CỤ PHẠM-THIỀU MỜI ĐỨC THẦY THAM-CHÁNH
|
CỤ PHẠM-THIỀU
MỜI ĐỨC THẦY THAM-CHÁNH
Âm-u tràn ngập cả càn-khôn.
Hỡi ai thức ngủ trong đêm ấy,
Có thấu tai chăng tiếng quốc-hồn ?
Sao còn khoắc-khoải nhớ hiềm xưa ?
Trang sử chùi đi những vết nhơ.
Gìn-giữ tim son không chút bợn,
Mặc tòa dư-luận thấu hay chưa.
Sao còn lãnh-đạm với đồng bang,
Toan trút cho ai gánh trị-an ?
Thảm kịch “tương-tàn” chưa hết diễn,
Long-Xuyên Châu-Đốc lụy muôn hàng.
Sao còn ngần-ngại chẳng ra tay,
Trước cảnh xâm-lăng cảnh đọa-đày ?
Ngọn lửa binh đao lan khắp đất,
Phật Trời soi thấu cũng châu mày.
Chẳng áo cà-sa, chẳng chiến-bào,
Về đây tham-chánh mới là cao.
Non sông chờ đợi người minh-triết,
Chớ để danh thơm chỉ Võ-Hầu.
TRƯỜNG-PHONG
(biệt hiệu của cụ Phạm-Thiều)
ĐỨC THẦY họa:
Những nỗi đau thương mãi dập-dồn,
Càng nhiều luân-lạc lại càng khôn.
Lặng nhìn thế sự nào ai ngủ !
Chờ dịp vung tay dậy quốc-hồn.
Từ-bi đâu vướng mối hiềm xưa,
Nhưng vẫn lọc-lừa bạn sạch nhơ.
Nếu quả tri-âm tri-ngộ có,
Thì là hiệp-lực hiểu hay chưa ?
Nhìn sang Trung-quốc khách lân bang,
Cứ cố xỏ ngầm sao trị an ?
Nếu thiệt hai bên đồng hiệp trí,
Kẻ gây thảm kịch phải qui hàng.
Lắm kẻ chực hờ đặng phổng tay,
Mà sao chánh-sách bắt dân đày.
Vẫn còn áp-dụng vì phe đảng,
Chẳng muốn xông ra sợ cháy mày.
Thà ở trong quân mặc chiến-bào,
Ngày qua sẽ biết thấp hay cao.
Nào ai dám sánh mình minh-triết,
Mà dám lăm-le mộng Võ-Hầu.
HOÀNG-ANH
(biệt hiệu của Đ.T.)
Miền Đông, ngày 1 tháng 10-1946.