Cho Ông Nguyễn Kỳ Trân
(Ông NGUYỄN-KỲ-TRÂN, tức chín Diệm xướng – Đức Thầy đáp)
Ông NGUYỄN-KỲ-TRÂN tức chín Diệm xướng (1)
Ngàn dậm nghe ông có phép tiên,
Cúi xin lời hỏi chớ ưu phiền
Thanh manh đôi mắt đường không thấy,
Cầu có ơn dư cứu kẻ hiền
Kẻ hiền dầu đặng sáng như xưa,
Ơn ấy bằng non dạ có thừa
Lượng rộng xin ông đừng có chấp,
Ngàn vàng dám đổi một lời ừa
ĐỨC THẦY đáp:
Chí đại còn xa chửa phép tiên,
Bịnh tình cụ lão quá ưu phiền
Nhà tôi cũng có bà không thấy,
Thương thảm trời xanh phụ kẻ hiền
Kẻ hiền lòng dạ tưởng người xưa,
Tứ khổ cổ kim vẫn có thừa
Tríu-mến tâm thành đâu có chấp,
Vọng cầu hạnh phước đặng như xưa
Di-Đà lục tự ấy phương-châm,
Ghi dạ xin ông hoặc đứng nằm
Khẩn vái trì tâm người thượng-cổ,
May trời phò hộ phước cho thầm
Khuyên đó lòng son chớ vội buồn,
Hữu thành Phật độ ắt qua truông
Nhờ ơn Tiên, Thánh trăm muôn một,
Tôi cũng giùm cho đặng thấy tuồng.
Hòa-Hảo, cuối năm Kỷ-Mão
Ông Nguyễn-kỳ-Trân là người làng Định-Yên, thuộc tỉnh Long-Xuyên, hai mắt không thấy nên đến nhờ Đức Thầy chữa giùm
Ông NGUYỄN-KỲ-TRÂN tức chín Diệm xướng (1)
Ngàn dậm nghe ông có phép tiên,
Cúi xin lời hỏi chớ ưu phiền
Thanh manh đôi mắt đường không thấy,
Cầu có ơn dư cứu kẻ hiền
Kẻ hiền dầu đặng sáng như xưa,
Ơn ấy bằng non dạ có thừa
Lượng rộng xin ông đừng có chấp,
Ngàn vàng dám đổi một lời ừa
ĐỨC THẦY đáp:
Chí đại còn xa chửa phép tiên,
Bịnh tình cụ lão quá ưu phiền
Nhà tôi cũng có bà không thấy,
Thương thảm trời xanh phụ kẻ hiền
Kẻ hiền lòng dạ tưởng người xưa,
Tứ khổ cổ kim vẫn có thừa
Tríu-mến tâm thành đâu có chấp,
Vọng cầu hạnh phước đặng như xưa
Di-Đà lục tự ấy phương-châm,
Ghi dạ xin ông hoặc đứng nằm
Khẩn vái trì tâm người thượng-cổ,
May trời phò hộ phước cho thầm
Khuyên đó lòng son chớ vội buồn,
Hữu thành Phật độ ắt qua truông
Nhờ ơn Tiên, Thánh trăm muôn một,
Tôi cũng giùm cho đặng thấy tuồng.
Hòa-Hảo, cuối năm Kỷ-Mão
Ông Nguyễn-kỳ-Trân là người làng Định-Yên, thuộc tỉnh Long-Xuyên, hai mắt không thấy nên đến nhờ Đức Thầy chữa giùm