GIẢNG XƯA TÒNG SƠN

giảng xưa tòng sơn, giảng phật thầy tây an

GIẢNG XƯA Ở TÒNG SƠN - ĐỨC PHẬT THẦY TÂY AN



1. Khi Cha chết, mẹ chết, Thầy đi tu ở núi Tà Lơn cho đến khi được ấn chứng


Tòng Sơn (1) căn gốc ông bà
Mua đất tọa lạc tại làng Cần Chông
Vợ chồng xưa cũng đồng lòng
Thầy Cai tên Sử họ mà chánh Lê
Sanh con đặt thửa tên này
Họ Lê Hướng Thiện (2) tháng ngày nưng niu.
Cho ăn tôm thịt đau nhiều
Ăn ròng những muối cơm không chịu đời,
Thầy Cai mua đất khắp nơi
Mang bịnh hút ghiền bán hết còn chi
Còn một miếng đất biếu đi
Tới kỳ góp lúa cu ly nó chèo,
Mẹ con bước xuống tiểu thoàn (3)
Góp lúa ăn hết bảy ngàn năm trăm
Tá điền xin lúa có năm
Buổi ghiền lúc giận thú cầm báo tao
Mẹ con tang liệu làm sao
Dám cho bớt lúa của tao như vầy
Hay là đem dạ tà tây
Đem lòng hoa nguyệt đem lòng hại tao
Mẹ con mày kíp ra mau!
Đánh mẹ bốn chục con mà xin dưng
Nhìn mẹ nước mắt rưng rưng
Khổ này con chịu mẹ an thửa lòng!
Cầm roi ông đánh Thầy xong
Ba ngày nhóm bịnh ông mà bỏ thây.
Ông chủ là chú của Thầy
Chủ hườn bước lại mới rày quở la:
Anh tao chết cũng vì mày
Xiêu mưu lập kế giết rày anh tao
Anh Cai có chết đi rồi
Rước làng biên tịch hết thôi gia tài.
Hương chủ là chú của Thầy
Giả vô thăm bệnh thoa vào miệng Cai
Thuốc độc dòm thấy ghê thay
Làng xét thấy vậy bắt ngay mẹ Thầy
Tịch bôi gia sản đông tây
Ông chủ xét lại xin làng khảo tra
Tội này tịch của tịch gia (4)
Đuổi ra chẳng đặng lấy mà món chi
Bảy ngày cúng tế vậy thì
Heo chưng bò cúng đi rày bạc trăm
Các quan làng xóm rần rần
Kẻ quỳ người tế đông chân chật nhà,
Thầy chùa trống đánh bên la
Lại thêm cổ nhạc trống mà rất đông
Mẹ con thảm thiết âu sầu
Thiên đình thấy lỗi dắt âu đem về
Ông Cai dám đánh con Trời
Mượn bụng sanh đẻ nối đời nhà Nam
Ông chủ tom góp của luôn
Cho nên Ngọc Đế bắt hồn ông Cai
Phải chết còn của bạc muôn
Muốn đoạt của thế thánh thần cũng hay
Tóm đồ mới đuổi mẹ Thầy
Có bảy đồng bạc trong mình đi ra
Đuổi ra chịu tiếng xấu xa
Kêu trời bốn tiếng bước ra ngoài đường.
Còn Thầy bước lại thắp hương
Cha ơi ở lại con ra ngoài đường
Chú tôi tom góp hết rồi
Mẹ con than thở vô hồi nhớ thương.
Bao đành phi việc vô lương
Đoạt nhà vườn đất Phật Trời chứng tri.

Than rằng mẹ chớ sầu bi
Tạm qua lối xóm mua xuồng kiếm ăn
Mẹ rằng xưa cũng có ăn
Ngày nay phải chịu khó khăn mãn đời,
Bước ra thảm thiết vậy thời
Mua xuồng thì có dầm thì vốn không
Miếng tre khẽ lấy bơi ròng
Gian nan chi xiết châu hồng trời ơi!
Xóm giềng xem thấy rụng rời
Ông chủ đành dạ ăn chi của người
Bà rằng khổ sở mình tôi
Mẹ con tha thiết kiếm trầu đặng mua
Bà rằng ít vốn ba trăm
Thầy rằng ít quá cũng tầm ba thiên
Ra đi nước mắt liên miên
Bạc trăm để đó ra thì mình không
Của muôn bạc giạ khó mong
Ra đi mình một nuôi thân bán trầu.
Lần lần chống cặp theo bờ
Lớn đi ròng đậu (5) dật dờ mé sông.
Đêm ngày nhịn đói sạch không
Có ba nồi gạo để hòng nuôi thân
Nấu cơm một nắm đỡ lòng
Ăn mà dằn bụng nào hòng dám no,
Mười lăm ngày mới tới nơi
Vô vàm thấy Mạc Cần Dưng (6) rõ ràng
Khổ thay trong dạ vô hồi
Mẹ ôi thức giấc tỉnh ngồi dậy chơi
Nấu cơm trời sáng hừng rồi
Ăn sơ ba hột con lần bơi đi
Vĩnh Hanh (7) Thầy mới thông tri
Cắm xuồng Thầy nghỉ lên bờ Thầy coi
Chỗ này thiệt chỗ hẳn hòi
Lập đình hát bộ đặng coi Minh Hoàng
Thảm thay trần thế chàng ràng
Bẻ cây cặm xuống làm đình Vĩnh Hanh
Chỗ này sau có đua tranh (8)
Lỡ đường bá tánh dừng chân tạm nhờ
Làm nên bá tánh đặng nhờ
Làm quấy ngồi chày làm hoài chẳng nên
Ối thôi bước thẳng xuống thuyền
Mẹ toan nằm nghỉ con liền bơi đi.
Ra đi chi xiết rụng rời
Tay liền mở nút áo thời cởi ra
Đắp cho thân mẹ ấm da
Con toan phải chịu tuyết sa lạnh lùng,
Tay bơi muỗi cắn tứ tung
Hai bên đế sậy (9) bịt bùng thậm đa
Rong cùng bùn trịn (10) thay là
Thầy mà ra sức xuống mà đẩy đi
Bùn lên ngập xuống nửa dầm
Mòng đeo muỗi cắn đập mà tứ tung
Ve kêu dế gáy não nùng
Lớp đắp cho mẹ lớp nào gửi thân,
Rưng rưng nước mắt hai hàng
Bao giờ muỗi cắn Thầy bèn leo lên
Chờ cho nước lớn phục hồi
Thầy toan vội chống lần hồi khỏe thân.

Đi ngang nghe tiếng rên rần
Trời đương hừng sáng lên bờ hỏi thăm
Thấy cô chuyển bụng rên thầm
Hỏi sao rên quá xin phân tôi tường!
Cậu ơi đau bụng không giường
Chồng tôi đi khỏi đâm rùa sau lung (11)
Cho nên giường dạt không làm
Thân đau nhặt thúc (12) trong lòng mệt đa
Khuyên cùng với cậu thay là
Kêu chồng (13) làm phước ngàn ngày đội ơn!
Thầy than không biết gần xa
Để tôi tiếp giúp chặt mà lao vôi (14)
Làm giường tiếp thím cho rồi
Thím lên sanh đẻ có tôi phụ dùm,
Thầy than lạy với quỷ thần
Chứng minh cho thế đặng hầu sanh thai
Vái rồi bé trổ sanh ngay
Không ai tiếp giúp đỡ tay đun lò
Ra tay điên điển (15) nhúm lò
Cà dăm phơi sẵn đút lò lửa than
Thương thay nghèo khổ cơ hàn
Không ai nhau rún Thầy càng gớm ghê
Thầy ra múc nước trịn bùn
Phun cho ngồi dậy cắt mà rún nhau
Thầy ra hốt những cỏ rừng
Ôm vô Thầy bó thít mà bỏ đi
Hoảng ra Thầy lại kêu gì
Đi chôn dùm thế để mà hôi tanh,
Đúng ngọ Thầy mới hồi thành
Ngó mong dòm thấy lội về chơi vơi
Cậu Thành về tới đến nơi
Cúi đầu bái biệt đáp ơn cùng Thầy:
Nay tôi khổ sở cơ bần
Lấy chi đền đáp cho mà ân nhân
Xâu rùa đáp lễ đền ân
Cúi đầu chín lạy tỏ phân là cùng.
Thầy khuyên lại với anh rằng:
Ra tay làm phước màng gì ơn lo.
Xuống xuồng bà mẹ rày to:
Việc mình buôn bán không lo tối ngày!
Mẹ ơi làm phước đêm ngày
Lỡ người sanh đẻ bỏ rày sao nên!
Ra đi dốc dạ cho bền
Hỏi mày chắc thiệt còn nhà nhiều không?
Mẹ ơi vô đó thật đông
Đi một ngày ròng trầu héo sạch trơn
Tới nơi gặp chốn rừng tòng (16)
Cậu Ân vợ chết khóc ròng như mưa
Thầy thưa cùng mẹ cho đi
Lên thăm hỏi thử việc chi om sòm
Con lên tới đó biết rằng
Hỏi thăm buôn bán coi mà đặng không?
Bước lên than khóc lụy ròng
Vợ tôi đã chết ai hồng đi chôn
Thầy xem tội nghiệp chôn dùm
Bước vô làm sảy bó ma một mình
Cậu Ân lệ nhỏ dầm mình
Nhào lăn lộn lại khóc ròng em ơi
Thầy toan cất gánh dời thây
Kề vai thầy cõng đem mà tới nơi
Đào mương đào lỗ xong rồi
Bỏ thây người xuống dập rồi Thầy đi
Trở về gia nội vậy thì
Cậu Ân cúi lạy xin Thầy thương tôi
Thân Thầy tấc dạ ngùi ngùi
Việc người lại nhớ việc tôi sụt sùi
Ra đi bước xuống thoàn lui
Kiếm chuyện gạt gẫm mẹ mình an vui.
Hỏi thăm ta nói được rồi
Lần vô bán trúng mẹ đừng có lo.
Mày thôi báo hại tao to
Không lo mua bán cứ lo việc gì
Trầu khô héo cuống hết rồi
Mẹ đừng than thở héo thời bán lên
Tao mên thứ héo ăn bền
Con đi thường biết thế mà ăn hung.
Bơi hoài tăm tối khôn cùng
Tới bến Xà Tón (17) cặm dầm Thầy lên
Mẹ ơi chắc khổ không bền
Mẹ lên theo trẻ bước đường tử sanh
Cặm dầm đến chỗ quán tranh
Chỗ này sau có thị thành rất đông,
Bước lên mẹ thấy mủi lòng
Mùng chiếu không có nằm ròng mẹ than,
Con hòng tím ruột bầm gan
Con nhìn thấy núi con mang lòng sầu!
Đêm khuya thảm thiết buồn rầu
Tao hầu thấy núi tao hầu muốn lên,
Mẹ ơi tôi chắc chốn đây
Sau nên thành thị chốn này rất đông
Chừng nào lộ thẳng đường đồng
Liêu linh bá tánh long đong sơn hà
Bá gia ăn đá dưỡng già
Lập nên đại hội ông bà tiêu diêu.

