TIẾNG CHUÔNG CẢNH TỈNH
( THANH SĨ )
(gồm 913 câu)
( THANH SĨ )
(gồm 913 câu)
- Tiếng Chuông Cảnh Tỉnh
- Lời Khuyên Tu Hiền
Mượn gươm linh mở lối nhơn sanh;
Thừa cơ lặng lẽ đêm thanh,
Đường ngay nẻo thẳng chỉ rành đệ huynh.
Phải gắng sức tỏ tình đoàn kết,
Những oán thù phủi hết đừng gây;
Thời kỳ loạn lạc khốn thay,
Ân cần đạo đức giồi mài tinh anh.
Nước nguy biến chiến tranh tang tóc,
Nhờ gội nhuần mưa móc thiêng liêng;
11.Muốn cho giải thoát xích xiềng,
Cần năng gieo rải thiện duyên dung hòa.
Nên mạnh mẽ vượt qua khổ hải,
Lánh Ta bà tồn tại trường miên;
Dốc làm rạng vẻ Rồng Tiên,
Chí cần tô điểm mối giềng ông cha.
Hỡi tất cả trẻ già thiện tín,
Cờ Nam Bang bình định chưa xong;
Vẫn còn đất lỡ trời long,
Vẫn còn tan tác muỗi mòng gớm ghê.
21.Khuyên gắn bó chớ hề thối chí,
Gặp cay nồng hùng vĩ nước ta;
Muốn cho nước trị an nhà,
Cầu Trời mở Hội Long Hoa non đài.
Ban phước huệ muôn loài vạn vật,
Rải hồng ân chất ngất Trời Nam;
Chúng sanh nhập Thánh siêu phàm,
Muôn ngàn hạnh phúc gánh đam dồi dào.
Nhà thượng cổ đua nhau nô nức,
Gái cùng trai tài đức xứng đôi;
31.Nõn nà chẳng lựa phấn vôi,
Khôi ngô trang nhã đứng ngồi lễ nghi.
Hãy lặng lẽ nghĩ suy tìm tõi,
Nghe những lời kêu gọi trước sau;
Rốt đời dân sự đớn đau,
Xót thương huynh đệ bước vào chông gai.
Muốn cứu lấy nạn tai đoàn thể,
Phải gặp nhiều khó dễ trở ngăn;
Nhưng lòng nắm chặt đạo hằng,
41.Trau giồi đức hạnh chắc rằng thảnh thơi.
Cuộc biến cố chiều mơi soi thấu,
Cảm động cho beo gấu quá nhiều;
Giang san phải nhuộm máu điều,
Giống nòi rời rã sanh nhiều việc hư,
Có thấy chăng gia cư tan nát,
Cả xóm chòm xơ xác đảo điên;
Sao không nắm chặt mối giềng,
Tam qui ngũ giái nhẫn kiên tháng ngày.
Lúc xa cách Đức Thầy thương nhớ,
51.Phải trọn gìn nghĩa tớ mới ngoan;
Lý đâu phá hại xóm làng,
Làm cho dân chúng rên than nhiều bề.
Nhủ bạn tác quay về đường phải,
Khuyên anh em đạo ngãi rán soi;
Quí yêu dân chúng giống nòi,
Nước nhà kiến thiết gương soi Tổ truyền.
Chí nhứt quyết cần chuyên đức tánh,
Phận tu hành xa tránh thúi hôi;
Lợi danh mèo mả tục tồi,
61.Tiền tài chóa mắt người đời gớm ghê.
Đừng đem dạ say mê dục lạc,
Để tâm hồn phiêu bạt sao nên;
Xây lưng đâu cật cho bền,
Kết liên một khối tạo nền Phật tôn.
Xác thịt lẫn tâm hồn tinh nhuệ,
Lời sơn minh hải thệ đừng phai;
Thương dân mến đạo yêu Thầy,
Một lòng dầu thác lãng phai sao đành.
Xin chặt giữ ngọn ngành chỉ bảo,
71.Quyết sửa sang nền đạo chấn hưng;
Mai sau hưởng đặng vui mừng,
Thầy trò hiệp mặt Tấn Tần gặp nhau.
Ngồi nhớ lại ruột đau từ đoạn,
Có bao người gìn đặng lời xưa;
Thói hư tật xấu răn chừa,
Dìu dân dắt chúng giùm đưa tới bờ.
Mãi xoi xỉa phỉnh phờ chế nhạo,
Người đạo mà ố đạo làm chi;
Lòng người còn quá mê si,
81.Làm điều tàn bạo trái thì lý chơn.
Tâm quảng đại đức ơn ban bố,
Lấy lòng nhơn đại độ khoan dung;
Thương người mến vật vô cùng,
Thương người phạm lỗi thứ dung cho người.
Vẻ mặt vẫn vui tươi điềm đạm,
Lòng từ bi hoài cảm tín đồ;
Trì tâm niệm chữ Nam Mô,
Diệt lòng ích kỷ hàm hồ nhỏ nhoi.
Lời khuyến khích truyền roi nam nử,
91.Khuyên làm lành lánh dữ mới là;
Muốn cho gặp Phật Di Đà,
Bền lòng nhẫn nại thoát ra ngục tù.
Thân chiến sĩ vong xu vì nước ,
Ngàn muôn năm hưởng được danh thơm;
Những phường giá áo túi cơm,
Sống thời người ví rạ rơm ích gì.
Vận nước đã nhược suy hèn kém,
Phật trẻ trung quăng ném lợi danh;
Tạm xa cha mẹ gia đình,
101.Tươi cười rứt áo con xinh vợ hiền.
Quyết gội rửa Rồng Tiên khổ nhục,
Chống xâm lăng khắc phục nước nhà;
Thân dầu yên giấc tha ma,
Hồn thiêng cũng được chương tòa dựa nương.
Lời khuyến khích trình tường tao nhã,
Xin chư hiền để dạ đừng quên;
Dẻo dai trí tín cho bền,
Vùa dân giúp nước tuổi tên chói lòa.
111.Dầu Thầy ở phương xa vắng mặt,
Mỗi chuyện đều thông đạt vạy ngay;
Hiểu rành hư thiệt không sai,
Dễ đâu khuất lấp mặt mày người xưa.
