Đám Mưa Dong

Lời Khuyên Tu Hiền - Thanh Sĩ,Ông Thanh Sĩ,Đám Mưa Dong
-
Views

ĐÁM MƯA DONG
( THANH SĨ )
(gồm 322 câu)


  • Đám Mưa Dong
  • Lời Khuyên Tu Hiền
Xa xa nghe tiếng đùng đùng,
Lần lần tiếng ấy nổ bùng bên tai;
Giật mình phách lạc hồn bay,
Ngàn nhà bổn đạo trách ai châm ngòi.
Nhẫn tâm hoang phí giống nòi,
Đem lòng khinh bạc còn coi ra gì;
Ở không biết nhượng biết tùy,
Uổng công miệng niệm gối quỳ mấy năm.
Đức Thầy dù ở xa xăm,
Cũng thường lai viếng âm thầm khắp nơi;

11.Còn trăng còn nước còn Trời,
Thời còn mối đạo tuyệt vời đâu phai.
Nay đành tay nỡ cắt tay,
Quên câu nghĩa cũ mưu bày ghét vơ;
Máu hồng tiết kiệm rửa nhơ,
Có đâu bỏ rớt ruộng bờ thế ni.
Xuân thu truyện sử còn ghi,
Bàng Quyên phản bạn chàng thì mạng vong;
Theo đời Tam Quốc Quan Công,
Một lời dầu thác không lòng đổi thay.

21.Ông phò nhị tẩu thẳng ngay,
Đêm khuya thắp đuốc đứng ngoài giữ canh;
Ở Tào một dạ thờ anh,
Rượu ngon thịt béo dỗ dành chẳng nao.
Cung phi mỹ nữ ra vào,
Nài hoa ép liễu ông nào tưởng mơ;
Nén lòng đọc quyển binh thơ,
Trầm tư mặc tưởng cuộc cờ đổi mau.
Nhứt tâm hàng Hớn bất Tào,
vượt qua năm ải bôn đào thăm anh;

31.Người xưa nhiều bực trung thành,
Người nay mua giựt bán giành tước quan.
Coi mình quí trọng cao sang,
Khinh khi đói rách phụ phàng nghĩa nhân;
Như người Nhơn Quí hiền thần,
Mấy ai nối gót tìm lần thử coi.
Mảng lo kiếm chuyện móc moi,
Thổi lông tìm vít học đòi Bàng Khanh.
Tôi loàn con giặc ma ranh,

41.Mà còn chưng mặt hùng anh tột đời;
Hại dân hại nước rã rời,
Vong sư phản đạo coi Trời như không.
Bày mưu thiết kế cuồng ngông,
Dạ toan lấp biển ngăn sông dị kỳ;
Từ ngày vắng bóng Từ Bi,
Ruộng hoang nhà trống dân thì ngó lơ.
Thầy ôi dở lá Thiên thơ,
Giùm coi số phận cõi bờ Việt Nam;
Con hiền lạc bước rừng lâm,

51.Người xưa mất dạng còn tầm nơi đâu.
Mưu sâu thì dạ cũng sâu,
Ham ăn mắc lưới mắc câu lụy mình;
Thánh truyền vạn điển thiên kinh,
Thói hư tật xấu phải rinh ra ngoài.
Lòng trung chánh trực thi tài,
Hai đường tội phước hôm mai lọc lừa;
Đói lòng tạm đỡ muối dưa,
Gìn tâm ngay thẳng phụng thờ Tổ Tiên.

61.Gặp đời bát loạn đảo điên,
Cây khô lá rũ ruộng điền bỏ hoang;
Thiên hôn địa ám mê man,
Con xa cha mẹ trò toan phụ Thầy.
Mịt mù rộn rịp đông tây,
Cuồng phong én nhạn lạc bầy héo von;
Khi nào hẹn biển thề non,
Bây giờ nghĩa nọ tiêu mòn đi đâu?
Miệng lằn lưỡi mối độc sâu,
Bẽ bàng tôm cá xe tàu đua chen.
Gươm lòng mật miệng đã quen,

71.Ở ăn giả dối múa men xưng hùng;
Sợ cho vực hẳm lở đùng,
Trầm sâu đáy bể mạng cùng thở than.
Khi còn oai thế ngỗ ngang,
Chừng hết oai thế Ô Giang bỏ mình;
Đời thường hết nhục rồi vinh,
Như người Hàn Tín sử kinh nhắc đời.
Ăn theo thuở ở theo thời,
Tài hèn sức yếu tuỳ đời khôn ngoan;
Nói làm độ lượng tính toan,

