợ hay chăng?
Rán mà trau đầy đủ đạo hằng,
Nên quyết chí lấp bằng biển cả.
Đừng mạnh yếu tranh giành thái quá,

881.Đến lâm nguy tan rã xác hồn;
Giảng đây rồi từ giả làng thôn,
Về Mỹ Hội dừng chơn tạm nghỉ.
Thầm suy nghiệm đời còn dối mỵ,
Cả chúng dân đạo lý chưa thông;
Nguyện từ bi suối huệ tràn đồng,
Cho bá tánh thoả lòng khao khát.
Tiết đông thiên gió đưa man mát,
Thẳng đến cù lao Cát Tân Tây;
Giảng những điều thế sự cấn gay,

891.Nhắc bá tánh miệt mài đạo đức.
Gìn đạo lý ở ăn chân thật,
Vì thời cơ vạn vật đổi thay;
Bóng thiều quang thấm thoát tên bay,
Cuộc giả tạm nay mai sẽ thấy.
Đời hung bạo mỏng mành như giấy,
Còn cạnh tranh ỷ lại oai hùm;
E cho thân mang mển gông cùm,
Rồi hối hận ăn năn đã muộn.
Nền Phật pháp thành lòng yêu chuộng,

901.Nếu bỏ qua rất uổng bớ dân;
Mấy ngàn năm mới có một lần,
Non nhược thủy phong thần thiết lập.
Tạo lư bồng trận đồ bủa khắp,
Có định tuồng tam thập lục nhơn;
Người tu hành đặng hưởng phước duơn,
Kẻ hung ác Thần Tiên nả tróc.
Giảng cho chúng gắng ghi tim óc,
Rồi giã từ cầu chúc an lòng;
Bước xuống tàu thẳng đến Tân Đông,

911.Cũng kêu hú khắp trong bá tánh.
Thấy đồng đạo nhiều người nguội lạnh,
Còn mê man tâm tánh chưa khai;
Giảng khuyên mau tâm trí giồi mài,
Dứt tà mị cắt dây oan khổ.
Làm hiền đức tánh lành kiên cố,
Thoát mê ly tránh chỗ tanh hôi;
Đường tử sanh dập tắt đã rồi,
Ngàn muôn kiếp thoát nơi khổ hải.
Nay bá tánh gắng công sửa cải,

921.Phủi sạch lòng tà quấy chớ mang;
Thì mới mong kiến cảnh Niết Bàn,
Đồng chư Phật Thánh Tiên tọa vị.
Lòng bác ái từ bi bố thí,
Chớ cưu mang tâm trí cuồng điên;
Mà mảng lo tranh đấu tước quyền,
Cướp tài của thâu điền đoạt hải.
Tội lỗi ấy khó mong tồn tại,
Ngục a-tỳ còn đợi người hung;
Chờ mãn căn quỉ sứ bắt hồn,

931.Dắt xuống chốn ngục môn hình phạt.
Giảng xong rồi giã từ cô bác,
Bước xuống tàu thấm thoát chạy bay;
Trong ít giờ Cái Ngãi tới đây;
Lòng ngưỡng mộ ai ai náo nức.
Giảng cho chúng nhiều câu đạo đức,
Nhắc thời cơ Nam, Bắc khốn nàn;
Những tai ương biến ảo trần hoàn,
Chịu hoạn họa tranh ăn tranh thực.
Vì quyền quí lợi danh cắn rứt,

941.Tranh giành nhau non nước ngửa nghiêng;
Cả muôn dân đồ thán đảo điên,
Cam xiết chặt truân chuyên nhiều nỗi.
Ngày càng ngày việc đời bối rối,
Đường rộng dài khó nỗi tới lui;
Biết chừng nào nước ngược chảy xuôi,
Rào dân tộc được hồi dẹp bỏ.
Đồng nhứt trí phá tan lưới rọ,
Được thương nhau lớn nhỏ an hòa;
Giảng cho dân nhiều khúc thiết tha,

951.Liền từ giã trẻ già lớn nhỏ.
Xuống Bằng Tăng diễn ca tại chợ,
Buổi chiều tàn khai mở kệ kinh;
Lời nhủ khuyên trai gái rán gìn,
Điều răn cấm thiệt hành chánh lý.
Hãy xa lánh những điều tà mị,
Cần tinh chuyên tâm trí hiền lành;
Nghĩa mẹ cha khó nhọc sanh thành,
Chữ hiếu thuận hy sinh đền trả.
Vạn sự lành hiếu nhi cao cả,