Khuyên đồng đạo răn chừa ác tánh,
Thương lẫn nhau đói lạnh sớt chia;
Sớm chiều linh tánh trau tria,
Điền kinh cuốc nguyệt sớm khuya rèn lòng.
Đừng bỏn xẻn mở lòng rộng rãi,
Giúp cơm tiền đồng loại nạn nguy;
121.Muốn cho trên dưới yêu vì,
Dứt câu thù oán ố tì đều bôi.
Kẻ bạo ác vinh môi múa mặt,
Người lương hiền dìu dắt khuyên răn;
Như người chẳng có ăn năn,
Cũng đừng giận giũi bởi căn ngu đần.
Dùng phương tiện nhiều lần chỉ bảo,
Rán dỗ dành đường đạo thâm siêu;
Rồi đây chẳng sớm thời chiều,
Thì người hối cải những điều tội xưa.
131.Ta đừng có kẻ ưa người ghét,
Vọng tâm trần phân biệt ngã nhân;
Dữ lành tạo hóa xử phân,
Chí chơn chí chánh cầm cân công bình.
Lưới Trời đất thinh thinh không lọt,
Dầu hung hiền chẳng sót một ai;
Nhủ khuyên đồng đạo hôm mai,
Nằm ngồi đi đứng giồi mài tánh linh.
Đời với đạo phân minh trong đục,
Thà thác vinh sống nhục ai màng;
141.Thầy xa đất khách băng ngàn,
Thương trò giấc ngủ mê man tâm hồn.
Cuộc luân chuyển dập dồn chi xiết,
Kiếp phù sanh oan nghiệt vấn vương;
Bập bều dày dạn gió sương,
Trói mình trong bốn vách tường khít rinh.
Ngày lo liệu nhục vinh, vinh nhục,
Đêm lập lòe trần tục phấn hương;
Tâm trần như ngựa buông cương,
Mặc tình thỏa thích trên đường lợi danh.
151.Mới thấy đó mày xanh tóc sậm,
Bỗng nhiên rồi đầu tẩm sương mai;
Mắt mờ tai điếc lạ thay,
Da dùn má cóp chơn tay mỏi lần.
Ma bịnh đến tử thần lẽo đẽo,
Cướp thây người vội kéo ra đi;
Mủi lòng tử biệt phân ly,
Vợ con thân thuộc li bì nhỏ sa.
Thân người sống thịt da tươi tốt,
Khi chết rồi gân cốt lạnh tanh;
161.Bao nhiêu bã lợi mồi danh,
Cũng không rờ nắm giựt giành với ai.
Dầu tiền của lầu đài muôn dặm,
Khi chết rồi cũng nắm tay không;
Chẳng đem một cắc một đồng,
Chỉ ôm tội phước trong lòng mà thôi.
Phải chịu kiếp luân hồi quả báo,
Đó là do nghiệp tạo thế gian;
Trọn lành về chốn thiên đàng,
Thung dung tự tại khổ nàn đều không.
171.Làm hung ác chịu còng chịu trói,
Chốn ngục hình lửa khói đốt thiêu;
Đọa đày chịu đủ bao nhiêu,
Đầu thai sáu nẻo theo chiều nghiệp mê.
Nào sanh, lão ê chề bịnh , tử,
Mãi sầu ưu đủ thứ lo toan;
Trên đời kẻ tiện người sang,
Là do nghiệp trước đeo mang mỗi người.
Xin nhắc nhở đạo đời châu đáo,
Mong chư hiền rõ đạo Thích Ca;
181.Lòng nhơn bác ái hải hà,
Đức Thầy khuyên bảo trẻ già thương nhau.
Dầu lao khổ chớ xao lảng trí,
Đạo diệu mầu thâm thúy đừng quên;
Ân cha nghĩa mẹ đáp đền,
Công Thầy nợ nước là nền cổ kim.
Dù phải thác cũng tìm báo đáp,
Đáy lòng son học tập gương xưa;
Trung quân hiếu phụ thải thừa,
Tràn trề dạ ái nắng mưa gội nhuần.
191.Đối đáp với nhơn quần xã hội,
Lòng yêu đương đầy mối thương tâm;
Mở lời dịu ngọt thâm trầm,
Cam ngôn mỹ hạnh từ tâm ai bì.
Đời gấp rút còn chi chậm trễ,
Chẳng tu hành kinh kệ ngâm nga;
Để rồi đến việc can qua,
Đầy đường sấu bắt hùm tha túng cùng.
Nước tới chơn nhảy đùng khó nhảy,
Trôi giữa dòng đại hải vong thân;
201.Canh chầy giục thúc bon ngân,
Ước mơ trăm họ tỉnh lần giấc say.
Dầu làm lụng hôm mai tịnh niệm,
Rán ăn cần ở kiệm nhẫn hòa;
Nghèo giàu cũng chớ xa hoa,
Manh quần tấm áo đủ mà che thân.
Hãy nhịn nhục làm nhân làm phước ,
Kẻ tật nguyền thí thuốc thí cơm;
Nghèo nàn rách lạnh sớm hôm,
Vải bô quần áo giúp cơn khó nghèo.
211.Lòng nhơn ái tùy theo tài sức,
Giúp lẫn nhau sướng cực xẻ chia;
Chớ phân nhơn ngã chia lìa,
Thương người chẳng quản nặng nề chi thân.
Đường đạo đức cân phân mọi việc,
Điều lợi dân ích nước cứ làm;
Khuyên đừng bỏn xẻn tham lam,
Hại nhơn ích kỷ họa lâm tới mình.
Dầu lợi lộc gia đình muôn việc,
Hại xóm chòm cự tuyệt chớ ham;
221.Người đời bởi quá tham lam,
Tranh giành quyền lợi phải đam oán thù.
Cái chơn tánh mờ lu thái quá,
Hấp văn minh cặn bã tranh nhau;
Mảng lo kình địch sang giàu,
Xua mình lửa đỏ khác nào phù du.
