KHUYẾN NÔNG |
KHUYẾN NÔNG
Thần chết đã tràn vào Trung-Bắc,
Ngày lại ngày siết chặt giống nòi;
Lật qua các bài báo mà coi,
Thấy con số chết xem mòi kinh nguy.
Cũng tại vì Tây-di bày kế,
Phá-hoại nền kinh-tế nước ta.
Làm cho điên-đảo sơn-hà,
Làm cho điêu-đứng con nhà Lạc-Long.
Bỗng phút đâu cuồng phong một trận,
Quân Phù-Tang khai hấn bất kỳ.
Còn đâu mưu khéo giải vi,
Còn đâu hoãn kế trong kỳ viện binh?
Dầu những kẻ vô tình với nước,
Cũng tỉnh hồn mơ-ước tự-do.
Tiếng vang độc-lập reo hò,
Từ Nam chí Bắc nung lò khí thiêng.
Quyết phen nầy kết-liên một khối,
Đem máu đào tắm gội giang-san.
Giờ đây đem lại mùa-màng,
Năm rồi miền Bắc tan-hoang còn gì.
Chỉ có xứ Nam-Kỳ béo-bở,
Cơ-hội nầy bỏ dở sao xong.
Cả kêu điền-chủ phu-nông,
Đứng lên đừng để ruộng đồng bỏ hoang.
Muốn cứu khỏi tai nàn của nước,
No dạ dày là chước đầu tiên.
Nam-Kỳ đâu phải sống riêng,
Mà còn cung-cấp cho miền Bắc, Trung.
Quân-đội Nhựt cần dùng lương thảo,
Cũng phải ăn lúa gạo Nam-kỳ.
Ta còn ngần ngại nỗi chi,
Mà không cày cấy kịp thì hỡi-dân?!
Điền-chủ phải một lần chịu tốn,
Giúp áo quần, giúp vốn thêm lên.
Muốn cho dân được lòng bền,
Mua giùm canh-cụ là nền khuếch-trương.
Giá mướn phải thường thường dễ thở,
Xử ôn-hòa niềm-nỡ yêu nhau.
Cùng chung một giọt máu đào,
Phen nầy hiệp sức nâng cao nước nhà.
Kẻ phu-tá cũng là trọng trách,
Cứu giống-nòi quét sạch non sông.
Một phen vác cuốc ra đồng,
Thề rằng ruộng phải được trồng lúa khoai.
Mưa nắng ấy đâu nài thân xác,
Chí hy-sinh dầu thác cũng cam.
Miễn sao cho cánh đồng Nam,
Dồi-dào lúa chín gặt đam về nhà.
Chừng ấy mới hát ca vui-vẻ,.
Ai còn khinh là kẻ dân ngu.
Không đem được chút công-phu,
Không đem sức-lực đền-bù nước non.
Gởi một tấc lòng son nhắn-nhủ,
Khuyên đồng-bào hãy rủ cho đông.
Nắm tay trở lại cánh đồng,
Cần-lao, nhẫn-nại Lạc-Long tổ truyền.
Sài Gòn, tháng tư năm Ất-Dậu (1945)