ĐẾN LÀNG NHƠN NGHĨA CẦN THƠ |
Đến Làng Nhơn-Nghĩa (Cần-Thơ)
Dốc lòng mở cửa Phật-đường độ dân.
Làng Nhơn-Nghĩa để chân đến chốn,
Thấy dương-trần trà-trộn tà tâm.
Oai Thần đem đạo huyền thâm,
Nhiệm-mầu phổ-độ âm-thầm ai hay.
Mẹo đã hết, rồng bay vơ-vẩn,
Khắp hoàn-cầu nghịch lẫn cùng nhau.
Lê-dân trăm họ xáo-xào,
Rã-rời phụ tử, máu đào nhuộm tuôn.
Thương quá sức bắt cuồng tâm não,
Quyết cứu người dùng Đạo phổ thông.
Ước-mơ cho được đại-đồng,
Tràn-trề khắp cả, Lạc-Hồng thảnh-thơi,
Nhìn vạn vật cuộc đời ngao-ngán,
Bởi hoàn-cầu thù oán cứ gây.
Vẽ hình rồi lại vẽ mây,
Vẽ tranh Thiên tạo Bồng-Lai cảnh tình.
Lại thêm vẽ phù sanh cõi tạm,
Dắt hồn người hắc ám khỏi mang.
Cầu cho cuối xóm cùng làng,
Trẻ già lớn nhỏ Phật-đàng yên thân.
THI
Luân-thường nặng nợ phải vai mang,
Nhuần gội thừa ân của Phật-đàng.
Cố-gắng tâm trì theo đến chốn,
Một ngày vinh-diệu ắt bằng an.
Bằng an bốn biển khỏi đua tranh,
Bởi khắp bá gia được chí lành.
Trau sửa tâm phàm tìm cội cũ,
Về nơi Tiên cảnh mới nhàn thanh.
Nhàn thanh tìm kiếm, kiếm nơi tâm,
Phật cũ ngày xưa hãy rán tầm.
Nhành lá sum-sê màu đượm vẻ,
Non Thần biến đổi hết rừng lâm.
Rừng lâm cây đá thấy ngày nay,
Mà ruột năm non có các đài.
Chờ đợi con hiền noi tục cổ,
Tới thời thượng-cổ điểu hòa mai.
VÕ-võ đêm thanh nức giọng vàng,
Kiểng cây sum MẬU đượm mùi nhang.
Phù dung rã gánh thân yên nhã,
THẠNH thới gia trung gặp chữ nhàn.
Chữ nhàn vô sự mới nên Tiên,
Bát-nhã từ đây gặp cửa thiền.
Bể giác bờ mê ngày vượt khỏi,
Lánh đời tục lụy rứt tiền khiên.
Tiền khiên kiếp tạo bởi trần thân,
Đạo diệu giồi-trau lập chí cần.
Luyện tánh, trau tâm cho sạch-sẽ,
Rứt rồi nợ thế khỏi ưu-phiền.
Ư-phiền thường sự chốn ta-bà,
Phật cảnh mau về ắt lánh xa.
Tỉnh ngộ từ đây người gặp chủ,
Phủi trần tìm kiếm chữ ma-ha.
Ma-ha mùi ngọt mật cùng đa!
Cảnh thế nhìn xem lũ cáo-xà.
Múa gút nhăn nanh ưa thịt béo,
Nào khờn dạ ái của thiền-gia.
Thiền-gia chí cả dốc hành thân,
Diệu diệu truyền thi cảm kích thần.
Những tưởng thói đời ôi chát lạt!
Đạo mầu siêu-việt của thiền lâm.
Thiền lâm Phật Thích thuở xưa kia,
Non tuyết rèn ra bát chánh kìa.
Phổ hóa dân lành trong khắp chúng,
Hoàn-cầu bốn biển khắp danh bia.
(Mấy bài tứ cú trên đây Đức Thầy trao cho ông Võ-Mậu-Thạnh ở làng Nhơn-Nghĩa).
Luồng thanh điển nhoáng qua như chớp,
Chuyển căn tiền nhắc lớp người xưa.
Phật, Tiên vận chuyển lọc-lừa,
Kiếm con hữu phước mà đưa trở về.
Ôi! khổ thảm bốn bề sóng dậy,
Dòm lừng trời lửa cháy liên-miên.
Tiêu-điều sản-vật điền viên,
Thần-thông biến hóa dưới miền Trung-Ương.
Ngục môn đầy quỉ vô thường,
Dắt hồn kẻ bạo Diêm-Vương luật trừng.
Nhìn xa nước mắt rưng rưng,
Thương đời mê muội trầm-luân hoài hoài.
Tay hạ bút viết bài chung cuộc,
Ai rõ lòng con cuốc khỏi kêu.
Thân khùng vận bĩ trớ-trêu,
Phiêu-lưu trôi giạt danh nêu khắp cùng.
Ai giàu có thung-dung thanh nhã,
Ta lo đời sắt đá bền gan.
Âu sầu nức giọng riêng than,
Trách dân chẳng sợ hùm lang cứ gần.
Nhơn-Nghĩa (Xà No), ngày 29 tháng 4 Canh Thìn