Xảy đâu chen lặng trời chiều
Sương phong cảm mạo mẹ liền phát run
Kề vai cõng mẹ khôn cùng
Chung lần đảnh núi tầm đường thúc thân
Áo quần cởi hết truồng trần
Lớp đắp cho mẹ lớp nào che thân
Thảm thương ve muỗi rần rần
Mẹ than lạnh quá chết mà bớ con!
Mẹ ơi gượng gạo lên non
Mẹ chết con còn sống lại làm chi!
Hai bên ve muỗi li bì
Mòng kêu sáo thổi ve kêu não nồng
Thầy than một tiếng tấm lòng
Không ai tiếp giúp đưa lần tới nơi!
Than rồi đom đóm nhiều nơi
Chá ngời bốn phía làm đèn đi khơi,
Nửa đàng mẹ lại kêu trời
Con ơi ở lại mẹ thời xa con
Chắc là mẹ chết không còn
Vậy con ở lại giữ tròn trung quân
Con ơi thảm thiết vô cùng
Tay chân vọp bẻ nhức mình tắt hơi
Hai bên cọp gấu dưng lời
Tiếp thời dắt mẹ hụt hơi chết rồi
Con ơi con ráng tìm trời
Mẹ chẳng sống nổi tách dời âm cung!
Thầy than thảm thiết vô chừng
Làm sao chôn mẹ lấy gì móc hang
Hùm kêu vượn hú nghe ran
Cọp đang móc lỗ chôn rày mẹ ta
Khỉ vào rừng nội bôn ba
Bẻ bông hái trái cúng bà quảy đơm,
Nghiêng mình lăn lóc Thầy nằm
Kêu trời than khóc mẹ đành bỏ con
Từ đây thế sự hao mòn
Mẹ toan chết trước con còn mà chi!
Hùm Beo trỗi giọng kêu thì
Từ đây phải chịu li bì khóc than
Ra đi tím ruột bầm gan
Mẹ nam con bắc chẳng an lòng sầu
Ta đi mưa nắng dãi dầu
Trời ơi đất hỡi thảm sầu tứ phương
Cúi đầu lạy mẹ miên trường
Mẹ an xuống lỗ chịu đường gian nan.
Tà Lơn (18) tầm Phật rõ ràng
Hai bên đế sậy con càng phải đi
Ve kêu dế gáy dậy thì
Vắt đeo cơ cực con nào dám rơ
Bao nhiêu rối rắm đường tơ
Hùm kêu khỉ rống dật dờ khá thương
Thấy ve với muỗi đoạn trường
Cắn đeo cho chắc kẻo mà xảy tay
Phận tôi thắm thiết đêm ngày
Tà Lơn đến ngụ theo thời Phật Tiên.

Phật Bà ngó thấy người hiền
Thử tài cho biết Thánh Tiên về trần
Ráng coi theo bảo ân cần
Thường thường xin đọc coi đời biết nhau
Bao giờ đến lúc minh trào
Xin cho hiểu lý thấp cao làm gì
Này con ráng nhớ lời ghi
Phật Bà truyền dạy phải y theo lời
Thế gian chớ có ngạo cười
Phật Bà thấy vậy theo đưa ghẹo người.
Thầy đi sáu tháng tới nơi
Lần hồi mới tới xứ rày Tà Lơn
Ra đi ve muỗi phiền hờn
Cắn Thầy máu nhuộm chớ hờn muỗi ve
Thảm thay rừng đế vắng hoe
Mẹ nam con bắc vô hồi nhớ thương
Ra đi lụy nhỏ đoạn trường
Ôm lòng nhớ mẹ trăm đường biệt ly
Mẹ ơi con sống làm chi
Lần hồi tầm kiếm thấy thì Phật Tiên
Ôm lòng mà chẳng dám phiền
Tuôn rừng lướt bụi phải yên lòng này
Quyết lòng tìm được chúa thầy
Hùm kêu beo rống đồng này khá thương
Ra đi lụy nhỏ đoạn trường
Lánh thân tìm chúa đoạn trường xiết bao
Thảm thay trong ruột quặn đau
Ve kêu khỉ hú rừng tòng khá thương.
Từ đây xa cách hai đường
Mẹ an phận mẹ con thương thảm sầu
Mòng đeo vắt cắn khó âu
Bây ơi đeo chắc kẻo mà xảy chân,
Đi đêm rồi lại đi ngày
Cơm thì chẳng có nước rày chẳng không
Thảm thay chi xiết đèo bòng
Đi thời sáu tháng mới hòng tới nơi,
Tà Lơn tạm ở vậy thời
Chín năm lao khổ đất trời có hay
Trần truồng nằm dưới cội cây
Không quần không áo đêm ngày chan chan
Màn trời chiếu đất che thân
Chiếu là mặt đất đỡ thân lạnh lùng
Thảm thương beo tượng chung cùng
Vượn mà dâng trái beo mà dâng sương
Đem theo Thầy uống đoạn trường
Năm canh Thầy ngủ hào quang rọi đầy,
Thầy nằm chiếu sáng phương tây
Phật Tổ mới hỏi cái gì sáng đây
Phải đòi thập bát la hầu
Mở cửa dòm xuống dương gian vị nào
Cớ sao thấu đến bàn đào
Đòi mà tiên nữ xuống mà xem qua,
Phật Bà ngự trước tâu qua
Để tôi giáng thế coi mà thế ni
Bà vâng Bệ ngọc liền đi
Giả ra cô gái ngộ mà thất kinh
Tới mà trêu ghẹo dạng hình
Thử Lê Hướng Thiện coi mà trung không:
Thiếp thưa lại với cùng ông
Thiếp tu một cảnh chùa chiền phòng không
Đêm ngày thiếp luống đợi trông
Thấy ông thiếp muốn dắt ông về chùa
Năm canh lạnh lẽo bốn mùa
Gặp ông thiếp muốn dắt về tu chung.
Cô ơi tôi chẳng muốn hùn
Khổ tôi tôi chịu chung hùn khổ đa
Dầu mà tu niệm thật thà
Cô đừng khuyến dụ thói tà chẳng nên
Cô về niệm Phật cho bền
Công phu bái sám giữ gìn thiện tâm
Việc tu đừng có sai lầm!
Gặp ông thương quá trời đày cũng cam
Thấy ông quần áo lang thang
Thiếp nay sắm sửa ông về chung vui
Sao ông trong dạ ngùi ngùi
Ông về với thiếp tu hành chung đôi.
Thầy than chết sống mình tôi
Xin cô tránh khỏi mà đừng vãng lai
Nhứt tâm niệm Phật lâu dài
Cô đừng bạo dạn ghẹo hoài tôi chi
Có thương trở lại thiên đường
Cứ theo chọc ghẹo tội trời lắm đa
Dốc lòng niệm chữ ma ha
Xin cô tránh khỏi xấu xa phận này
Thân tôi là tớ của Thầy
Bồng lai nhuộm mật thơm rày khắp nơi
Thân tôi bùn lắm mọi nơi
Sen tàn cúc rụi dám chường cô đâu,
Xin cô trở lại cho mau
Cúi đầu lạy tạ cô đừng khuyên lơn
Việc tu chớ giận đừng hờn
Cô về thượng giới mà chầu Phật Tiên
Muôn tâu đức Phật thánh hiền
Họ Lê Hướng Thiện khuyên hoài không nao
Lịnh trên coi tính thể nào
Nam Tào Bắc Đẩu nghi rày làm sao
Cho về làm Phật minh trào
Dương gian làm phước cứu hàng chúng sanh.
Cho nên Phật Tổ truyền rành
Biểu bà mau xuống truyền mà họ Lê
Năm canh an giấc Thầy nằm
Niệm ba tiếng Phật nằm mà nghỉ an
Phật Bà cầm quạt bước sang
Đằng vân giá võ xuống mà Tà Lơn
Gặp Lê Hướng Thiện đang nằm
Ngủ mê chẳng thức Bà liền gần bên
Quạt luôn ba cái bên trên
Giựt mình thức dậy Bà liền hoœi ngay:
Hỏi rằng Hướng Thiện tên này
Muốn về Thượng Đế hay gần dương gian?
Mối đạo con bỏ chẳng an
Ngày sau tiêu diệt dương gian còn gì!
Bà thương truyền phép vậy thì
Truyền chơi sáu khắc Thầy đà hiểu thông,
Bà truyền hai phép phù thần
Hỏi mày về thế cứu trần làm sao?
Thầy quỳ phân tỏ âm hao:
Con về cứu thế bất cần món chi.
Nếu mà hạ thế cứu trần
Dịch ôn trừ khử thánh thần cũng tiêu
Bà cho con xuống hạ trần
Núi Sam con ở độ lần nhơn sanh
Chắc con còn chịu nợ trần
Tam tai vương lấy nhiều lần gian nan
Con về lại cảnh Tây An
Khuyên nhủ bá tánh nhơn gian cho hòa
Bàn tay lật ngửa vậy mà
Con mau bước tới cho Bà thổi đi
Thế nào con chịu lâm nguy
Cúi đầu Thầy lạy con đi về trần
Vậy con ráng độ dương trần
Con về cõi thế Bà hồi phương Tây.
Ba tiêu Bà quạt Thầy bay
Núi Sam thầy ở tháng ngày náu nương.