961.Dầu Phật Tiên chẳng khá bỏ qua;
Muôn tội tình điếm nhục tông gia,
Thói dâm loạn thúi tha hèn hạ.
Mười điều lành gắng công để dạ,
Ba nghiệp mê mau khá diệt xong;
Dụng tinh thần đức tánh sạch trong,
Gươm trí huệ dứt lòng mê tối,
Nhà Phật Thánh lãm thông nguồn cội,
Nơi rừng hoang mở lối thoát ly;
Bớ chúng sanh nối chí từ bi,

971.Trau nền đạo hồi qui thượng cổ.
Cõi Cực Lạc Di Đà tiếp độ,
Sè bàn tay nương đỡ đưa về;
Được an nhàn ngự cảnh Liên Huê,
Hưởng vô tận khỏi bề luân chuyển.
Muốn ăn thời đồ ăn tới miệng,
Khỏi nhọc nhằn lo kiếm chạy quơ;
Muốn mặc thời có mặc lụa tơ,
Những màu sắc tuỳ theo ý muốn.
Chốn Niết Bàn tuyệt trần sung sướng,

981.Mới gọi rằng an dưỡng Tây Phương;
Bớ chúng dân tỉnh giấc mộng trường,
Đừng mê ngủ du dương hồn phách.
Ở trần thế khổ lao đủ cách,
Về Thiên đường gió mát trăng thanh;
Rán nợ trần trả rảnh phù sanh,
Đừng mang mển nhọc nhành thân xác.
Tánh hôn mê thiệt hành dốt nát,
Tạo nhiều điều tội ác gớm ghê;
Nên chuyển luân quả báo nhiều bề,

991.Ngàn muôn kiếp cõi mê vương vấn.
Rán một thuở tu hành tinh tấn,
Gặp thời kỳ chuyển vận gần đây;
Đặng rảnh thân hầu hạ Đức Thầy,
Đồng trực chỉ thang mây vui thú.
Nay núi rừng chim kêu vượn hú,
Sau rồi xem qui tụ Thánh Thần;
Được trưng bày phép lạ phi thân,
Đầy hạnh phúc muôn dân thọ hưởng.
Nay thì giờ lọc lừa liệu lượng,

1001.Mặc tình ai chí hướng sưu tầm;
Hung với hiền nhận xét mà làm,
Đường tội phước bởi tâm gây tạo.
Liền lui gót Ô Môn chỉ bảo,
Thấy dân tình chạo rạo ghe thoàn;
Đã tản cư sầu nỗi gia đàng,
Thân bèo nước tâm cang khô héo.
Đêm thanh lặng tơ lòng thắt thẻo,
Trổi nhiều bài áo não lạnh lùng;
Lúc ưu buồn nghe tiếng chuông rung,

1011.Càng đổ lệ tâm thần cảm động.
Nhớ cha mẹ vợ con bi thống,
Cuộc sanh ly tử biệt thảm sầu;
Lúc nguy nàn đói rách càng lâu,
Đời loạn lạc biển dâu trầm lụy.
Hỡi đạo đồng tu theo đạo lý,
Dầu khốn nàn gắng chí vững lòng;
Chớ quá buồn ngã dạ uổng công,
Đời bạc phước vì trong kiếp trước.
Không tu tỉnh làm lành tác phước ,

1021.Nên nay đây chịu cuộc khó nghèo;
Thôi thì lo tu niệm nương theo,
Đường Phật pháp gắn keo sớm tối.
Liền giã từ Sĩ Thanh gót trổi,
Đến Phong Hòa tỏ nỗi thương tâm;
Ở nơi nầy nhiều cuộc họa lâm,
Chịu hỏa hoạn tan hoang nhà cửa.
Nhưng việc thế diễn bày ra nữa,
Mối ưu sầu chan chứa đôi mi;
Thấy chúng sanh nạn ách li bì,

1031.Lòng Thanh Sĩ dường như tan nát.
Làng nầy cũng chỉ đường giải thoát,
Nhắc sự đời mặn lạt chua cay;
Rồi quay về Mỹ Hội an bài,
Sau mấy tháng nhơn ngày đi xuống.
Tuỳ theo lòng bá gia yêu chuộng,
Tại Cần Thơ bày biện sự tu;
Ở hành dinh trong mấy đêm thu,
Lời tha thiết nhiều câu cám cảnh.
Tỏ khúc nôi cho người sửa tánh,