Vì vật chất xé xâu tan nát,
Dù ruột rà giết thác lẫn nhau;
Miễn mình béo bở quí cao,
Ốm gầy mặc kẻ dạ nào xót thương
Thậm chí đến gia đường ruột thịt,
231.Còn oán thù xích mích hại nhau;
Sá chi nhơn loại đồng bào,
Đường danh nẻo lợi ồn ào đua chen.
Tâm trần tục tối đen như mực,
Ngày lại ngày cắn rứt xốn xang;
Mưu nầy thế nọ tính toan,
Hại nhơn hại vật bạc vàng tham tranh.
Lời khuyên nhủ đêm thanh tao nhã.
Ớ chư hiền để dạ lóng nghe;
Tây Phương Cực Lạc lập lòe,
241.Nội trong nháy mắt màn the phủ phàng.
Gắng chờ đợi trống sang ba nhịp,
Tỉnh mộng sầu giấc điệp đã tan;
Nay còn ngây ngất mê man,
Cuồng tâm rối trí giữa đàng lấp chông.
Lời nhắn gởi con Hồng cháu Lạc,
Lánh xa trường đỗ bát môn trung;
Trau giồi đức hạnh mảnh nhung,
Xa lìa tội ác hào hùng đừng ham.
Khuyên cặn kẽ luận đàm êm nhỉ,
251.Quá thương trần dẫn chỉ trong đêm;
Từ ngôn luận biện dịu mềm,
Chớ đâu chuốt ngót thừa thêm lẽ nào.
Noi đức tánh siêu cao Phật Tổ,
Níu chơnThầy tế độ lần ba;
Lưới mê gươm trí chói lòa,
Cắt dây oan nghiệt tâm đà rảnh rang.
Thấy nhơn sanh lầm đàng lạc lối,
Bị giam cầm ngục tối vô minh;
Tỉnh hồn ngó lại mà kinh,
261.Thiên tai nhơn họa bên mình vấn vương.
Ân Thầy đã vạch đường mở ngõ,
Chẳng rèn lòng lớn nhỏ thả trôi;
Làm cho đạo pháp suy đồi,
Kẻ chê người nhạo vô hồi đớn đau.
Mãi tranh nhau quyền cao lộc cả,
Hiếp bần cùng rách rã từ manh;
Cạn lời khuyên nhủ đêm thanh,
Long Hoa muốn gặp tu hành chánh tâm.
Ngày hai buổi trầm ngâm kệ sám,
271.Vẹt gút mù tan đám sương mai;
Tâm hồn an tịnh thanh bai,
Êm đềm đáy nước châu bày sáng trưng.
Ba nghiệp khẩu, ý, thân thanh tịnh,
Mối diệu huyền tụ đỉnh sáng khai;
Tìm lòng kiến cảnh bồng lai,
Mông mênh dáo dát bên ngoài uổng công.
Phận trai trẻ non sông bảo thủ,
Nợ nước nhà huyền vũ đỡ nâng;
Đền ơn thủy thổ quốc dân,
281.Nâng thành đỡ vạc trong cơn biến loàn.
Nhơn với nghĩa mối mang thành giáo,
Phận làm người ở thảo ăn ngay;
Xóm chòm ai dám chê bai,
Âm cung Diêm Chúa khen tài hiền nhơn.
Vì miếng lợi thua hơn tranh cạnh,
Thác đi rồi kẻ hảnh người kiêu;
Thạch Sùng Vương Khải bấy nhiêu,
Đủ làm bá tánh biết nhiều đời nay.
Cuộc giả tạm tên bay trước mặt,
291.Nỗi mất còn mây bạc gió đưa;
Tuy là lộng lộng lưới thưa,
Khắp trong vũ trụ không thừa một ai.
Ánh nhựt nguyệt đêm ngày xoay chuyển,
Soi khắp Trời bất biến dân ôi;
Tiền tài bạc nghĩa như vôi,
Sao người ta lết chen ngồi vuốt ve.
Dầu câm ngọng ư-e đui điếc,
Cũng dùng tiền cần thiết sống sanh;
Bao nhiêu giọt máu dân lành,
301.Đem ra tô điểm trường thành yêu ma.
Đêm thắt thẻo lòng ta não nuột,
Chén cay nồng rán nuốt sao vô;
Tràn trề lời lẽ trược thô,
Rung hồn bá tánh mơ hồ nữa thôi.
Nợ cơm áo đền bồi vận bĩ,
Chớ ngại ngùng tâm sĩ rối ren;
Làm cho rạng mặt sách đèn,
Nên danh nam tử mở then Lạc Hồng.
Căn dặn lòng non bồng sen trổ,
311.Phận các đằng ủng hộ tùng quân;
Điệu đờn khoan nhặt từng tưng,
Châu lang có thấu tấm thân liễu bồ.
Thầm khẩn vái Nam Mô Bồ Tát,
Độ lương hiền được bát cơm dư;
Di Đà Phật Tổ thường cư,
Ra vào độ thế lương từ tánh mê.
Câu đạo pháp bồ đề siêu thẳm,
Dẹp tâm trần say đắm từ lâu;
Di Đà lục tự sáu câu,
321.Thường hành bình đẳng mới hầu lặng tâm.
Nền Phật pháp thậm thâm vi diệu,
Gắng công mài đàm tiếu mặc ai;
Kìa non nước cũ nay mai,
Rỡ ràng chủng tộc gặp ngày hiển vang.
Cơ tạo hóa thay màn đổi lớp,
Cuộc bi hoan tan hợp trớ trêu;
Lang thang vất vả bập bều,
Con hiền ủ rũ lá lều nắng mưa.
Mắt trông thấy trời trưa muốn tối,
Giấc canh trường mong đợi bình minh;
331.Tấm lòng thốn thức hãi kinh,
Thấy đời ăn ở bất mình ngán ngao.
Có mấy kẻ cháo rau sang sớt,
Biết tìm điều lợi vật dưỡng nhơn;
Bề ngoài cửa miệng bơn tơn,
Xưng mình biết nghĩa biết nhơn ai bằng.
Thấy những kẻ miệng lằn lưỡi mối,
Biết bao giờ sửa lỗi chừa mê;
Đau lòng tấc dạ ủ ê,
Ước đài nguyệt cảnh soi về trần gian.