Chú Thích
1. Tòng Sơn: nơi Phật Thầy Tây An đến chữa bịnh và truyền Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương từ năm 1849 Kỷ Dậu.

Từ thế kỷ 19, làng Tòng Sơn thuộc tỉnh Sa Đéc. Sang đầu thế kỷ 20 làng Tòng Sơn thuộc tỉnh Vĩnh Long, sau đó làng được sát nhập vào làng Mỹ An, quận Châu Thành, tỉnh Sa Đéc. Ngày 23-11-1923, làng Mỹ An hợp với làng An Hưng thành làng Mỹ An Hưng; nay thuộc xã Mỹ An Hưng A, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp.

2. Lê Hướng Thiện: tên và gia đạo Phật Thầy Tây An trong câu chuyện này không phải tên thật, vì Phật Thầy Tây An muốn ẩn dấu thân phận của mình. Tại sao Thầy lấy họ Lê? Có bằng chứng tâm linh cho rằng Phật Thầy Tây An là hậu duệ Vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) và Ngọc Hân Công Chúa (Lê Ngọc Hân), dưới thời nhà Nguyễn, Phật Thầy Tây An đã phải thay đổi thân phận để tránh bị nhà Nguyễn trả thù tru di cửu tộc, nhưng vẫn giữ nguồn gốc họ Lê.

3. Tiểu thoàn: thuyền nhỏ (trại âm)

4. Tịch của tịch gia: tịch thu của cải, nhà cửa.

5. Lớn đi ròng đậu: con nước lớn chống xuồng đi, và nước ròng, nước cạn thì cột xuồng đậu lại.

6. Mặc Cần Dưng: con rạch nay thuộc xã Bình Hoà, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.

7. Vĩnh Hanh: nay thuộc xã Vĩnh Hanh, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.

8. Đua tranh: giặc giã, phân tranh.

9. Đế sậy: lau sậy và cây đế còn gọi cây lách là một dạng lau sậy mọc thành bụi hoang, thân nhỏ lá cứng, có nhiều ở đồng bằng sông Cửu Long. Trong văn học người ta thường nói lau sậy hoặc lau lách.

10. Trịn: dẻo và dính.

11. Lung: vùng đất trũng ngập nước, trái nghĩa với gò là vùng đất cao.

12. Nhặt thúc: lúc chậm lúc nhanh, lúc đau ít lúc đau nhiều.

13. Kêu chồng: đi gọi người chồng về dùm.

14. Lao vôi: loại cây thân gỗ thẳng, giống cây ổi, và thao lao.

15. Điên điển: hay còn gọi cây điền thanh, cây nhỏ thuộc họ đậu, mọc ven bờ mương rạch, bông màu vàng dùng làm rau.

16. Rừng tòng: tòng lâm, hay tùng lâm, là rừng thông, còn nghĩa là rừng núi, nơi tu hành và chùa chiền.

17. Xà Tón: nguyên âm tiếng Khmer là Xvayton, dịch tiếng Việt là Tri Tôn, nay thuộc huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang.

18. Tà Lơn: thuộc núi Cấm, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang.


2. Phật Thầy Tây An đi hành đạo và chữa bịnh nhiều nơi


Thảm thay chi xiết đoạn trường
Tư bề những đế (1) cỏ hồng minh mông
Ra thân đập cỏ nhổ bông
Gặp con én rủ Thầy hồng thương thay
Bứt cây đế sậy nhai rày
Phun con én rủ hoàn hình đơm lông
Xảy đâu hai cậu đi đồng
Hai cậu ngồi đó dòm chừng mà coi
Đâm rùa hai cậu gánh liền
Cậu Sanh cậu Lý ở mà coi chơi
Hai cậu dòm thấy rụng rời
Ông này quá giỏi hoàn hồn thật hay
Hai cậu về tới đồn rày
Núi Sam có Phật độ rày con chim
Tiếng nghe bá tánh đi tìm
Rần rần rộ rộ tới Thầy biết bao
Kẻ thời dâng lý dâng đào
Người thời trà rượu ra vào thiếu chi
Tro nhang thầy phát ra thì
Người nào cũng lãnh vậy thì rất đông
Rần rần bá tánh long đong
Thầy ngồi châu lụy nghĩ không ra gì
Thằng Ân nó ở ra gì
Sanh thế cờ bạc ắt mày hại tao
Bán đồ chảo sắt cùng thau
Trước mầy côi cút nhờ tao độ mầy
Chảo thau tao nấu đồ chay
Mầy còn đem bán chắc mầy hại tao.

Xảy đâu lại có một nàng
Tại vàm Xà Nóc (2) tên là cô Minh
Cha cô là phó hương đình
Người này vốn thiệt vậy mà tên Thân
Cô Minh có chưœa trong trần
Xét đi xét lại ít mà giống ai
Ba năm chịu khổ ai hoài
Chồng cô giáo tập dạy rày Sóc Trăng
Giáo tập khổ sở mấy trăng
Cầu Trời khẩn Phật cho nàng sanh thai
Cha chồng mới chở đi hoài
Đem lên bụng lớn Thầy mà hỡi ôi:
Lạy Thầy cứu độ dùm tôi
Cứu con tôi mạnh dễ quên ơn Thầy
Ông ôi có muốn tôi dùm
Rước chồng cô đó tới thời với tôi!
Ông rằng cớ sự tại tôi
Thầy biểu bổn đạo mau thì ra đi
Tới cơn Thầy chịu lâm nguy
Nhắc hòm chờ sẵn chôn Thầy để chi!
Ông Thân biểu để ráng thì
Nếu Thầy có để biệt ly chẳng còn
Bụng Minh ba tướng đã tròn
Minh đẻ Thầy chết thiệt là có oan.
Thầy ra nguyện vái Thiên Hoàng
Dầu tôi chết sống cho đành chúng sanh
Dán bùa xây lộn chuyển quanh
Trên trời sấm sét cô thời bể hông,
Mặt xanh ông Lý Thiết Hoài (2)
Ông về thượng đế dạy mà phép tiên
Mặt đỏ là Lữ Đồng Tân (3)
Đem về thượng đế ẩn thân chuyên nghề
Mặt trắng Thầy lại đem về
Truyền ra bổn đạo chôn Thầy cho mau
Trong chùa bổn đạo ồn ào
Thằng ở chạy riết ra ngoài báo quan,
Chôn Thầy giữ kín đã an
Chú Cai thầy Đội (4) tới mà một bên
Ông cò (5) biểu xếp đào lên
Hối thúc bổn đạo đào lên coi nào
Cạy hòm khám thử xem sao
Thấy xương với thịt đều sình hết trơn
Hối từ đắp lại làm ơn
Kẻo đó truyền nhiễm chẳng nên đâu là,
Thằng ở chịu khổ vậy mà
Bỏ tù sáu tháng kẻo mà đâu oan
Bảy ngày bổn đạo đào lên
Sọ dừa vốn có xác Thầy vốn không
Thầy mà đổi xác thinh không
Thầy liền đổi xác theo mà Cao Miên (6).

