TỪ GIÃ BỔN ĐẠO KHẮP NƠI |
Từ Giã Bổn-Đạo Khắp Nơi
Từ ngày mượn xác trần-hồng đáo lai.
Tháng năm Kỷ-Mão đến nay,
Khắp trong bá-tánh gặp bài sám-kinh.
Lời văn tao-nhã hữu tình,
Bởi vưng sắc-lịnh Thiên-Đình sai ta.
Xuống trần Lão dụng khuyến-ca,
Đầu đuôi cạn tỏ ngâm-nga ít bài.
Tạm đây Ta mắc lui hài,
Vì trên bệ-ngọc triệu rày hồi-qui.
Không đành tách gót ra đi,
Nên dùng lời lẽ từ thì bá gia.
Thiên đường lộ ấy nào xa,
Muốn cho khỏi khổ xem qua lời truyền.
Dấu xưa noi tích Thánh-hiền,
Thương trần mượn xác bút liền ra cơ.
Thấy trong bá tánh ngẩn-ngơ,
Nay Thầy xa tớ bơ-vơ một mình.
Gẫm trong hai chữ nhục-vinh,
Xưa nay thiên hạ kệ kinh ít dùng.
Cúi đầu tâu lại cửu trùng,
Ngọc-Hoàng ban chiếu lão Khùng giáo-dân.
Gái trai lớn nhỏ ân cần,
Chùi lau vẹn mặt thì gần Thánh Tiên.
Tây-phương đua nở hoa liên,
Chờ người hữu phước thiện duyên từ-hòa.
Nhắn cùng bổn-đạo gần xa,
Ta về âm cảnh thiết-tha tâm tràng.
Đời nay hiếm kẻ nghinh-ngang,
Chẳng kiêng lời lẽ Phật-đàng từ-bi.
Lang tâm trắc-nết vô-nghì,
Nhỏ không biết nể kính vì bề trên.
Nhỏ to lời lẽ chớ quên,
Rán mà nguyện vái đặng đền ơn sâu.
Bá gia bá tánh đâu đâu,
Xem lời ta chỉ về cầu tại gia.
Có đau thì thuốc đó mà,
Dòm trong bản chữ về nhà kiếm cây.
Nay Thầy chịu lịnh về Tây,
Tạm ngưng đạo-đức ít ngày Thầy qua.
Dạo trong khắp cõi ta-bà,
Nơi nơi chốn chốn quỉ ma rối loàn.
Chữ rằng: “Nhơn thiện vi nan”.
Dầu cho tài trí cũng mang nợ nần.
Có đeo bịnh tật vào thân,
Giấy vàng xé nhỏ vái Thần độ vô.
Thành lòng nước lã nên hồ,
Hữu tâm chí đức cam-lồ Phật ban.
Cám thương bá-tánh tai nàn,
Gặp cơn dông tố nào an lòng nầy.
Đờn ta vốn thiệt không dây,
Vô duyên khó biết lời Thầy nói xa.
Từ trên tới dưới thuận hòa,
Hay hơn châu báu ngọc-ngà giàu sang.
Thầy về tâu lại Phật-đàng,
Cúi xin nhỏ phước xóm làng bình yên.
Giống nòi thiệt cốt Rồng Tiên,
Mà nay lạc mất gương hiền nơi đâu.
Muốn xem bốn chữ Long-Châu,
Bền gan sắt đá sồng-nâu tu trì.
Tu hành mà mãi nan nghi,
Sợ ta gạt-gẫm cũng kỳ cho dân.
Giã từ khắp hết dương-trần,
Vân du chốn cũ lưới Thần bủa ra.
Non cao nhiều thứ cáo-xà,
Trừ loài độc-địa mới là yên thân.
Biết sao cho toại lòng dân,
Kẻ ưa đạo-đức người cần vinh-hoa.
Xót lòng cậy nước ma-ha,
Hớp vô ba hớp ắt là lặng tâm.
Thân Khùng đêm vắng khóc thầm,
Cựa mình cũng nhớ giấc nằm nào an.
Từ nay cách biệt xa ngàn,
Ai người tâm đạo đừng toan phụ Thầy.
Giữa chừng đờn nỡ đứt dây,
Chưa vui buổi hiệp bỗng Thầy lại xa.
Tỉnh say trong giấc mộng hoa,
Mơ-màng cũng tưởng như ta bên mình.
Tuy là hữu ảnh vô hình,
Chớ dân lòng tưởng sân trình đáo lai.