341.Cho hung dữ ăn năn cải hối,
Khiếp oai Trời sợ mối kiền khôn;
Xác trần chớ khá trọng tôn,
Ăn sang mặc đẹp lanh khôn đủ điều.
Chừa lời lẽ dệt thêu bốc xước ,
Nói năng thời suy trước xét sau;
Nhường người tuổi lớn tác cao,
Chớ nên quát sướt hùng hào chát tai.
Lời khuyên bảo mong ai để dạ,
Sửa tâm lành vị quả cao thăng;
351.Đừng cho nghĩ quấy tưởng xằng,
Mây mù vẹt mở cung trăng chói ngời.
Ngàn muôn kiếp chịu đời thống khổ,
Bởi dấn thân hang ổ vô minh;
Đeo mang nghiệp chướng bên mình,
Tạo gây tội phước sự tình đa đoan.
Chịu quả cảm trần gian sanh sử,
Tỉnh tâm rồi vạn sự giai hưu;
Niết Bàn chẳng việc thuế sưu,
Tìm nơi an dưỡng oán cừu đều không.
Chẳng con vợ đèo bồng mệt nhọc,
361.Cả thập phương thân tộc gia viên;
Không hề chứa chấp tư riêng,
Khám đường chẳng có xích xiềng không ngơ.
Nay trần thế ăn dơ ở bẩn,
Quanh năm lo số phận nghèo giàu;
Lớp thì vợ yếu con đau,
Ăn thô mặc rách quơ quào đủ phương.
Đời là khổ tu bươn bớ thế,
Mãi chần chờ rồi kế da nhăn;
Ngày qua ngày giảm số căn,
371.Tử thần chẳng đợi xác thân trẻ già.
Lo kẻo trễ ngày qua tháng lụn,
Hấp hối rồi vô dụng người ôi;
Giấc nồng say gục rồi thôi,
Chuông linh đánh thức hãy chồi dậy đi.
Vận nước gặp thạnh suy biến đổi,
Bọn gian thần xoi mội tràn đê;
Sao còn bận việc trăng huê,
Các lầu ghẹo hãnh vỗ về phấn son.
Lâm bịnh khổ mất còn nào biết,
381.Vướng lưới sầu như điếc như đui;
Mặt hồng gượng gạo bải buôi,
Thù cha trả đặng mới vui lòng nầy.
Đường diệu vợi bao nài sành sỏi,
Miễn lẫy lừng dòng dõi Rồng Tiên;
Anh em chớ giận đừng phiền,
Dẫu rằng thác mất danh hiền thơm tho.
Chớ lầm tưởng cay co ác độc,
Đừng vội tin dường mật hiền lương;
Việc đời tráo trở khó tường ,
391.Mặt ngoài coi chắc cột rường mối ăn.
Thấy bá tánh lầm tăng sãi khó,
Miếng mồi câu móc mỏ có ngày;
Thân người Nguyệt Kiểu dạn dày,
Nơi chùa San Hậu bị tay sãi mầm.
Ai tường thấu thâm tâm dương thế,
Lòng thích ưa lễ mễ xôi chè;
Miệng ngoài đủ thế đậy che,
Giả vờ đạo sĩ lập lòe hại dân.
Khuyên bá tánh tâm thần định tỉnh,
401.Diệt tà tinh ám ảnh linh hồn;
Giả danh hiệu Phật Thế Tôn,
Đủ điều dụ hoặc sa môn lạc lầm.
Rán ngừa tránh kẻo lâm tai ách,
Uổng công trình bộc bạch tu hành;
Sa vào lưới sắc ma ranh,
Ngàn đời muôn kiếp bao quanh ngục tù.
Khuyên cần mẫn chí tu xăng xớm,
Gặp mưa nhuần sẽ ớm hoa thơm;
Giường linh cúng kiếng quải đơm,
411.Tổ đường chứng giám miếng cơm hiếu tình.
Trên Trời Phật quang minh soi thấu,
Tấm lòng thành lão ấu nhi tôn;
Sự vong như thể sự tồn,
Thảo cha ngay chúa trọng tôn tháng ngày.
Dốc lòng tầm Như LaiBồ Tát,
Lánh phiền ba ồ ạt xuyến xao;
Sao bằng mượn thú tiêu dao,
Trăng thanh gió mát ra vào thung dung.
Mắt chẳng thấy bướm ong lượn gió;
421.Tai không nghe lời nọ tiếng kia;
Trong ngoài chẳng cách chẳng lìa,
Tâm vô quái ngại bồ đề thâm cao.
Cõi tạm giả dầu hao tim lụn,
Lo mãn đời chưa phủng vào đâu;
Mãi còn lúng túng rừng sâu,
Lội bơi biển thẳm dãi dầu mỏi mê.
Dầu ai có cười chê dại dột,
Quá não nề cái lốt giả thân;
Trụ Vương bởi đắm mỹ nhơn,
431.Thành nghiêng vách đổ giam cầm Văn Vương.
Lo rượu thịt cao lương mỹ vị,
Xem thai bào thiêu hủy lương dân;
Nhẫn lòng mổ bụng chặt chân,
Nghe lời Đắc Kỷ giết thần Tỷ Cang.
Đem công nghiệp Thành Thang hủy hoại,
Tôi trung thần giết hại đẩy xua;
Nghe lời theo bọn a dua,
Làm dân trong nước bốn mùa điêu linh.
Chừng hối hận thiêu mình mà chết,
441.Bao nhiêu điều mê mết rã tan;
Kiếp người tợ gió thổi ngang,
Lẹ làng điễn chớp mơ màng giấc say.
Lời kêu gọi gái trai tỉnh thức,
Nhẹ gót hồng chầu chực bệ đơn;
Giọng vàng phụng gáy kỳ sơn,
Thành Vương trổ mặt thần dân thái bình.
Chừng nghe đặng tam thinh tiếng nổ,
Cảnh rừng tòng nhụy trổ hoa đơm;
Non đài bát ngát hương thơm,
451.Thần Tiên xuất thế tiếng đờn Ma Ha.