Mình Thầy ở đó chí bền
Tám năm lăn lóc lập chùa cứu dân
Chúng dân nghe tới rần rần
Bứt cỏ hốt thuốc cho trần uống chơi
Bịnh chi cũng đến tới nơi
Đau cùi lao tổn phong chi cũng tàn
Thầy xưa bổn đạo dư ngàn
Đến nay Thầy chết hai phen hết rồi
Tiếng đồn trần thế nổi trôi
Cũng vì bổn đạo than ôi rã rời
Đánh tay Thầy biết việc đời
Bổn đạo nó hại Thầy mà chẳng không
Nấu chay nồi tránh mất rồi
Chảo thau tô gấm trong chùa sạch trơn
Mắt dòm thằng Lánh quá hờn
Thiệt mày báo hại bán mà còn đâu
Quơ cây Thầy đập lại rày
Bon bon chạy riết tới rày báo quan.
Tà Lơn (7) làm hội rõ ràng
Người đứng làm chủ tên rày Ết-ri
Lịnh ra quân đội điều đi
Cò Tây súng ống kéo đi rần rần
Thầy than bổn đạo ở trần
Thằng Lánh nó báo chôn lần tôi đi
Ngã sau móc lỗ sẵn thì
Khiêng Thầy dập khuất ba ngày đào lên
Đội vô chẳng thấy việc gì
Bổn đạo không có việc gì cũng không
Chú Cai đi xét tây đông
Bắt tội thằng Lánh phạt rày sáu quan
Thằng Lánh nó trốn thở than
Ba ngày Thầy sống lần hồi ra kinh
Láng Linh (8) Thầy hiệu Quản Thành (9)
Cậu Hai con ruột (10) dạy rành nghề văn
Phát bùa (11) giao hết lăng xăng
Bửu Sơn (12) giao lại Quản Thành giữ coi
Nếu con in rải cho nhiều
Cậu Hai đứng rải cho gần chúng sanh
Những người quỷ quyệt khôn lanh
Thì lòng không tốt con đừng dễ dui
Trăm người rảy lại mười người
Coi ai có trí coi mà tốt hơn
Tu hành gìn giữ chớ sờn
Thằng Lánh nghe nói Thầy rày xuống đây
Cho nên nghe tiếng tìm Thầy
Vào chùa nó ở nhiều ngày làm ăn
Chín năm chẳng có tiếng tâm
Xem tôi có quấy thánh thần tru di
Ở đây niệm chữ từ bi
Giữ lòng trung liệt chớ khi thánh thần.

Ngay đó có một ông già (13)
Tên Đình lòng muốn vào chùa quy y
Thầy coi tướng mạng vậy thì
Người tu chắc đặng ở thì với tôi
Canh khuya Thầy bảo tới rồi
Cho mau đi riết tới mà mé kinh
Bỏ vợ ở nhà thằng Sinh
Dưới vàm Sà Tón bắt rùa bỏ thê
Cho nên chuyển bụng khóc um
Mau đi tới đó cứu dùm người ta
Ông Đình xách gối bôn ba
Nghe lời Thầy dạy tôi mà phải vâng.
Tới nơi ngó thấy dửng dưng
Vạt phên chẳng có vách dừng cũng không,
Ông Đình hết dạ hết lòng
Viết bùa uống sổ vách dừng chặt đưng
Đốn lao làm vạt nằm chừng
Hừng đông ngó thấy chàng kề gần bên
Ông Đình kêu hú riết lên:
Vợ ông sanh đẻ đi liên quá chừng!
Lạy ông cứu đặng phen này
Bằng ông tái tạo sánh bằng phụ thân!
Đình xem gánh nặng lại gần
Thấy con sấu đỏ Đình hầu lại xin:
Cho tôi con sấu đỏ mình
Xem qua lạ quá năm giò lạ thay!
Lạy ông cho hết ông rày
Đội ơn tái tạo tôi nào tiếc chi.
Ông Đình ôm sấu ra đi
Bon bon chạy riết về chùa tỏ phân
Thầy dòm ngó thấy sấu thần
Ngày sau nó báo hại thì dương gian (14)
Đình đem dấu sấu vào hang
Cắp bánh cùng chuối đem sang nuôi rày
Ba năm sấu lớn quá tay
Tốc hang đi mất kiếm hoài không ra
Lòng buồn sợ thấu tai Thầy
Mảng lo thảm thiết sấu rày đi đâu
Ông liền cúi lạy khấu đầu
Bạch Thầy con sấu đi đâu mất rồi
Thầy than con hỡi Đình ơi
Cây lao cho đó câu này sợi dây
Ngày sau tuôn lướt sông mây
Con mà ra bắc cứu trần dương gian
Tuất Hợi dịch khí ôn binh
Năm Chèo dậy riết đón vàm Mặc Dưng (15)
Cho con sáu lá phù thần
Ngày sau con cứu trong trần người ta
Có lòng niệm Phật công phu
Xin con ráng giúp kẻ tu người hiền
Cứu dân đừng có ham tiền
Giã con ở lại thầy về Láng Linh.
Cũng vì bổn đạo không tin
Báo cùng quân lính hại chùa tiêu tan
Quản Thành người ở chẳng an
Cậu hai cũng mất Quản Thành cũng tiêu
Bắt trong bổn đạo cũng nhiều
Hai Nhu cũng mất lại tiêu chùa rồi
Cho nên thầy mới lần hồi
Thả ra Vĩnh Tế coi mà thế gian
Tiếng đồn người nói nghe vang
Trong kinh Vĩnh Tế nghinh ngang quá chừng
Bán buôn giành giựt tưng bừng
Đàn bà hung ác rủa mà dịch ôn
Dương gian thế sự tiếng đồn
Bán buôn giành giựt thêm rày chửi la
Thầy nghe kiếm xuồng thả ra
Giả ra buôn bán lê la thể nào
Mua khoai ít yến thả vào
Bơi vô buôn bán ồn ào xuống đông
Cùng nhau buôn bán sạch không
Vác lên nhận xuống trái cân cũng kỳ
Điên này ngồi dựa dưới thuyền
Kẻ bưng người xách hết xuồng biết chi
Chấp tay Thầy niệm từ bi
Hỏi thăm cô Tám biết thì ai mua
Tán thành ông chẳng phân bua
Của tôi tôi trả ai mua biết nào
Rưng rưng nước mắt xốn xang
Dương trần dầu có lẽ nào nói không
Xuôi buồm trở lại cho xong
Thiệt kinh Vĩnh Tế thấy không người nào
Quỷ ma thú vật ồn ào
Kiếp này phải chịu chớ đừng thở than
Thaœm thương khô héo lá gan
Mười ba tháng bảy chẳng an kinh này
Kỷ Dậu bá tánh phơi thây
Ôn binh đông quá hạ rày chúng sanh
Xin đừng xấc xược khôn lanh
Tranh dành đoạt lợi quỷ vương hành hình
Vàm Nao (16) thả xuống linh đinh
Nhắm xem sông vịnh buồn tình lòng đây
Lỡ bờ lỡ bực nhắm ngay
Vàm Nao ông Chưởng thét nay gần dùng
Bâng khuâng bá tánh khôn cùng
Thả luôn đi riết xuống vàm Cần Dưng
Chỗ này dòm thấy vui mừng
Có thành có lũy rưng rưng lụy nào
Trên xe chẳng có đi nào
Dưới sông chẳng thấy ghe nào đi coi
Buồn lòng thủng thẳng đi voi
Bằng Lăng (17) cũng có ở chơi vài ngày
Buồn riêng chi xiết châu mày
Mỹ Hội (18) có ở thân này chơi vơi
Chẳng qua số hệ ở trời
Thả luôn ông Chưởng xuồng bần nước không
Xuồng bần trống lỏng sạch không
Gạo cơm không có Thầy không đói lòng.

Linh đinh Thầy thả dòng sông
Cả Mơn lỡ tối mắc rày trận dông,
Lên đình tạm ở bên hông
Bước vô hỏi thử ông Từ rằng không!
Cho tôi tạm ở bên hông
Ông từ cho ở ngoài vòng mái hiên
Vịt gà đái ỉa huyên thuyên
Nam mô Di Phật chẳng phiền lòng đây
Xuồng bần lơœ lói gốc cây
Để tôi kéo riết vô đây gởi xuồng
Kéo lên đút riết vô buồng
Ông từ giận quở ông già dị đoan:
Xuồng bần lở lói tan hoang
Cho người chẳng lấy kéo lên làm gì?
Thầy rằng: người chẳng nghĩ suy
Người đâu của đó bỏ thì biết sao?
Bây giờ kéo riết cho mau
Kéo vô nhà chánh gởi vô linh thần.
Ông Từ lấy roi bước gần
Đánh cho ít cái ông già ghẹo tao!
Thầy rằng: tôi lỡ kéo vào
Lạy xin ông thứ Từ ơi là Từ.
Từ rằng giận sút mồ hôi
Đánh rồi lại đá kêu làng đóng chân.
Thầy rằng: ông thiệt khó khăn
Điên khùng dại dột ông mà thứ dung
Ai hoài dạ nọ thiết tha
Kéo ra mở đút trên mà gác cao
Ông từ nổi giận biết bao
Tam canh mưa gió trói ông vài hồi
Thầy ngồi xót ruột lắm ôi
Có cơm nguội lạnh cho mà tôi ăn!
Ông Từ giận quá nói rằng:
Tấm heo tôi có cơm ăn hết rồi!
Đêm nay thổn thức châu mày
Từ ơi ông thả tôi mà đi tiêu!
Xuống sông giaœ bộ đi tiêu
Thấy con chó chết vớt mà đem lên
Ông từ lại quở mắng thêm:
Kéo con chó chết đem lên làm gì
Ông này thiệt cũng lạ kỳ
Lại thêm thúi quá ông già bất nhơn!
Thaœm thương thầy chịu đêm trường
Chó không tới số bị mà mắc phong
Giận thay gia chủ buồn lòng
Đổ lông đổ lá quăng mà xuống sông
Thầy ra lượm lá kiếm bông
Thầy nhai phun chó hoàn lông cốt hình.
Ông Từ thấy vậy hoảng kinh
Ông già thiệt giỏi bùa linh phép mầu
Ông rằng: con chó chết lâu
Những người mắc dịch ông mà cứu không?
Tôi mà chẳng biết đó ông
Già mà có rõ có thông một điều
Tháng tám ôn dịch chết nhiều
Thiệt năm Kỷ Dậu dương trần tiêu diêu.
Có con ông Cả đau nhiều
Nào kêu pháp lực nào là phù tiên
Thầy pháp tới cúng huyên thuyên
Lương y cũng đủ bịnh không thuyên gì
Ông từ lời mách một khi:
Bẩm Cả tôi có ông chi lạ lùng
Ở trong đình nghĩ thật linh
Chết sình con chó cứu mà sống nhăn
May mà cứu đặng cô chăng
Xin Caœ cô trước tôi mau rước về.
Vô đình mới nói ông ơi
Cô con ông Cả đau nhiều nặng hung,
Lời Thầy mới nói thung dung:
Ông đừng chưœi nữa tôi đi cứu người
Nói ra tôi bắt nực cười
Tro nhang lấy đó đem về uống phun
Tro nhang thiệt mạnh vô cùng
Uống vô thiệt mạnh rùng rùng xúm theo
Ông Từ lâm bịnh hiểm nghèo
Bà con thaœm thiết đau mà ỉa ngay
Thầy bèn thấy vậy châu mày
Cứu Từ sống đặng con Từ chết luôn (19).