Nghe sơ lời lão cạn bày,
Tìm trong não óc gặp ngày bình-an.
Kim-lân, xích-phụng lâm nàn,
Cho nên phận lão đâu an thân già.
Tảo-tần lo liệu năm ba,
Biết sao hiệp mặt lòng già mới nguôi.
Mặt ngoài gượng-gạo bải-buôi,
Chớ trong tim phổi rối nùi như tơ.
Tuồng đời như cá trong lờ,
Thọc tay vô bắt còn ngờ kẹt hom.
Bao nhiêu tâm não góp tom,
Dặn-dò kỹ-lưỡng chăm-nom khắp cùng.
Chừng nào tôi được hết Khùng,
Thì là dân-sự còn dùng làm chi.
Bận lòng cạn tỏ vân-vi,
Bớ dân hai chữ công-trì sớm khuya.
Nhớ câu ăn giấy bỏ bìa,
Được thân sung-sướng vội lìa Tổ-Tông.
Kể ra lại bắt mủi lòng,
Ngán đời mua bưởi bán bồng chát-chua.
Cứ theo cái lối a-dua,
Dạ toan đốt miễu phá chùa từ-bi.
Vàng kho thêm gánh ích gì,
Thôi ta than lắm vậy thì thẹn thêm.
Bóng trăng cậy đỡ ban đêm,
Trầu ăn nhả bã lại têm mời hoài.
Khùng ngồi nói chuyện quá dai,
Bị lòng bác ái nói hoài chẳng thôi.
Thấy đời mặt lọ không bôi,
Lại khoe kép giỏi một hồi múa men.
Từ nay cửa Khổng gài then,
Chờ ta trở lại thì đèn hết lu.
Thân Khùng là phận sĩ-phu,
Chẳng ham danh-diệu miễn tu vuông tròn.
Khôn thì lánh chốn đau đòn,
Dại thì lòn cúi đồ ngon ăn thừa.
Hai lòng uốn lưỡi đẩy đưa,
Ỷ hơi Hạng-Võ mắc lừa Trương-Lương.
Nhớ qua hồi lúc đời Đường,
Hiền thần Nhơn-Quí người đương ẩn mình.
Cửu-Thiên còn giấu tại dinh,
Chờ ngày mãn hạn phép linh ban rày.
Giảng kinh đọc tụng chiều mai,
Làm theo lời chỉ ngày rày gặp ta.
Xác trần để lại làng Hòa,
Lời thăm bốn phía Ngọc-tòa ta lui.
Âm dương cách trở xa-xuôi,
Nhắn cùng bá tánh chớ nguôi tấc lòng.
Phận Khùng thân hỡi long đong.
Còn lo cho thế hai lòng toan mưu.
Ta không gây oán kết cừu,
Cớ sao dân-sự phiền ưu nỗi gì?
Khoa tràng lịnh mở hội thi,
Nên Ta xuống bút dạy thì trần-gian.
Chớ mình hồn dựa lâm-san,
Thảnh-thơi còn xuống thế-gian làm gì?
Ước-mơ Thượng-cổ hồi qui,
Thế-trần no ấm phú thi an nhàn.
Quân-thần, phụ-tử vinh-vang,
Hết lo cay đắng, Khùng an phận khùng.
Tới đây từ biệt khắp cùng,
Thầy lìa khỏi xác Thiên-cung phản hồi.
Đục trong cạn tỏ khúc nôi,
Thấy dân tu dối nghĩ thôi bận lòng.
Lang tâm như thú thiếu lông,
Trớ-trêu cửa miệng trong lòng gươm đao.
Ra đời chẳng nệ công lao,
Chẳng hờn không giận, hùng-hào còn ganh.
Hiệp chung một cội nhánh-nhành,
Sum-sê lá thắm chim xanh nối đường.
Từ-bi tình ấy đoạn trường,
Kể qua tích cũ mà lường lòng đây.
Như ai có đọc đoạn nầy,
Xin đừng chê nhạo rằng Thầy nói nhăng.
Muốn sao có phép phi đằng,
Cũng như Đại-Thánh, Đường-Tăng thoát nàn.
Rưng-rưng nước mắt hai hàng,
Lánh nơi cõi tục Phật-đàng lui chơn.
Hòa-Hảo, ngày 1-4 Canh-Thìn
(Đức Thầy viết bài nầy vì Ngài tiên-tri rằng Ngài sẽ xa cách bổn-đạo. Quả thật ngày 12-4 Canh-Thìn nhà chức-trách ở Châu-Đốc dời Ngài đi Sa-Đéc).