Phong thần hội Tiên gia trổ mặt,
Dụng phép mầu dẹp giặc trừ thù;
Cơ đồ Minh Chúa tay thu,
Trị an bá tánh đâu đâu thanh nhàn.
Câu kệ mọn thở than tỉ mỉ,
Đạo chẳng rành chơn lý chưa thông;
Tài sơ trí siển mặc lòng,
Quá thương bá tánh ngõ hòng nhủ khuyên.
Nào dám tiếng xéo xiêng quèo móc,
461.Xin chư hiền hiểu tột giùm cho;
Công Thầy lặn lội cam go,
Dạy dân ráo tiếng hát hò hết hơi.
Lời huyền bí cạn bày tiêm tất,
Chỉ cho trần nấc bước đàng đi;
Lạc lầm bởi tánh mê si,
Vong sư phản đạo còn gì bớ dân.
Đạo người có tứ ân trọng đại,
Mối luân thường túc trái oan khiên;
Trọng cha kính mẹ bạn hiền,
471.Ân Thầy nghĩa Chúa ước nguyền trả xong.
Nuôi chim nọ đủ lông đủ cánh,
Rồi vụt bay cho rảnh thân kia;
Thương dân hột lụy đầm đìa,
Làm ân mắc oán khó bề yên thân.
Khuyên bá tánh lấy ân đáp oán,
Thì oán tiêu thân đặng bình an;
Lời châu tiếng ngọc muôn vàn,
Đức Thầy chỉ bảo mọi đàng cho dân.
Muốn cho đặng xác thân tươi thắm,
481.Khắp hoàn cầu trông ngắm mến thương;
Sớm chiều bát nước vùa hương,
Cúng dưng hoa quả tổ đường vái van.
Nhờ ơn trên tam hoàng xoay chuyển,
Độ con lành được miếng hoa thơm;
Liên đài nhụy trổ huê đơm,
Di Đà ban thưởng đức ơn kẻ hiền.
Khuyên bá gia tâm chuyên lục tự,
Thành lòng ngày một chữ cũng nên;
Non bồng dạ muốn siêu lên,
491.Thất tình lục dục chớ nên để lòng.
Phải gạn đục tầm trong não trí,
Phật tức tâm hồi vị an cư ;
Giữ lòng bất động như như,
Huờn nguyên phản bổn đại từ đại bi.
Tay nắm ngọc còn đi tìm ngọc,
Mình cỡi trâu hồ hộc kiếm trâu;
Đạo mầu thâm diệu huyền sâu,
Bá gia muốn rõ quày đầu ăn năn.
Phải chừa bỏ tội căn tạo trước ,
501.Dè lỗi sau chẳng được vãng lai;
Sửa mình trong kiếp hiện nay,
Nhứt tâm bất thối Phật đài được lên.
Oai Trời đất vang rền bốn bể,
Dụng phép mầu cứu thế độ dân;
Non đài đượm vẻ các lân,
Dẫy đầy ngọc báu châu trân sẵn dành.
Dân tộc được nhàn thanh thắm thía,
Miếng ruộng tâm trồng tỉa giống xưa ;
Mùa màng chẳng sớm thời trưa,
511.Mọc mầm bông trái thãi thừa no nê.
Nay mặc kẻ cười chê khờ dại,
Sau hiểu rành người lại mến ưa;
Bây giờ môi miếng đẫy đưa,
Nói trời nói đất thêm thừa mặc ai.
Chúng mê dốt ỷ tài ỷ tận,
Ta tỉnh tuồng dức bẩn người ngu;
Rán mà mài miệt chí tu,
Sớm chiều hai buổi công phu cho thường.
Đời đã đáo thập phương thọ nạn,
521.Lũ gian hùng bè đảng hại dân;
So tài cao thấp tranh phân,
Xưng hùng xưng bá rộ rần gớm ghê.
Khắp thế giới thảm thê thê thảm,
Giặc bao tròn xe trạm đua chen;
Bốn phương trời kịch mây đen,
Mưa sa ướt át bùn lèn trây trua.
Bên thềm kẻ bán mua lịu địu,
Cảnh đói nghèo hụt thiếu cùng phương;
Ai người chua xót quê hương,
531.Cơm tiền dư dả đăng đường cho dân.
Rách cho áo đỡ cơn rét lạnh,
Đói giúp cơm hẻo hãnh no thân;
Đau giùm thang thuốc mạnh lần,
Mở lòng đại độ thôn lân buổi nàn.
Đừng riêng sống ăn sang mặc sướng ,
Quên đồng bào thuê mướn chẳng no;
Làm người tội phước âu lo,
Thương nhau chớ lắm so đo nghèo giàu.
Muốn được khỏi mòn hao thân thể,
541.Xả thân cầu đạo để thoát ly,
Xé lòng nén chữ từ bi,
Sắc không không sắc nhượng tùy thời cơ.
Cũng như nét cuồng thơ Phật giáo,
Đức Thầy dùng nền đạo phổ thông;
Ai người thấu đáo đục trong,
Thương Thầy xa cách bởi lòng yêu dân.
Muốn cứu thế mang thân ái quốc,
Độ nàn trong vạn vật muôn loài;
Thay hình đổi dạng ai hay,
551.Đáng người chiến sĩ xứng tài giáo dân,
Vì phương tiện thời nhân hoá độ,
Phải tùy đời giác ngộ chúng sanh;
Cũng người liệt liệt oanh oanh,
Cũng nhà giáo chủ tu hành siêu cao.
Xin bá tánh đua nhau xét nghiệm,
Định tâm thần tam điểm phản quang;
Canh chầy dạ ái ngổn ngang,
Thấy trong đồng đạo lỡ làng chữ tu.
Được bập bẹ ít câu bỏ túi,
561.Bước ra đàng hân hủi người ta;
Hô hào đạt lý Thích Ca,
Tưởng mình thông thạo ai mà dám đương.
Đèn dầu chống thái dương mới lạ,
Nước giếng so biển cả quái kỳ;
Lỗi lầm sửa cải mau đi,
Ở cho biết nhượng biết tùy dưới trên.
Già thì kính trẻ nên nhẫn nhịn,
Cha mẹ người trọng kỉnh như nhau;
Anh em bậu bạn thâm giao,
571.Ghi xương chạm dạ một màu chung thân.