Sáng ra thầy riết Cái Môn
Lập chùa am tự kêu rày Tây An
Ở chơi xem khắp cả làng
Chừng nào bãi chợ không an lưu truyền
Ngựa trâu kêu rống không hiền
Cái Môn xa cách thọ truyền dặn dân
Thầy mà thả tuốt đi lần
Từ đây thầy ở lập chùa Vĩnh An
Bây giờ tới lúc gian nan
Bị đui bị điếc vô làng Vĩnh Hưng
Ghé nhà thằng Hỉ nghỉ chân
Thấy nó nghèo quá Thầy bèn ở chơi
Vót nan đương rổ vậy thời
Thằng Hỉ tốt quá ở nhà đôi năm
Con xem dọn thửa cơm ra
Con gái thằng Hỉ tuổi mà mười lăm
Bưng cơn dọn thửa trên mâm
Trong mình mang bịnh chửa lâu tháng ngày
Nó làm lợp cợp thay là
Thiếu nước xúc miệng nó mà đem lên
Tưởng là con chó ăn cơm
Cán dao Thầy đập trúng liền bụng cô
Dè đâu mũi mác trúng vô
Liếc vô ngó thấy mực ô rỏ ràng
Văng con tét bụng chết khan
Thằng Hành là rể trói Thầy giải quan.
Trên quan kêu án cho Thầy
Giết con giết mẹ án đày năm năm
Thầy mà nhứt dạ ghi tâm
Nhứt tâm thiết quá giữ tâm chớ sờn
Trời ơi đất hỡi là trời
Năm năm lao lý mắc mà ngục môn.
Ở tù bá tánh tiếng đồn
Ông già thiệt quỷ hại mà thế gian
Chú Cai thầy Đội giữ rằng
Roi mây đánh bổ bắt già làm lia
Xế chiều chẳng muốn cho dìa
Mười giờ cho đúng tới giờ ăn cơm
Cầm roi chăn giữ như sơn
Chú Cai đánh thí về mà ngục môn.
Khi vô tù xúm khảo tra:
Cha già khốn kiếp vô đây làm gì?
Xúm nhau đánh mãi riết thì
Già mà hung ác giết mà để chi
Thân này thiên địa nan tri
Thầy mang đoạn thaœm tớ thì biệt ly
Hai bên tù ngục đánh thì
Hào quang chiếu đỏ tù thì ngã lăn,
Rạng ngày mở ngục lăng xăng
Chú Cai đánh dữ đánh rày không phân
Bắt làm cuốc đất đội phân
Lớp nào xách nước đổ phân cây trồng
Thằng kia canh giữ ngục hồng
Thưa cậu Cai Chánh ông nầy báo quan:
Cớ sao đánh khảo chẳng tha
Mình ông đỏ hoét tôi toan rùng mình.
Thầy Đội như thiệt ông linh
Để tao đánh thử coi mà có không
Như mà chẳng có y lời
Thì mày chịu đánh vậy thời tám roi.
Năm giờ lùa khám hẳn hòi
Hoœi Lê Hướng Thiện tên này cuœa ai
Thầy rằng chánh thưœa tôi rày
Cầm roi nó đánh trên đầu mười roi
Nháng ra ánh sáng một vòi
Cúi đầu Thầy chịu mười roi đau lòng
Dòm vô trong khám buồn lòng
Thầy cam bụng chịu chớ hòng thở than.
Chú Cai thấy vậy nghĩ an
Sáng ra hỏi tội buộc ràng hỡi ông
Cớ sao chiếu sáng mình ông
Hai rồng phụ thể phò mà đế vương
Không vua sau cũng Phật Thầy
Cũng vì phước tướng sao mà bị vương.
Tù nhân nằm khắp bốn phương
Còn ông ngồi nghĩ tư lương thaœm sầu
Chú Cai Đội khám lo sầu
Chắc ông tấn phước lầm rồi Thầy ôi!
Thầy than tôi cũng tù nhơn
Xin thầy cùng cậu biểu tôi việc làm
Thân tôi mắt thịt xác phàm
Lâm vô tù tội ra mà khổ đa
Làm người chịu chữ xấu xa
Vô mà vòng tội khó ra đặng nào
Tù nhơn lớn nhỏ lao xao
Kẻ toan móc đất người hòng móc mương
Thân tôi nghĩ lại đoạn trường
Chú Cai thương lấy kính gì thân tôi,
Khi xưa thì chú đánh tôi
Mười roi để đó tôi nào dám quên
Ơn cha nghĩa mẹ lâm đền
Cứ theo lẩn quẩn chẳng nên đâu là
Đời ông chí những đời cha
Già không hung hiếp nhỏ mà quyền cao
Thân tôi hoạn nạn xiết bao
Lâm tù chịu tội đớn đau vô cùng.
Năm giờ đuổi tội rùng rùng
Roi mây bổ thí chẳng dùng tới ai
Trong khám lại có thằng tù
Đau chi không biết nửa ngày ngay đơ
Sáng ra cho đúng bảy giờ
Mới mở cửa khám đuổi mà tù nhơn
Lính điểm coi lại sạch trơn
Thiếu một thằng tù trong dạ hoảng kinh
Vô xem nó chết lạnh mình
Vô khiêng dập khuất chớ đừng để lâu
Chú Cai nhớ thửa rồi kêu
Có ông chiếu sáng tới cầu thử coi
Thầy mau bước lại liền coi
Lấy cát phun giải bịnh lành như xưa
Chú Cai thầy Đội kinh hồn
Đem ông nuôi dưỡng trong nhà tưng tiêu
Trước kia dại dột rất nhiều
Xin ông xuống phước cho trần một phen.
Cậu ơi tôi phận nghèo hèn
Có chi dung thứ vậy mà đội ơn
Trước tù sau lại ráo trơn
Áo vàng cậu lính tôi nay thân tù
Năm năm phải chịu lao tù
Chưœi cha mắng chú là loài thú sanh
Ở tù đừng có hùng anh
Tù nhơn có thuơœ mãn căn hồi thành
Quyền cao tước xấu lưu danh
Lột da tiêu diệt tanh banh chẳng còn
Mão cao gót đỏ giường son
Ngày sau văng mão làm con ở trần.

Chú Thích
1. Đế: cây đế còn gọi cây lách là một dạng lau sậy mọc thành bụi hoang, thân nhỏ lá cứng, có nhiều ở đồng bằng sông Cửu Long. Trong văn học người ta thường nói lau sậy hoặc lau lách.

2. Lý Thiết Hoài: còn gọi là Lý Thiết Quài hay Lý Thiết Quải, vị tiên đứng đầu trong Bát Tiên, học trò của Lão Tổ, tu luyện đạt khả năng xuất hồn, nằm bất động, hồn bay về Trời.

3. Lữ Đồng Tân: hay Lã Động Tân, vị tiên thứ 6 trong Bát Tiên, tu luyện đạt thành tựu, thường hay giả dạng người bình dân đi kinh lý.

4. Chú Cai thầy Đội: chức vụ trong binh lính thời Pháp thuộc, gồm 3 bậc: chức Cai tương đương Hạ Sĩ, chức Đội tương đương Trung Sĩ, chức Quản tương đương Thượng sĩ.

5. Cò: cảnh sát thời Pháp thuộc.

6. Tương truyền rằng Phật Thầy Tây An thường dùng phép ẩn thân, tàng hình hoặc xuất hồn.

7. Tà Lơn: thuộc núi Cấm, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang.

8. Láng Linh: xưa thuộc về làng Thạnh Mỹ Tây, tỉnh Châu Đốc, nay thuộc huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang.

9. Quản Thành: Quản cơ Trần Văn Thành, một trong 12 người thuộc thế hệ đại đệ tử đầu tiên của Phật Thầy.

10. Cậu Hai: người con đầu của Quản cơ Trần Văn Thành, tên là Trần Văn Nhu.

11. Bùa: khi xưa Phật Thầy chữa bệnh cho dân chúng thường làm một tờ giấy vàng gấp nhò lại, bên trong ghi 4 chữ Bửu Sơn Kỳ Hương, đã được Phật Thầy gia hộ linh lực vào đó. Tờ giấy này có tên gọi là lòng phái, và dân chúng thường gọi là đạo bùa.