81.Cẩn ngôn cẩn hạnh chọn vàng lựa thau.
Trứng mà chọi đá làm sao,
Phàm nhơn lại dám cao rao chống Trời;
Sám truyền chỉ bảo cạn lời,
Ỷ khôn bất Phật bất Trời thiết tha.
Xưng mình lỗi lạc tài ba,
Dương oai diệu võ mới là đọa thân;
Theo đời Kiệt Trụ hôn quân,
Nghe theo Bí Trọng, Vưu Hồn hại tôi.
Say mê sắc đẹp tửu bôi,

91.Chư Hầu vấn tội bỏ ngôi thiêu mình;
Sanh tâm nham hiểm bất bình,
Lòng mình oán ghét nhơn tình bạc vôi.
Răn lòng sửa dạ người ôi,
Kẻo lâm tai ách vào ngồi ngục môn;
Ăn ngay ở thật mới khôn,
Tranh quyền đoạt lợi là phồn dại ngu.
Ngọn đèn thường giết phù du,
Bởi vì tham vọng đui mù hại thân;
Muỗi ruồi đường mật ưa gần,
Miễn cho ngon miệng đâu cần xét suy.

101.Tình trường chốn ấy hiểm nguy,
Đi vào thì chết người đi cũng nhiều;
Cạn lời chỉ bảo dắt dìu,
Mong người sửa tánh dứt điều mê si.
Quân thần phụ tử tôn ty,
Làm người phải biết kính vì bề trên;
Cang thường luân lý chớ quên,
Nuôi cha dưỡng mẹ đáp đền công ơn.
Sách đèn theo bực tiền nhơn,
Biết ơn cơm áo xử phân vuông tròn;

111.Râu mày tiết tháo lòng son,
Dầu cho biển cạn đá mòn trơ trơ.
Cờ lau vẻ đẹp phất phơ,
Tài trai quốc sĩ ngọn cờ Lam Sơn;
Chí tâm hành đạo chớ sờn,
Đầy lòng bác ái ra ơn giúp đời.
Núi sông dễ đổi năng dời,
Thói quen tánh cũ người đời khó phai;
Từ năm Đinh Hợi đến nay,
Người hiền xiêu ngã lạc loài đi đâu.

121.Biển mà biến hóa cồn dâu,
Cồn dâu đổi lại vực sâu lạ thường;
Cuộc đời mạt Trụ nhà Thương,
Mà còn giam Thánh Văn Vương cực hình.
Nhủ lòng bá tánh rán gìn,
Đời cùng đã đáo tà tinh lộng hành;
Con sâu làm thảm nồi canh,
Một người làm quấy trăm nghìn người mang.
Mẹ cha sanh đứa con hoang,
Ôm lòng chịu tiếng xóm làng cười chê;

131.Phật Ngài thương chúng còn mê,
Ra công dìu dắt vỗ về đàng chơn.
Người sao chẳng biết công ơn,
Đem lòng mua oán chác hờn thảm thê;
Chẳng noi dấu thỏ đường dê,
Cứ lo châm chích nhún trề hiền lương .
Thấy đời dạ ái đau thương,
Sợ lo gặp lúc tai ương rã rời;
Kêu la trách đất than Trời,
Đất Trời đâu cứu những người hung hăng.

141.Cứu là cứu kẻ qui căn,
Tu nhơn tích đức đạo hằng trau tria;
Từ ngày Thầy tớ phân chia,
Tơ lòng đứt đoạn đầm đìa nhỏ sa.
Sầu đông quên tuổi đã già,
Đứng nằm thổn thức ruột rà quặn đau;
Có tài ba lược sáu thao,
Bị đời bạc đãi cũng vào cửa không.
Thân như cá chậu chim lồng,
Ếch ngồi đáy giếng mắt trông biết gì;

151.Chừng nào vàng hết lộn xi,
Thì là dân sự gặp kỳ thảnh thơi.
Nay còn kẻ móc người bơi,
Soi hang mạch nước bán người nuôi thân;
Hại cho quốc nước dân bần,
Mà còn lắm tiếng tự xưng anh hùng.
Sợ khi lực tận thế cùng,
Như chim mắc bẫy tợ hùm sa cơ;
Ngàn xưa ghi chép truyện thơ,
Bàng Hồng Tôn Tú bao giờ ai khen.