Ở cho kẻ đồng lân quí mến,
Chuộng hiền tài nơi bến Vĩnh Tân;
Đem về làm bạn cố nhân,
Bá Nha trổi giọng có Chung Tử Kỳ.
Được hòa nhịp trí tri cang kỷ,
Ngày lại ngày yêu quí lẫn nhau;
Khuyên người lọc cát lừa thau,
Tìm ra châu báu non đào kỷ cương.
Đứng trượng phu đường đường oanh liệt,
581.Trai anh hùng xử việc ôn hòa;
Những người hạ mã dung tha,
Thương người dưới ngựa như là con em.
Tài bách chiến ăn nem ăn gỏi,
Chẳng bao giờ xưng giỏi xưng hay;
Muôn đời nào dám chê bai,
Kẻ tôn người kính thường ngày sùng tu.
Lòng mong mỏi sĩ nhu hậu tấn,
Noi gương xưa hướng dẫn cùng nhau;
Mơ hồ như cá ở ao,
Tìm phương giải thoát đồng bào Việt Nam.
591.Trừ sạch bọn quan tham ô lại,
Mưu hòa bình tồn tại dân sanh;
Từ thôn quê đến thị thành,
Nhà nhà yên ổn dân lành vui tươi.
Dân mất tánh biếng lười nhút nhát,
Thường siêng năng cày cuốc phô trương;
Thợ thuyền được hưởng đồng lương,
Hạng người làm ruộng, buôn, thương vui mừng.
Kẻ gian tế cải thân sửa tánh,
Người hiền lương đạo hạnh gia tăng;
601.Đâu còn biến đổi rối nhăn,
Là ngày dân chúng hạ tằng thảnh thơi.
Nay chạm trổ hết hơi đuối sức,
Đứng trung thần khổ cực đừng nao;
Muốn rành bộ mặt vàng thau,
Chịu người nấu lọc sôi trào mấy phen.
Nay lộ vĩ trắng đen lắm kẻ,
Máy trời xoay mau lẹ như tên;
Anh em chớ vội đừng quên,
Chí tâm niệm Phật lâm đền mẹ cha.
611.Đức Thầy dầu ngàn xa cách trở,
Chỉ bản đồ chỗ ở chỗ ăn;
Con lành thì sớm qui căn,
Hung hăng gian trá cho rằng sai ngoa.
Đừng bắt chước tà ma ngoại đạo,
Ăn nói lời hỗn ẩu tục thô;
Cũng đừng ỷ chúng hiếp cô,
Sơn băng thủy kiệt đói khô bây giờ.
Nhà thượng cổ tiền kho lúa vựa,
Mẹ hiền đầy vú sữa nuôi con;
621.Giữ gìn dạ sắt lòng son,
Trung trinh bạch tuyết vẹn tròn tánh tâm.
Tu kẻo trễ phải lâm tai họa,
Chừng đáo đầu như gã Trịnh Hâm;
Lặng nhìn đỉnh núi đăm đăm,
Tựa hồ Khương Tử tay cầm cần câu.
Chừng được cá công hầu toại chí,
Chưa gặp thời kẻ bỉ người khinh;
Con người hết nhục tới vinh,
Đổi thay mấy lát vang thinh khắp cùng.
631.Nếu bá tánh có dùng nói nữa,
Bằng chẳng ưa khép cửa vọng phu;
Đợi chờ chị nguyệt hết lu,
Nụ cười hé nở trà thu đãi đằng.
Khi tròn khuyết như trăng chẳng khác,
Việc thạnh suy chốc lát đổi thay;
Tơ lòng rối rắm ai hay,
Khi vui khi tánh biết ngày nào thôi.
Còn vận bĩ kẻ vôi người bạc,
Mối manh nầy vò nát như tương;
641.Héo von chín khúc đoạn trường ,
Mắt trông thế sự tơ cuồng rối thêm.
Biết bao thuở nạn êm dân tịnh,
Khắp hoàn cầu thiện tín thương nhau;
Thấy đời bụng dạ gươm đao,
Cắn răng nhắm mắt lệ trào sụt sôi.
Nào ai dám hở môi phán đoán,
Trên đường dài kẻ cản người ngăn;
Tủi lòng nhện bủa lưới giăng,
Muỗi ruồi chẳng chết, chết thằng chắc môi.
651.Lời kêu gọi dân ôi tỉnh trí,
Đời sắp tàn đắm nhụy mê hoa;
Nhớ lòng niệm Phật Di Đà,
Tầm phương tịnh độ Thích Ca giáo truyền.
Nên biết nhẫn biết kiêng quấy phải,
Mở lòng nhơn vạn đại thứ tha;
Thương nhau như kẻ ruột rà,
Mến nhau khác thể bầy gà cúc côi.
Loài chim chóc tha mồi về ổ,
Nuôi cho con trong tổ đặng no;
Làm người ta phải chung lo,
661.Để thua súc vật thẹn thùa mày râu.
Buồn bá tánh độc sâu tiêm tất,
Biết bao giờ làm Phật làm Tiên;
Quay cuồng tâm trí đảo điên,
Tham danh tham lợi điêu huyền nổi trôi.
Tớ hại chủ chúa tôi phản trắc,
Trò hại thầy con giết mẹ cha;
Cũng vì sắc đẹp tài hoa,
Tiền tài ám nhãn mới là giết nhau.
Sống cũng chẳng bao lâu kế thác,
671.Sao lòng người hung ác chập chồng;
Làm cho Đất lở Trời long,
Nhà tan cửa nát máu hồng tuôn rơi.
Ai nói đến lừng hơi giận giũi,
Quyết trả thù dạ mới ưng cho;
Tâm trần gút mắt cay co,
Từ đây sửa lại xuống đò từ bi.
Mắt ngó thấy tứ vi hổ báo,
Tai nghe rền cầy cáo mài nanh;
Mãng xà núp ẩn rừng xanh,
681.Lội bơi uốn khúc hoành hành gớm ghê.