1041.Bỏ trớ trêu đạo hạnh gìn lòng;
Đừng say mê danh vị bạc đồng,
Loè loẹt lắm long đong cũng lắm.
Nhiều nhơn sĩ ra tuồng suy gẫm,
Những lời phân nghiền ngẫm ra sao?
Nỗi khuynh nguy sóng bủa ba đào,
Thương thuyền chích lái lèo bối rối.
Mảnh đất Việt mấy mươi năm lẻ,
Gội máu đào cay xé cõi lòng;
Mạch sầu nầy lấp mãi chưa xong,

1051.Còn mang mển ở trong tim óc.
Luận thời thế sang qua đạo học,
Cũng được nhiều quí khách hài lòng;
Sáng ngày sau qua tỉnh Vĩnh Long,
Tại tỉnh bộ văn phòng Phật Giáo.
Lòng chiếu cố anh em đồng đạo,
Chút tâm thành qui tụ khá đông;
Giảng nhiều câu thảm thiết động lòng,
Tuôn giọt lệ nhỏ ròng thảm đạm.
Tình huynh đệ quá nên xúc cảm,

1061.Có nhiều lời tường lãm đau sầu;
Nhớ Đức Thầy nay ở nơi đâu,
Thương bổn đạo cùng nhau ngơ ngáo.
Lại còn nỗi tình hình trong đạo,
Chẳng thương nhau xào xáo ngửa nghiêng;
Cảnh tình ni lòng luống não phiền,
Hằng khẩn vái Phật Tiên minh chứng.
Sớm xoay chuyển cho mau gặp vận,
Được tớ Thầy duyên phận trùng lai;
Giảng xong rồi yên nghỉ đêm nay,

1071.Sáng từ giã lên xe thượng lộ.
Thấy đồng đạo có lòng ái mộ,
Cùng nhau đưa một số rất đông;
Sắc mặt buồn có vẻ mủi lòng,
Xe vụt chạy như dông mờ mịt.
Tới Phú Lâm xe dừng tại bót,
Xét giấy tờ có chút éo le;
Nhưng nhờ ân Trời đất chở che,
Rồi cũng được lên xe thong thả.
Xe rù chạy lẹ làng bương bả,

1081.Tới Bến Thành vội vã xuống đi;
Kêu xích lô mướn đẩy tức thì,
Trong chốc lát tới dinh Thứ Trưởng.
Khi đến người sửng sờ tưởng tượng,
Nhiều anh em tới viếng đẹp lòng;
Mấy đêm trường đạo lý nói ròng,
Được hội kiến nhiều ông chánh trị.
Có câu hỏi thậm tình hữu lý,
Rằng Đức Huỳnh Giáo Chủ ra sao?
Sự kiết hung còn mất thể nào,

1091.Nhờ mách bảo chúng tôi được biết.
Liền trả lời một câu quả quyết,
Rằng không ai mưu giết đặng Ngài;
Mặc dù trong trường hợp nghiệt cay,
Chớ cũng đặng an bài quí thể.
Nhiều đồng đạo lụy sa giọt lệ,
Vẻ mặt buồn tưởng nhớ Đức Thầy;
Rất bâng khuâng trong lúc nạn tai,
Trông tin nhạn càng ngày vắng bặt.
Đứng trước cảnh thương tâm quặn thắt,

1101.Thừa canh thâu được dịp nhủ khuyên;
Xin anh em bớt dạ ưu phiền,
Trăng còn tỏ sạ duyên còn mặn.
Đức Thầy dù mấy thu đã vắng,
Cũng nhờ ơn Phật Thánh hộ trì;
Đặng lướt qua những nẻo hiểm nguy,
Thân vàng ngọc được khi mạnh khỏe.
Đức Thầy ta ví như bà mẹ,
Cả tín đồ tựa trẻ con thơ;
Vắng mẹ thời con trẻ bơ vơ,

1111.Lúc khát sữa u -ơ tiếng khóc.
Trời đâu nỡ phụ lòng người tốt,
Cũng có ngày hòa hợp vui mừng;
Miễn đệ huynh kết chặt tinh thần,
Đừng chia rẽ tranh phần thắng thối.
Phải nhồi nắn chung nhau một khối,
Được ngày kia ngư thủy tương phùng;
Cả muôn chim giéo giắt núi rừng,
Duyên cá nước mặn nồng khắn chặt.
Câu chung thủy một lòng chớ lạt,