12. Bửu Sơn: chính là Bửu Sơn Các, hay trại ruộng Láng Linh do Phật Thầy lập nên.

13. Ông Đình Tây, đệ tử của Phật Thầy, được Phật Thầy truyền cho phép chữa bịnh, và sau giao trông coi trại ruộng Thới Sơn.

14. Con cá sấu có 5 chân, được thờ gọi là Ông Năm Chèo, có một sự tích gắn liền với Đức Phật Thầy Tây An về cá sấu này.

15. Vàm Mặc Dưng: nay thuộc xã Bình Hoà, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.

16. Vàm Nao: nhánh sông nối liền sông Tiền và sông Hậu thuộc địa phận tỉnh An Giang, một bên bờ huyện Chợ Mới, bờ bên kia là huyện Phú Tân. Vàm do chữ Pàm hay Péam của tiếng Khmer biến ra, để chỉ nơi sông nhỏ, rạch nhỏ giao nhau với sông, cũng là cửa sông.

17. Bằng Lăng: nay thuộc huyện Thốt Nốt, Tp Cần Thơ.

18. Mỹ Hội: nay thuộc huyện Cao Lãnh, tỉnh Đông Tháp.

19. Ông Từ giúp giới thiệu con gái ông Cả đến chữa bịnh. Khi cứu được con gái ông Cả thì ông Từ bị bịnh, hiện tượng này gọi là ông Từ sang nghiệp hay lãnh nghiệp cho con gái ông Cả. Muốn tránh hiện tượng này, bắt buộc con gái ông Cả phải tự xả nghiệp trước khi chữa bịnh. Theo nguyên lý Nghiệp của ai người đó phải trả Nghiệp.


3. Nhũng lời giáo khuyên và những lời tiên tri


Xảy đâu nghe tiếng đồn rân
Vợ quan lớn Chánh đau mà phút chung
Sanh ra bịnh nặng vô cùng
Đêm ngày băng huyết rước thầy khắp nơi
Xanh da vàng vọt vậy thời
Chích đâm cũng đủ bịnh mà chẳng an,
Ông rằng nghe tiếng đồn vang
Có người tù ngục giỏi mà quá đa
Ông liền mau lấy giấy ra
Viết vô ít chữ lính hầu đem đi
Lấy xe chạy riết một khi
Rước thầy mau tới bất kỳ là ai.
Thầy than tôi mắc án đày
Đi ra sợ cậu đánh rày thân tôi!
Lên xe kẻ kéo người lôi
Tới quan lớn Chánh mỏ liền “mẹc xi”
Ma đam dẻn mết anh ty
Mẹc xi với mỗ măng ri mông sừ.
Thầy mà chẳng biết tiếng người
Mẹc xi dẻn mết vợ người đau lâu:
Ông thầy chớ có buồn rầu
Cứu đặng vợ mỗ mỗ liền cứu ra.
Thầy liền cúi lạy thưa qua:
Thân tôi tù tội thả ra khó mà
Thầy kêu bớ cậu sếp ra
Lá tràm một nắm kiếm mà cho tôi
Một nắm nếp với lá rau
Lớp thoa lớp uống bịnh rày mạnh không,
Giã ơn ông ở tôi về
Lo bề ở khám kẻo hồ nghi tôi,
Chú Cai thầy Đội khám ôi
Trời kia trăng lặn đánh tôi xin đừng!
Chú Cai bước tới thưa ông:
Tôi đâu dám đánh ông mà ngại nghi!
Thầy rằng xin cậu nghĩ suy
Hôm kia cậu đánh mấy cây rõ ràng
Ông cha chí những lan tràn
Mẹ cha không đánh cậu hồng đánh tôi!
Mẹc xi dỷ mết thôi rồi
Cao quan lớn chức sau ngồi móc trôn.