Kẻ bạo ác hồn mê bất tỉnh,
Dưới sông thời lỉnh nghỉnh sấu to;
Dưới trên con hét con hò,
Lớp bay lớp chạy giày vò người hung.
Lũ gian ác vô cùng sợ hãi,
Người lương hiền chậm rãi bước đi;
Nhờ ơn các bực thần kỳ,
Thương người trung hậu hộ trì bình an.
Kẻ bạo ác thầm than trộm trách,
691.Phật Trời không mở vạch rừng mê;
Đến nay gặp việc thảm thê,
Hồn phi phách tán tái tê mặt mày.
Lời bút tích trƣng bày thâm diệu,
Bởi tối tăm chẳng hiểu thời thôi;
Để chừng đến việc khổ rồi,
Biết đâu trốn khỏi lưới Trời bủa giăng.
Hỡi đồng đạo ăn năn chừa lỗi,
Vững tinh thần gìn cội gốc xưa ;
Đói nghèo tạm đỡ muối dưa,
701.Đừng lòng gian xảo phước thừa Phật ban.
Nghèo trong sạch xóm làng yêu quí,
Giàu nhỏ nhoi kẻ thị người khinh;
Trên Trời huyền diệu thinh thinh,
Thần minh soi thấu nhơn tình thế gian.
Chốn Tây Phương sen vàng chói ánh,
Cảnh Niết Bàn lóng lánh hào quang;
Lập đời thượng cổ huy hoàng,
Dưới trên hòa thuận gia đàng ấm no.
Mùi bát nhã thơm tho khắp chốn,
711.Tam giáo đều một bổn thủy nguyên;
Thánh tài xuất thế bình yên,
An bang tế thế vô biên trí mầu.
Khắp thiên hạ cúi đầu khâm phục,
Cả hoàn cầu giáo dục như nhau;
Đại đồng bác ái thâm cao,
Phật Trời phân định nước nào cũng tu.
Thương lẫn nhau không thù không oán,
Sớt ngọt bùi giới hạn nào phân;
Sạch lòng chẳng chấp ngã nhân,
721.Trên vua ngay thẳng dưới thần cúc cung.
Trong gia đạo ngoài cùng lân quốc,
Nhường nhịn nhau ở thật ăn ngay;
Đâu đâu thạnh trị trong ngoài,
Từ trên nhơn vật đến loài cỏ săng.
Cũng được hưởng gió trăng đầm ấm,
Vẻ tươi cười đượm thấm hoa xinh;
Từ đây lừa lọc sạch tinh,
Đặng chầu chúa thánh Long Đình xướng ca.
Khá mài miệt lòng ta chơn chánh,
731.Muốn tu hành phải lánh hơi men;
Tránh xa tiếng huyễn giọng kèn,
Dụ dân hoặc thế hư hèn đạo tâm.
Nền Phật pháp thậm thâm vi diệu,
Nợ gia đình lịu địu rối ren;
Nóng lòng vận mạt thời đen,
Trách Trời trách Đất bóng đèn leo heo.
Trời u ám trì neo vững chắc,
Đất xoay vần gìn chặt thần tâm;
Chí tu công khó kiếm tầm,
741.Ở trong não óc trăng rằm trung thu.
Chớ cuồng trí lu bù điên đảo,
Khó mở mang Phật đạo nơi tâm;
Dại khờ niệm Phật lâm nhâm,
Đừng cho gián đoạn hơn cầm tiền muôn.
Kéo lũ lượt qua truông vượt ải,
Bị thú hùm giết hại thớt thưa;
Ruột rà muối xát tớt tưa,
Nhăn mày nhíu mặt đổ thừa cho ai.
Con đứa cõng đứa đai lịu địu,
751.Phận túng nghèo kẻ níu người lôi;
Yêu tinh bắt giết làm mồi,
Thương người ăn ở bạc vôi không còn
Cha quá bận vì con cuồng trí,
Thầy thương trò nhã ý Khùng Điên;
Cũng là một giống Rồng Tiên,
Sao đành trở mặt ghen hiền phân tranh.
Lời thệ hải sơn minh có nhớ,
Qui y thời lớn nhỏ làm y;
Đâu đành đem bạc đổi chì,
761.Bán thân cửa điếm còn gì giá danh.
Thà ẩn túp lều tranh toại chí,
Hơn đem thân làm đĩ tứ thời;
Xa hoa rượu thịt ăn chơi,
Bao nhiêu nước mắt mồ hôi đồng bào.
Lấy oai thế hùng hào kẻ yếu,
Dọa nạt người bồ liễu cưỡng dâm;
Vi trùng xã hội ăn thâm,
Dân nghèo nước túng vì mầm tham ô.
Làm sao đời trầm trồ khen ngợi,
771.Cả quốc dân kẻ đợi người trông;
Vui say rượu tía trà hồng,
Mới là xứng đáng con Rồng cháu Tiên.
Từ nay khá tâm chuyên nhứt niệm,
Rạch tim trần ấn điểm quang minh;
Phá tan xiềng xích buộc mình,
Sáu trần chẳng nhiễm bảy tình không vương.
Đạo chừng ấy ngũ hương bát ngát,
Thiên nhãn thông soi khắp mười phương;
Tai nghe rộng hiểu sáu đường ,
781.Mũi thông khắp cả mùi hương ba đời.
Tâm hiểu hết nhiều nơi nhiều kiếp,
Thân ra vào như chớp còn thua;
Không còn mảy mạy trược thô,
Mới là nhứt vật tâm vô nhiệm mầu.
Thân tự tại vào chầu đế khuyết,
Lòng sạch trong tợ tuyết đượm nhuần;
Liên bào hóa hiện kim thân;
Không già không bịnh tử thần tránh xa.
Kêu réo bớ bá gia thức tỉnh,
791.Kết liên dây thiện tín tụ đoàn;
Thương Thầy mến đạo bảo toàn,
Đỡ nưng nói giống sống còn vĩnh miên.
Đừng ỷ lại đương quyền mạnh mẽ,
Hiếp bần cùng khinh rẻ cô thân;
Đâu lưng giúp nước vùa dân,
Tạo nền hạnh phúc hương lân an hòa.