161.Ngày nay cứ mãi đua chen,
Theo đồ hổ bịch ăn quen không chừa;
Làm người ăn nói dạ thưa,
Lễ nghi phong hóa nghìn xưa ghi truyền.
Đời nay trọng dụng bạc tiền,
Bỏ nhơn bỏ nghĩa đảo huyền nổi trôi;
Lựa lời phán đoán người ôi,
Vì đời tận thế bầy tôi úa hèn.
Rán lo khuya sớm sách đèn,
Gặp ngày mở hội đua chen kinh kỳ;

171.Nén lòng dụt tắt sân si,
Bền tâm nhẫn nại đường đi còn dài.
Chớ nên phung phí ăn xài,
Ăn cần ở kiệm khỏi ngày thiếu cơm;
Cây lành trổ đặng hoa thơm,
Làm ơn gặp kẻ trả ơn tức thời.
Đức Thầy dặn bảo hết lời,
Hạ Nguơn nay đã hết đời rán tu;
Vân Tiên phải nạn đui mù,
Đến chừng sáng tỏ thì cù hóa long.

181.Trung thần gặp lúc long đong,
Nhờ người tài trí gia công giúp giùm;
Hung hăng gặp phải thú hùm,
Thì là hết kiếp ai giùm mà chi.
Làm lành được phước chuyện ni,
Ác tâm mang họa lạ gì xưa nay;
Người đời rán lóng hai tai,
Nghe cho kỹ lưỡng hôm mai sửa mình.
Đêm trường lặng lẽ ngồi nhìn,
Bày lời đạo đức tường trình cho dân;

191.Động tình thương kẻ thôn lân,
Tu như ông gió chẳng cần xét suy.
Lời vàng tiếng ngọc Thầy ghi,
Coi đi coi lại huyền vi mới tường ;
Ngày nay coi việc tầm thường,
Sau rồi mới biết là đường cao sâu.
Ăn mồi cá biết mắc câu,
Người chưa lầm lạc biết đâu chánh tà;
Phải nên nghiệm xét Phật ma,
Hiểu thông đạo lý biết ta với người.

201.Chì thau đem sánh vàng mười,
Bởi còn mê muội đạo đời chưa xong;
Rán mà mài sắt chí công,
Nên kim rồi mới thỏa lòng ước mơ.
Anh em chớ lắm buồn ngơ,
Làm nên Phật Thánh qua bờ qua truông;
Người tu như tướng tiên phuông,
Đương đầu với giặc mới tường dỡ hay.
Quyết lòng thắng trận chua cay,
Giày sành đạp sỏi gót hài máu rơi;

211.Muốn cho làm Phật làm Trời,
Trước nên làm trọn đạo người hiếu trung.
Hết cơn khổ cực thung dung,
Nhỏ dại rồi mới lớn khôn lẽ thường;
Có học có biết có tường,
Không học mà biết phi thường khó thay,
Có bông có trái nhờ cây,
Có công tu luyện được tài thần thông;
Rán mà lánh đục tầm trong,
Siêng năng trồng trặc thì không túng nghèo.

221.Từ đây qua mấy khúc đèo,
Giữ mình kẻo lắm hùm beo chận đường;
Đại hùng đại lực treo gương,
Tam bành lục tặc chẳng ngương lại gần.
Ngàn xưa mấy bực Thánh Thần,
Công lao hạng mã được phần sùng tu;
Người nay gắng chí công phu,
Đời sau để tiếng ngàn thu phượng thờ.
Lòng nầy rối rấm cuồng tơ,
Đêm trường bút tích vài tờ hiến dân;

231.Ăn năn thì sớm sửa thân,
Bằng không chớ trách Thánh Thần bỏ trôi.
Đức Thầy ráo tiếng khô môi,
Dạy dân đến nỗi quên thôi phát khùng;
Thương dân đến nước cờ cùng,
Mà trong bá tánh không dùng thì thôi.
Chạnh lòng riêng chiếc phận tôi,
Niệm tình đồng đạo một hồi réo kêu;
Thấy dân đèn nọ chưa khêu,
Nên đây dụng ý biểu nêu đạo mầu.