Giỏi hay bá tánh tiếng đồn
Vợ quan lớn Chánh bà đầm đau hung
Miếng ăn miếng uống không dùng
Đòi Thầy tới cứu tiếng đồn rất ngoa.
Nghe ông cứu vợ chánh tòa
Nếu không cứu đặng bà đầm đuổi ra,
Cho lương mỗi tháng trăm ba
Có giấy lục tỉnh đi ra cứu đời
Mề đay (1) bốn cái mang chơi
Ban cho cây súng thaœnh thơi vô cùng,
Bảo xe chạy riết tới nơi
Rước Thầy tới cứu cho mà bịnh thê
Cứu đặng thì thaœ ông về
Bằng không cứu đặng nhận mà xuống sông!
Thầy xem nước mắt chảy ròng
Ma đam tới số tôi không biết rồi (2)
Chẳng thà ông giết thác tôi
Đặng tôi thế mạng cho mà bà đây!
Ông Tây bước lại nắm tay
Bỏ ngay cũi sắt quăng ngay giữa dòng
Tại đây ông đã dậy thời
Bảy ngày nhận nước coi mà sống không?
Cấp hai thằng lính giữ ròng
Chắp tay niệm Phật mắc vòng gian nan:
Thương thay thầy chú cậu nào
Chúc cho mấy cậu sang giàu thăng lon
Sanh con đẻ cháu nối giòng
Làm quan thượng đẳng giết dòng nhà Nam
Sang giàu phú quý chớ ham
Sang giàu muôn kiếp ai làm nấy ăn
Thân tôi chết nước nhăn răng
Xin cậu ở lại làm quan trọn đời!
Dứt lời đạp xuống giữa vời:
Ông già tráo trát đổi dời khó nghe
Giết ông cho tiệt chết đi
Đừng lời nặng nhẹ nhiếc mà quân nhân.
Có dây cột dụi để hờ
Bây giờ xúm lại đặng mà kéo lên
Quăng mơi chiều lại thấy lên
Vẩn vơ ngoài chợ tại cầu ô ma
Lính xem ngó thấy ông già
Sao ông đi đặng vậy mà đi đây (3).
Thầy rằng tôi ở chốn này
Chú Cai xem kỹ giống rày hay không
Ông nào ông liệng xuống sông
Ông nào còn ở cậu không biết rồi
Hay là con mắt thụt rồi
Coi qua không biết cậu hầu lột lon.
Chú Cai giận chạy bon bon
Kéo lên coi có ông mà hay không
Biến mình nhẹ tợ dường lông (3)
Mau vô cũi sắt ở trong chốn này:
Uống nước phát ách cậu ơi
Sớm mai tới tối đói mà hụt hơi.
Chú Cai chạy kiếm tơi bời
Giống in ông đó đi thời mất tiêu
Kéo lên nhận lút cho nhiều
Năm ngày không có thấy ngồi chợ trưa.
Chú Cai thấy sợ vô cùng
Ông ơi xin chớ lên mà báo tôi
Trong cơ caœ thaœy mấy ai
Quan nào cũng sợ Thầy hay vô cùng
Bảy ngày kéo cũi lên bờ
Thầy ngồi ăn nói chẳng khờ hơn ai
Gian nan Thầy chịu quá dai
Nào ai có thấy vãng lai người nào
Linh đinh thầy chịu lao đao
Sống còn thắc mắc chớ sau gan vàng
Thầy ôi phú quý muôn ngàn
Giàu sang tiếp giúp bần hàn bỏ đi
Bao giờ niệm Phật từ bi
Hai con ở lại cha đi về trời
Con đen xin chớ dễ dời
Con mong ở lại cha thời tránh xa
Từ ngày ở cù lao ba
Hai con Thầy mới sanh ra đem về
Bà ơi chín mẹ cùng tôi
Vợ chồng siêu lạc việc chi buồn rầu
Giã từ mấy cậu phiên bang
Ngày sau mới biết ngày cùng ra sao
Kiếp này phải chịu lao đao
Tỏ cùng con cạn sống sao đừng buồn
Đào hang móc lỗ luông tuồng
Làm mòi phản quốc đừng buồn cậu ôi
Lầu đài uổng kiếp làm tôi
Ngày sau mới biết mưa tuôn hãi hùng
Thương thay đình sập trôi đùm
Miễu trung ít kẻ vào đường lân la
Phố phường buôn bán quỷ ma
Giấy tiền vàng bạc xé ra xài cùng
Chúng sanh phải nhớ cờ cùng
Điền vô nhơn chuœ lộ hành triệt giang
Dòm đường chẳng thấy người ta
Đàn bà sung sướng chẳng ra ngoài đồng
Các nơi nào có buộc lòng
Nước mà không xách lửa mà để cao
Nóc mùng để nó quẹt mau
Còn chê giỏi dở ngày sau đá mày
Sướng thôi rụng gối châu mày
Củi không có bửa vô ngồi sướng không
Thầy ngồi bắt mạch ngó mong
Từ đây sắp tới khó mong sống đời
Quần sau áo rách một nơi
Quần không có ống áo thời nửa lưng
Chừng nào lộ thẳng Mặc Dưng
Ngay vàm Xà Tón bâng khuâng thấy đời
Chúng sanh nay đổi mai dời
Tu thời ít có hung thời rất đông
Đóng thuyền chờ trận gió giông
Rước người trung đạo chớ không bỏ đời
Tháng ba tiểu hội vui cười
Tháng năm cóc khóc ếch cười cuốc la
Trên bờ chật nức người ta
Dưới sông thuyền đậu chật mà chơi vơi
Đại bàng bay liệng khắp nơi
Cùng là ác thú mãng xà quỷ vương
Beo hùm tượng gấu đều ra
Ai mà tu niệm khỏi sa miệng hùm
Xương phơi là buổi chợ cùng
Rách rưới che đùm là chánh Phật Tiên
Tốt ham bỏ mặc dương trần
Vải bỏ mắc quá gạo trần sụt lui
Ngoại bang thâu góp quá lung
Rách rưới thiếu đùm đừng có bỏ chê
Ráng mà dành để chớ chê
Đời nay quốc loạn chớ chê của hèn
Thầy thương ở lại dạy trần
Qua năm Bính Tuất thầy lần dạy con
Đạo Phật càng riết càng mòn
Ráng mà tu niệm đặng mà coi Tiên
Nước Nam còn chúa rạng hiền
Sai trăm quan cựu xuống trần giảng dân (4).
Thầy mà khuyên khắp thôn lân
Ráng tu tầm đạo để sau lụy mình
Chúng sinh tom góp gia đình
Đồ rách chớ bỏ để dành ngày sau
Việc đời riết tới mau mau
Việc khổ trước mắt chớ sau đâu là
Nước Nam dường thể ngọc ngà
Ngày sau các nước ai mà cũng theo
Thaœm thương cơ nghiệp cheo leo
Thầy mang đoạn thảm tớ không buồn rầu
Tới nay là việc đáo đầu
Khuyên trong bổn đạo ráng cầu Thánh Tiên (5),
Xa nơi tửu sắc vui mừng
Trà Vinh tạm ở ra mà cuốn kinh
Xưng tên chánh hiệu mới linh
Thánh thần Trà Ếch thượng vinh miễu thờ
Buồn riêng nghĩ lại vẩn vơ
Cần Chông cũng có nào hòng xứ mô
Nam Vang Châu Đốc đều vô
Long Xuyên Vàm Cống cũng vô theo thầy
Rạch Giá là chợ vui vầy
Thốt Nốt ở tạm tháng ngày Cần Thơ
Trà Vinh sớm dật tối dờ
Cần Chông, Sa Đéc, Bến Tre gần hòn
Bạc Liêu sắp đến Sài Gòn
Bến Tre cũng đến hao mòn thế gian.
Vui buồn khổ sở hai phen
Hà Nội cũng có thế gian ai tường
Trà Vinh, Chợ Thủ bất tuân
Ngày sau rốt cuộc Mặc Dưng có Thầy
Vĩnh Tế lướt dặm tuôn mây
Bà con lớn nhỏ theo Tây hại mình.
Đạo riêng nhiều đạo rất linh
Bá nhơn thứ đạo kể mà nghe chơi:
Đạo Nho, Đạo Thích, Đạo Trời
Trung quân kỳ đạo ai mà biết đâu
Đạo Phật, Đạo Tưởng, Tam Kỳ
Đạo chơn Minh Lý, đạo thời Gia Tô
Đạo Tâm, Đạo Nguyện, Đạo Tiền
Đạo không có cúng ông bà thắp hương
Ăn cơm niệm Phật minh vương
Đốt nhang cầu nguyện Phật thương đặng nào
Giảng cơ khó định năm nào
Thiên cơ bất khả lậu trào biết nhau.
Nay tôi ở Chắc Cà Đao (6)
Ông ba bà dạy bước mau thi bài
Nói sơ ít tiếng tỏ bày
Thiện nam tín nữ ôm lòng để coi
Khuyên cùng mấy đạo con nòi
Ai mà có biết xem qua thì tường
Quý Mùi bá tánh gian nan
Dương gian phải chịu vô hồi đắng cay
Tháng ba chết sống sẽ hay
Tháng mười Nhâm Ngọ ít cười khóc than
Thương người tím ruột bầm gan
Thây nằm như củi làn khan chất chồng,
Tháng ba bá tánh khóc ròng
Bị tần nó giết máu hồng tuôn rơi
Tháng năm tháng sáu rụng rời
Tháng bảy tháng tám sửa đời bá gia
Lớp nào dịch khí binh ma
Lớp nào ban trái lớp nào bịnh vương
Mùa màng thất bát thaœm thương
Ngó lên Bảy Núi tư lương trong lòng
Có khi lửa cháy phập phòng
Cháy lên Bảy Núi cháy vòng Đội Om
Tháng mười giặc đánh có chòm
Chúng sanh phải ráng lo phương tu hành
Năm Dê tan rã đã dành
Tang điền thương hải mới đành lòng dân.
Nói xa rồi lại nói gần
Hết lời kêu réo cho trần ráng theo
Làm cho tới chết cũng nghèo
Ráng theo một đạo hiểm nghèo cũng vui
Mấy người chẳng có tin tôi
Sau đây mới biết việc đời ô hô
Bây giờ còn mạnh như bồ
Lớn con mạnh quá ai xô núng nào
Con Trâu nó lớn biết bao
Có khi ngã xuống một giây tiêu tàn
Con Dê khổ thấy rõ ràng
Bần tăng sĩ khó phân tàn thế gian
Không văn học võ cho toàn
Đặng sau cứu thế giúp làng độ dân
Nếu không nghe thửa lời ân
Ngày sau rụng cánh rơi đầu đứt chân
Năm Dê giặc đánh tưng bừng
Cọp rống vượn hú nghe cùng khỉ la
Hồng hoàng Cao cát (7) cũng ra
Mãng xà chim nhạn bay ra khắp trờ
Gớm ghê dòm thấy hỡi ôi
Thây nằm máu chảy tràn đồng ghê thay.
Năm Thân nhiều việc gắt gay
Hội về Bảy Núi cát bay mịt trời
Hết trông hết tưởng sự đời
Vua ra cai trị dân thời tiêu diêu
Chết sao chết rất là nhiều
Hội nhau lục tỉnh cũng tiêu một giờ
Dòm nhau như cá chạy lờ
Dường như chẳng khác con khờ không cha
Từ rằm cho tới tháng ba
Người không có ngớt khóc la trong nhà
Năm Dê cho đến năm Gà
Hết trông thờ phượng ông bà mất công
Tháng mười tôi sợ cuồng phong
Tháng mười Nhâm Ngọ cuồng phong bất kỳ
Nội trong ở nước Nam Kỳ
Trúng đâu phải chịu hao mòn thế gia
Mười phần hết bảy rõ ràng
Chọn đi lựa lại hao mòn rất hung
Thầy tu giữ dạ liệu dùng
Thầy tu nhứt trí buộc ràng tiêu sinh
Trời năm lâu quaœ một mình
Phò mà cho thiệt cho xin hết tình
Bao giờ tìm chúa của mình
Nam mô bạc lại giữ gìn lòng ngay
Chúng sanh phải chịu trời đày
Đôi ba năm nữa châu mày lụy sa
Tháng tư kỳ quyết tháng ba
Ông bà tiêu diệt ra ma hết rồi
Thế gian khổ sở lắm ôi
Con Dê bị lửa khó ngồi trông đa
Năm Thân hết thảy người ta
Ông lên bà xuống nghì ngà còn chi
Bây giờ chẳng biết tiên tri
Ông nào cũng giỏi biết tri việc đời
Nay mới đổi xác xa vời
Biến hồn đổi xác cho mà biết nhau
Chừng nào lở đất cù lao
Chia phân thiên các với nhau mới rầu
Ngày sau có chuyện thảm sầu
Vàm Nao Ông Chưởng liền cầu dễ đi
Bây giờ lời nói hồ nghi
Biết chừng đó có hay không chuyện gì
Minh vương ra trị vậy thì
Tháng tám năm Ngọ lộ kỳ thẳng ranh
Lúc này chưa thấy nghinh ngang
Đến cơn rốt việc vái van khôn rồi
Cội thung gieo ngọn bên gành
Trước không niệm Phật cho đành lòng nhơn
Bây giờ khổ tới bên chơn
Nước toan vội đến nhảy đâu khỏi bờ
Thấy con bé dại còn khờ
Không cha vô chúa dật dờ nắng mưa
Ráng tu đặng có lọc lừa
Ngày sau Phật biết đặng chừa nó ra
Xin đừng tin tưởng đạo tà
Thấy lên ngúc ngắc vậy mà tiếp theo
Ngày sau yêu phật hiểm nghèo
Ông lên bà xuống vậy mà tiêu diêu
Đời này ma quỷ rất nhiều
Hết năm Nhâm Ngũ xuống lên cùng trời.
Thế gian đừng có đổi lời
Nay thương ông đó mai dời ông kia
Ăn chay như cá dồn đìa
Chừng nào nước ngập cá mà lội lên
Ăn chay giữ dạ cho bền
Bỏ quên tội phước không nên đâu là
Bao giờ trong dạ còn tà
Cứ theo lục thục bỏ qua cho rồi
Việc tu đừng có lở bồi
Tu tâm dưỡng tánh cho rồi mới nên
Năm Dê nghĩ lại cho bền
Tứ bề giặc giã không phương trốn rồi
Mặc Dưng lộ thẳng cũng rồi
Phố phường cũng khó an rồi mau ra
Trên bờ giặc đánh hằng hà
Lớp giặc lớp thú nó ra một lần
Trốn đâu cho khỏi giặc Tần
Kẻ quên người nhớ dạy lần cho nhau
Cả kêu kìa bớ mấy em
Ráng mau tầm đạo vậy mà riết theo
Dưới sông chẳng có trống nào
Hai bên ghe khít đậu vào nối đuôi
Vui thôi như hội tầm vương
Mãng xà cất cổ kêu người ngổn ngang
Kẻ kêu người khóc nghe vang
Ngọc ngư muốn nuốt thế gian muôn trùng
Thôi thôi tiếng súng đùng đùng
Gươm vàng khua lấy khác nào bắp rang
Còn Thầy đứng chót Tây An
Cả kêu thần tướng cứu an đem về
Ngày nay cá nọ dồn đìa
Hết cơn lưu lạc theo Thầy bớ con
Ngày nay mới biết mất còn
Chọn đi lựa lại hao mòn còn ba
Hết trông hết đợi hết chờ
Hết Dê tới Khỉ dật dờ bá gia
Hằng hà sa số người ta
Cộng đi lựa lại quỷ ma rất nhiều
Kéo nhau đi cũng chật đường
Bảy mươi hai thứ tranh đương chém đầu
Nay trên núi Cấm có lầu
Có cờ có phướn rọi mà chợ châu
Gom nhau các nước đâu đâu
Cùng nhau các đạo lủi đầu riết theo
Đạo nào có giỏi mau theo
Chợ châu lục quốc ùn ùn đẩy sang
Hồi xưa Thầy nhớ Tây An
Thầy dặn hồi trước khoan khoan hãy chờ
Thấy con yếu đuối dật dờ
Con ráng ở lại sau chờ Thầy ra
Tự lòng bá tánh bôn ba
Đừng theo chen lấn quỷ ma mà lầm
Bây giờ ở lại không tầm
Tự lòng tự ý nghe cùng hay không
Đua nhau như cá ròng ròng
Nôn nao chết sớm dật dờ còn đây
Xúm nhau kết lũ kết bầy
Một đạo xuống thế xúm bầy xưng vương
Rủ nhau đi cũng chật đường
Hết năm con Khỉ thấy đời bước sang
Tháng sáu con Khỉ nước tràn
Khỉ ăn trái gáo thân ngồi khô lông
Năm Dậu bình địa khởi công
Thương cho bá tánh hết lo giàu nghèo
Còn ba tháng tới hiểm nghèo
Rùng rùng ba tiếng nổ mà thành sông
Xà Tón ra tới kinh Ông
Đưa ra tới láng Bảy Thưa Ông Tà
Thấy thôi ngớt mắt thay là
Thấy số người chết thây mà mù u
Thây nằm sắp lớp ruồi bu
Sùng đục ruồi cắn ầm ầm quá ghê
Máu người chảy xuống thấy ghê
Khác nào nước suối chảy thôi ầm ầm
Máu sa xuống biển Bảy Thưa
Khác nào già nhuộm thấy mà hoảng kinh
Bên la trống đánh ình ình
Thương cho cô vãi chịu mà oan ương
Thấy cô khổ sở trăm đường
Cạo đầu tụng thiếu pháp trường phanh thây
Thầy chùa trói quách ngoài cây
Ăn tiền hối lộ cũng xưng ông thầy
Mấy người đừng có châu mày
Qua mặt trần thế qua mà thần tiên
Tay cồn tay mõ nghe ran
Kêu ôn rủa dịch vái van nhiều lần
Bao giờ mình hại cõi trần
Tiện cây làm tướng hại trần vái heo
Đến sau lâm bịnh hiểm nghèo
Ngũ hành chư vị mách mà quân sư
Cho nên Trời Phật biết dư
Oan oan thú vật biết đi phương nào
Nơi nơi tâu cáo trong trào
Làm thầy pháp lục rơi đầu vì đâu
Bây giờ phải bỏ cho mau
Cứ theo niệm Phật trước sau đặng nhờ
Núi Sam bảng đá trương cờ
Làm ra nhà việc xử mà bá gia
Núi Bà nhà ngói Minh trào
Bảy Núi chứa ngọc chứa vàng chứa quan
Bà Đội cơm nấu cho quan
Ông Tô làm khám chứa hàng lục châu
Núi Tượng chứa lửa củi châu
Ông Két chứa thánh chứa âu người lành
Núi Sam Thầy ở phân rành
Quân sư nhà Hớn thuộc rành nhà Nam
Cứ theo pháp luật Thầy làm
Sâu nào rau nấy chớ cho ai rờ
Các con sao lại quá khờ
Nói sơ mách lối với mà lục châu
Bây giờ bây biết khấu đầu
Binh nào tướng nấy vào chầu vinh râu
Thầy ra tiếng đạo chém đầu
Gia tô tội quá chém đầu tru di
Tại mầy trước buổi chẳng y
Hồi quá thập tự cũng nghi vào lòng
Chúa mày tao cũng biết xong
Hồi đời Tự Đức mãn đời Gia Long
Phá thành phá lũy thành sông
Hồi đời Cường Để tới nay khó lòng
Hội nhau như cá ròng ròng
Có ông Ương Chiếu qua mà đầu Tây
Nhập môn đốt hết thuốc này
Đốt hết kho thuốc theo Tây trọn đời
Mày hại mày báo nhãn tiền
Rủ nhau mà chạy vua mà bỏ ngai
Gom nhau chém đạo một lần
Ngày sau sống sót kiếm hồn tru di
Hết năm Dậu mới tường tri
Thầy lên làm soái Tuất đây năm này
Bao giờ tam giáo hiệp vầy
Biết nhau hay dở đông tây hiệp hòa
Năm Tuất nối nghiệp cửa nhà
Bà lang làm chúa lên mà từ công
Dẹp âu thế sự chưa xong
Thằng nào chớn rớn chém trong pháp trường
Nước Nam bênh vực vậy thì
Lần lần dạy dỗ theo y lời truyền.