1121.Mới phỉ nguyền đài các xe loan;
Còn lảng lơ đạo lý mơ màng,
Ngày chung cuộc hổ han sĩ tử.
Giảng đây cũng tỏ tường mọi sự,
Lìa Sài Gòn về ngụ Cần Thơ;
Tới hành dinh mới nghỉ ít giờ,
Tai nghe tiếng xe rồ bên cạnh.
Nhìn hai cái ngôi sao lóng lánh,
Là có quan Tư Lịnh đến mời;
Rằng qua nhà ông tạm nghỉ chơi,

1131.Bèn hứa chịu đến nơi cho rõ.
Bước lên ngồi chiếc xe pho đỏ,
Trời đã chiều ngọn gió lạnh lùng;
Xe tới nhà thân thể phát run,
Vì nhóm bịnh lại không khăn nón.
Cơm nước xong ông liền nói gọn,
Mời cậu vô trong đại bản dinh;
Liền ra xe giục giã sân trình,
Đến đó mới biết tình thế thái.
Quan Tư Lịnh mở lời chậm rãi,

1141.Mời cậu về ở tại nơi đây;
Vì tôi nghe có lịnh người Tây,
Muốn bắt cậu tôi đây lo sợ
Nên rước cậu về dinh đặng ở,
Làm phước giùm cho đó khỏi nguy;
Nghe lời phân thiệt rất sầu bi,
Lòng thương thảm tình ni quá lẽ.
Mắt đã thấy dường như cay xé,
Tai được nghe như giẽ nhét vào;
Liền ở đây trong ít ngày sau,

1151.Được giấy của quan cao người Pháp.
Mời qua tại Mít Xông hầu gắp,
Ba giờ chiều xe rép chạy qua;
Đến văn phòng nghe tiếng bông xoa,
Chào mấy vị quan to tại đó.
Liền mời vào trong phòng khép ngõ,
Quan Rờ Đông hỏi rõ lời ni;
Rằng trước đây ông giảng tu trì,
Sao ông giảng xen vào chánh trị.
Trả lời tôi tu theo đạo lý,

1161.Noi Thầy tôi dẫn chỉ người lành;
Chớ tôi đâu hiểu biết chiến tranh,
Hay chánh trị nhờ ông xét lại.
Quan Pháp liền tiếp thêm lời nói,
Ông ra về kêu gọi người tu;
Hãy đem ra khí giới quân nhu,
Hiệp với Pháp lập câu trật tự.
Có quan nọ dằn co nhiều sự,
Ăn kết thêm ngôn ngữ quá dai;
Thấy đời còn lắm chuyện gắt gay,

1171.Nhìn cuộc thế lòng đây quặn thắt.
Liền bắt tay bước lên xe rép,
Về tư dinh còn mắc cái eo;
Ở tại đây mấy tháng buồn teo,
Nhìn thế sự thắt theo gan ruột.
Đất rộng lớn rào thưa mấy nuột,
Khép thân người nhiều cuộc lạ thay;
Ngọn gió xuân thổi đến lai rai,
Dường cho biết gần ngày mãn hạn.
Lần tay đếm đã tròn ba tháng,

1181.Khép buồn duyên chiếc phận cô đơn;
May nhờ người bố đức thi ơn,
Giùm tháo cổng được cơn thong thả.
Cá khỏi lưới lội ra biển cả,
Chim sổ lồng bay thả về rừng;
Như Văn Vương là bực Thánh Quân,
Mà còn chịu bảy năm dủ lý.
Huống chi ta nhỏ nhen cư sĩ,
Đâu khỏi mang nghi kỵ thế gian;
Nhưng mà lòng son sắt đá vàng,

1191.Không nao núng lại càng tinh tấn.
Về Mỹ Hội rèn lòng chờ vận,
Đợi thời cơ hưởng ứng ra tay;
Có giúp đời trong buổi cấn gay,
Câu đạo lý ban khai nòi giống.
Được hiển nhiên nơi câu nhứt thống,
Có huy hoàng ảo mộng tỉnh mơ…
Hết Phần Châu Thuyết

Post a Comment

Cảm ơn Đạo Hữu đã đóng góp. Chúc Đạo Hữu một ngày an lạc! A Di Đà Phật