Dù cho luật Tiêu Hà nghiêm khắc,
Đối trung thần tưới nước vun phân;
Hãy nên trừ bỏ tham sân,
801.Làm mười điều thiện dựa gần Tiên Bang.
Đạo bát chánh phá tan khổ não,
Tỏ ngộ rồi thành đạo Bồ đề;
Khuyên người chớ có trễ bê,
Siêng năng cần mẫn trở về ngôi xưa,
Căn kiếp trước tối sơ thượng cổ,
Bởi lạc lầm đạo lộ vô minh;
Quay cuồng trong nẻo tử sinh,
Ngàn muôn khổ báo buộc mình mê ly.
Nay gặp ĐứcTừ Bi chỉ giáo,
811.Mở mang hồi Kỷ mão đến nay;
Rú rừng dẹp phá gốc gai,
Dìu dân dắt chúng liên đài siêu thăng.
Đời tận diệt cùng căn mạt kiếp,
Chẳng tu hành cho kịp hay sao;
Đức Thầy gánh chịu khổ lao,
Vì thương sanh chúng bôn đào Bắc Nam.
Bị miệng thế luận đàm tai tiếng,
Thân dãi dầu lặn giếng trèo non;
Từ bi thương chúng như con,
821.Khổ lao chẳng nệ mỏi mòn tấm thân.
Bởi cuộc thế sắp gần tận diệt,
Dạy trần gian ráo riết không thôi;
Nay còn thân thể nổi trôi,
Hà phang vô định lắm hồi truân chuyên.
Tay mượn lấy Long Tuyền kiếm bạc,
Để bình Ngô sát thát dễ nao;
Nhọc nhằn tiêu tứ công lao,
Nắng nồng chẳng nón mưa rào không tơi.
Nguyện bồng bế người đời no ấm,
831.Thân muỗi mòng bụi bậm sá bao;
Miễn đời được phẩm giá cao,
Dầu cơn bão tố lòng nào buông rơi.
Gieo đạo đức đợi thời kết quả,
Được đơm sai bát nhã thơm tho;
Ớt gừng những giống cay co;
Trên đời lắm kẻ móc moi tỉa trồng.
Khuyên bá tánh trì lòng niệm Phật,
Chớ học đòi văn vật trớ trêu;
Ngoài đường ma quỉ réo kêu,
841.Trong nhà lặng tiếng niệm nhiều Nam Mô.
Bịnh ngặt uống thuốc vô thì hết,
Cứ biếng lười có chết đừng than;
Ân Thầy tiếng ngọc lời vàng,
Nghe rồi chẳng sửa phải mang khổ hình.
Phật dầu có phép linh thuốc giỏi,
Cũng vô phương trị khỏi cho dân;
Cãi Thầy lỗi đạo quân thần,
Khác nào ông Lữ Đồng Tân bị đày.
Chịu quở phạt la rầy Sư Trưởng,
851.Vì phạm tăng nghiệp chướng còn mang;
Nhủ lòng đồng đạo lo toan,
Lỗi lầm sửa lại Phật đàng đáo lai.
Kẻo luân chuyển xác thây mê mệt,
Chịu phong trần sống chết liên miên;
Nước nhà thất đảo bát điên,
Có ai rể thảo dâu hiền thử nao.
Đồ ăn nói hỗn hào sất sượt,
Lo hại dân hại nước là nhiều;
Chừng nào đến việc lửa thiêu,
861.Cùng đường tự hối có điều chi hay.
Ngồi tiệc rượu không say mới đúng,
Làm quan đừng lạm dụng đáng khen;
Ngày nay cửa Khổng gài then,
Cho nên nho giả mon men rượu chè.
Nói rượu lễ chẳng dè mất trí,
Khuyên chặt gìn đạo lý giới răn;
Bạc bài hút sách rối nhăn,
Lỡ ghiền rán bỏ mới rằng chí tu.
Ở dương thế đồng xu cắc bạc,
871.Hay ví như cộng rác nhỏ nhoi;
Cũng đừng dòm ngõ ngó oi,
Ăn cà ăn cắp người coi ra gì.
Hành chánh đạo cho y theo Phật,
Đem cửa nhà báu vật trân châu;
Tuông ra nào có góp thâu,
Đầy lòng bố thí đài lầu chẳng ham.
Bố thí con còn đam thí vợ,
Nào tượng voi xe cộ thí luôn;
Băng rừng vượt bể qua truông,
881.Tìm ra chánh đạo dắt đường chúng sanh.
Thân Thầy cũng gương lành nối chí,
Đem đạo mầu chơn lý phổ thông;
Anh em một dạ một lòng,
Đồng tâm hiệp sức ngõ hòng tu thân
Chớ chấp kẻ ngu đần dại dột,
Làm những điều mê dốt sai lầm;
Kêu gào cho chúng hồi tâm,
Thiên đàng trở gót Lôi Âm phản hồi.
Người ghẻ lác phung cùi u nhọt,
891.Cũng giống nòi chung một bào thai;
Tội trừng công thưởng bằng nay,
Khuyên đừng chửi bới nhiếc xài hao hơi.
Đêm canh vắng trò chơi bóng nguyệt,
Tiếng dặn dò trần thiết đệ huynh;
Cuộc đời đầy dẫy yêu tinh,
Nói năng dè dặt chớ tình lả lơi.
Từ nay đến gặp đời thượng cổ,
Lướt bụi bờ nhiều chỗ gai chông;
Nhưng mà nhẫn nại với lòng,
901.Thì là thoát khỏi cùm gông đọa đày.
Đời thường có tài tai ghen ghét,
Kẻ gian thần thót mét trung lương;
Bàng Hồng thì cũng tan xương,
Địch Thanh võ tướng đường đường liệt oanh.
Làm chơn chánh nhọc nhành lao lý,
Gặp tai nàn chẳng luỵ đến thân;
Dầu cho chịu lắm não nần,
Từ đây huynh đệ ân cần tâm tu.
Phải nêu cao trượng phu khí phách,
911.Cứu dân nàn cấp bách nay mai;
Đêm trường cầu Phật Như Lai,
Phủ che bá tánh khỏi ngày đao binh../.
*** Hết ***
Đăng nhận xét