Năm Tuất còn hỡi chưa yên
Phân ngôi chiếm thứ tới mà nghe chơi
Đào Lư công chúa vậy thì
Hoa Kỳ tiếp sức hại thì nhà Nam
Đố ai cất nổi việc làm
Thoại Ba công chúa văn phàm tiếp theo
Đào Lư phép thuật hiểm nghèo
Phi sa tẩu thạch đốt mà lửa bay
Làm cho cây ngã đá tan
Hô phong hoán võ chật đàng binh âm
Nước phun lửa cháy sáng lòa
Tối trời tối đất ba ngày dường đêm
Thoại Ba tâu trước thiên đình
Cho tôi kim đính ba tiêu tôi cầm
Ba tiêu mượn của Phật Bà
Hồ lô mượn của ông mà Xích My
Nếu không giết nó để chi
Nếu mà để vậy chết đi không còn
Thế Tôn dòm thấy hao mòn
Tâu thêm hết sức với mà chơn nhơn
Lãnh phù lưới sắt hết trơn
Đằng vân giá võ xuống ra phép tài
Sa xuống dòm thấy Hoa Kỳ
Đào Lư lướt dặm tiếp thì nước Ngô
Thoại Ba bước xuống liền hô
Thoại Ba cất tiếng xin cô liền dừng
Đào Lư bói quẻ liền mừng
Địa tiên đâu dám sánh cùng Thiên tiên
Hồ lô phong hóa hô liền
Đào Lư phun lửa dính liền thâu vô
Đào Lư biến phép liền hô
Thoại Ba lại hóa lưới trời quăng ra
Lớp đi lớp ở lớp hà
Đào Lư giận quá hóa ra tối trời
Tư bề kiếm chém khắp nơi
Thiên la địa võng bủa ra khắp trời
Phi đao mắc lưới hết rồi
Hóa ra cồn lớn tư bề không chân
Kim Đính thấy vậy dửng dưng
Kêu Thầy bốn tiếng tiếp con phen này
Rồng vàng thanh bạch rồng mun
Bốn con đỡ lấy dậy thời cù lao
Bây giờ thế sự không sao
Thoại Ba liền hóa ba tiêu huờn hình
Coi đi ngó lại vậy thì
Con Ngưu độc giác giống hình yêu tinh
Đem về Phật Tổ hành hình
Sút chuồng nó chạy dân tình thác oan
Cầu cho ông thánh Tây An
Sau đây cầu Phật thế gian lưu truyền

Chú Thích
1. Mề đay: huy chương

2. Trong chữa bệnh tâm linh, cho dù năng lượng vô hình rất cao nhưng không phải trường hợp nào cũng cứu chữa thành công. Nguyên nhân người bịnh có Nghiệp Quả rất nặng, không thể giải Nghiệp được, và đã đến ngày giờ phải về với ông bà tổ tiên.

3. Phật Thầy Tây An phân thân xuất hiện nhiều nơi.

4. Nước Nam đựơc Phật Thầy dự báo là địa linh, vùng đất của Đạo, rất nhiều vị giáng thế tại nước Nam.

5. Thời kỳ Thánh Đức.

6. Chắc Cà Đao: Chắc Cà Đao trước là Hoà Bình Thạnh, nay thuộc thị trấn An Châu, huyện Châu Thành, tỉnh An Giang.

7. Hồng hoàng, Cao cát: loại chim mỏ lớn, sống vùng núi cao, rừng thẳm. Chim này xuất hiện ở đồng bằng khi ở vùng núi rừng có chiến tranh, bom đạn.


Hết

Post a Comment

Cảm ơn Đạo Hữu đã đóng góp. Chúc Đạo Hữu một ngày an lạc! A Di Đà Phật