241.Hiền nhơn nghe tiếng thảm sầu,
Những người hung dữ câu mâu đủ điều;
Đáy lòng chua xót khó kêu,
Anh em ruột thịt búa rìu mà chi.
Thác rồi để tiếng ích gì,
Sống còn người thế xầm xì nhỏ to;
Thạch Sùng, Vương Khải của kho,
Hết người hết của bo bo ích gì.
Bửu Sơn với chữ Hương Kỳ,
Biết mùi biết vị vàng y không bằng;

251.Làm sao nhẹ gót cung trăng,
Lên dây hòa nhịp chị Hằng thử xem.
Bức tranh sơn thủy còn lem,
Thợ Trời vội kéo pha gièm con ngu;
Mảnh gương Phật đạo mờ lu,
Nhờ tay Phật Thánh chỉnh tu cho trần.
Có thân phải độ lấy thân,
Mũi mình mình thở khó phần mượn ai;
Phật Trời vạch sẵn đường ngay,
Có đi mới tới đứng hoài tới đâu.

261.Đạo thời huyền diệu cao sâu,
Chí tâm mới biết không âu biết gì;
Tai nghe phụng gáy non kỳ,
Rồng mây lộ vẻ vận thì hưng Châu.
Việc đời chẳng có bao lâu,
Ngày qua tháng lại công hầu đến nơi;
Chín muồi trái nọ muốn rơi,
Mà còn chim chuột khuấy chơi lỡ làng.
Thuận ăn muối nghịch khó ăn vàng,
Cuộc đời tà chánh rộn ràng khó phân;

271.Đặng lòng bạn mất lòng dân,
Lấy tâm trung đẳng cân phân cho đồng.
Hạ Nguơn xu cắc mua lòng,
Hễ người quân tử huê hồng chẳng ham;
Nghèo nàn trong sạch mà cam,
Giàu sang giữ của như sam khổ đời.
Gắng công Hớn Bái gặp thời,
Bền lòng hưởng phước Phật Trời ban cho;
Cuộc đời hết đói tới no,
Hết no tới đói nằm co than Trời.

281.Vận đen buôn lỗ bán lời,
Cần năng đạo hạnh sống đời Thầy Nhan;
Xin khuyên cô bác xóm làng,
Từ đây tưởng nhớ đạo tràng vùa hương.
Phật Ngài dù ở Tây Phương,
Hữu tâm thành kính Phật thường vãng lai;
Đức Thầy vắng mặt ngày nay,
Vàng thau lọc lựa biết ai chánh tà.
Giảng kinh miệng đọc hơ hà,
Lòng mong phá hại cửa nhà chúng dân;

291.Rán mà cải tánh sửa thân,
Long Hoa mới đặng hầu gần Phật Tiên.
Chín tòa sen báu hoa liên,
Phật Ngài lộ vẻ nhơn hiền ai đương;
Rạng mày những bực trung lương,
Gian dâm vô đạo đầy đường huyết lưu.
Đời nay nặng việc thuế sưu,
thượng Nguơn thong thả oán cừu cũng không;
Nghêu ngao rao bắc hò đông,
Trầm ngâm như gã Tử Phòng sáo tiêu.

301.Năm hồ bốn biển tiêu diêu,
Vui vầy đất Thuấn trời Nghiêu khỏe lòng;
Ở ăn trên dưới giữ đồng,
Thánh Quân nhiếp chánh thời thần thuận trung.
Chuyên cần gặp đạo thung dung,
Thầy xa phận tớ vô cùng sửa trau;
Thân Thầy vạn khổ thiên lao,
Ngàn trùng gai gốc lướt vào hiểm nguy.
Rừng tên núi đạn quản chi,
Đầy lòng bác ái từ bi cứu đời;

311.Phải cam chiếu đất màn Trời,
Ăn sương uống tuyết chịu lời đắng cay.
Ngàn xưa Phật Tổ Như Lai,
Cũng là nếm mật nằm gai khác nào;
Khổ nhiều đạo hạnh càng cao,
Thành công đắc quả bôn đào giác mê.
gương xưa roi dấu bộn bề,
Đức Thầy phải chịu nặng nề vì dân;
Khuyên người rán trọng nghĩa nhân,
Tìm làm đức hạnh đáp ân Phật Trời.

321.Thô sơ bút mực để lời,
Chúc cầu bá tánh nơi nơi thái bình./.


Ngày 13 tháng 10-49 d.l.



Đăng nhận xét

Cảm ơn Đạo Hữu đã đóng góp. Chúc Đạo Hữu một ngày an lạc! A Di Đà Phật