Ông Đạo Ngoạn - GIÁC NGỘ TÙY DUYÊN
LGWfrYbsCGvENWA8TkfRMZ7fj7Z9WPOVhLeg8glK
Bookmark

Ông Đạo Ngoạn


Ông Đạo Ngoạn
(1820-1890)



A. Thân-Thế

ông Đạo Ngoạn nguyên danh là Đặng-Văn-Ngoạn, sanh năm Canh-thìn (1802) nhằm Minh-Mạng nguyên niên. Theo quyển « Đạo-Ông giảng-tập » bằng văn nôm, chép theo thể thượng-lục hạ-bát, lời lẽ thận-trọng đáng tin cậy nhưng không rõ tác-giả là ai, thì ông Ngoạn là một trong « thập-nhị hiền-thủ » của Đức Phật-Thầy Tây-An ngày xưa. Chính thế mà thời nhân quen gọi ông là ông Đạo-Ngoạn.
Sinh quán ông tại làng Nhị-Mỹ, tổng Phong-Thạnh, quận cao-Lãnh, tỉnh Định-Tường (nay là tỉnh Kiến-Phong). Trong lòng sông Cần-Lố, thuộc xẻo rạch Trà-Bông (Đồng Tháp-Mười).

Ông có ba đời vợ. Vợ đầu tiên tên Thị-Nhị, vợ giữa là Thị-Thu, vợ sau tên Nguyễn-Thị-Huê (?). Vợ đầu và bà vợ giữa không con. Vợ sau tức là Thị-Huê, ở với ông chỉ sanh được một trai là Đặng-Công-Hứa. Hiện nay Công-Hứa còn sống, tuổi thọ được 76, nối chí cha và đang trụ-trì tại chùa Trà-Bông (1).
Năm ngoài 20 tuổi, ông Ngoạn còn một mẹ già, một người anh và một em gái. Sau khi đã cần-mẫn làm ăn lập được một khoảnh ruộng vườn khả-dĩ nuôi sống đủ gia-đình, ông xin phép mẹ cho thong-thả tìm nơi dưỡng tính tu tâm, vì ông cảm thấy « lòng bồ-đề của mình đã bắt đầu nảy-nở ». Mẹ ông thuận cho. Ông liền vào rạch ông-Bường, lựa một nơi thanh vắng để tịnh-niệm.
Triều Âm Tự (Chùa ông Chín) tọa lạc tại ấp Hòa Dân, xã Nhị Mỹ, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Là ngôi chùa theo đạo Bửu Sơn Kỳ Hương của Phật Thầy Tây An - Đoàn Minh Huyên. Chùa được ông Đặng Văn Ngoạn (tục gọi là ông Đạo Ngoạn) sáng lập lần đầu tiên vào năm Giáp Dần (1854) dưới triều vua Tự Đức năm thứ 7 tại vàm rạch Trà Bông, thôn Nhị Mỹ, huyện Kiến Phong, tỉnh Định Tường (nay là ấp Hòa Dân, xã Nhị Mỹ, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp).
Trong thân-tộc của ông có người ghét bỏ đến cáo với làng rằng ông ngầm mưu làm chuyện bất lương chứ không phải thực tâm tu-tỉnh. Làng bắt ông ra nhà việc Cây-Me (bây giờ là Doi-Me) để tra hỏi. Anh ông là Bổn Chính hay tin phẩn-nộ không cùng, Chính đến nhà làng Phản-đối rồi cũng bị bắt luôn.
Bấy giờ có người bà con với ông có thế-lực, đang làm chức Quản-Khám tại Mỹ-Trà (Cao-Lãnh) đến can-thiệp nên hai anh em ông được tha. Từ đó ông Ngoạn buồn lòng, lập chí về non tu-tỉnh để tránh cuộc đời dua-mị đê hèn của thế-nhân chen-lấn.
Vào khoảng năm 1849, miền Lục Tỉnh bị nạn dịch tả hoành hành làm dân chết vô số kể. Trong lúc dân chúng khắp nơi sống trong lo sợ thì chợt xuất hiện một kỳ nhơn có tài chữa khỏi căn bệnh thiên thời đó là ông Đoàn Minh Huyên (tức Đức Phật-Thầy Tây-An), người gốc ở thôn Tòng Sơn, huyện Vĩnh An, phủ Tân Thành (nay là xã Mỹ An Hưng A, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp). Ngoài việc chữa bệnh, ông Huyên còn rao giảng phép tu tập, làm lành lánh dữ, giữ trọn “Tứ Ân” (ân tổ tiên cha mẹ, ân đất nước, ân tam bảo, ân đồng bào và nhân loại). Người đến qui y rất đông. Những người qui y được phát cho một “lòng phái” bằng giấy vàng hoặc giấy bạch, trên có 4 chữ “Bửu Sơn Kỳ Hương”. Từ đó, ông Đức Phật-Thầy được coi là người sáng lập ra phái Bửu Sơn Kỳ Hương.

B.Đến núi Sam

Vào khoảng năm 1849, miền Lục Tỉnh bị nạn dịch tả hoành hành làm dân chết vô số kể. Trong lúc dân chúng khắp nơi sống trong lo sợ thì chợt xuất hiện một kỳ nhơn có tài chữa khỏi căn bệnh thiên thời đó là ông Đoàn Minh Huyên (tức Đức Phật-Thầy Tây-An), người gốc ở thôn Tòng Sơn, huyện Vĩnh An, phủ Tân Thành (nay là xã Mỹ An Hưng A, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp). Ngoài việc chữa bệnh, ông Huyên còn rao giảng phép tu tập, làm lành lánh dữ, giữ trọn “Tứ Ân” (ân tổ tiên cha mẹ, ân đất nước, ân tam bảo, ân đồng bào và nhân loại). Người đến qui y rất đông. Những người qui y được phát cho một “lòng phái” bằng giấy vàng hoặc giấy bạch, trên có 4 chữ “Bửu Sơn Kỳ Hương”. Từ đó, ông Đức Phật-Thầy được coi là người sáng lập ra phái Bửu Sơn Kỳ Hương.

Tháng chạp năm canh-Tuất (1850) khi biết tin Đức Phật-Thầy Tây-An được phép nhà cầm-quyền tỉnh An-Giang cho vào núi Sam truyền đạo, ông Ngoạn liền từ-giã mẹ, tìm đến tận nơi để xin quy y. Với bẩm chất hiền-lương điềm-đạm, mới đầu ông được Đức Phật-Thầy ủy cho vào núi Voi hiệp cùng ông Bùi-Văn-Thân, tức Tăng-Chủ Bùi Thiền-Sư mở ruộng lập nhà, chùa rồi 14 tháng sau, ông được Đức Phật-Thầy đổi về núi Sam hiệp cùng ông Đạo Thạch để giúp Ngài trong việc phát phù trị bịnh và xem sóc trong chùa Tây-An.
Trong thời gian ở đây, ông được Đức Phật-Thầy tin yêu lắm. Đến những chuyện truyền đạo và thù-tiếp với những bậc nho giả bốn phương, Đức Phật-Thầy nhiều khi giao phó cho ông được trọn quyền định-liệu.

C. Trở về Trà Bông

Suốt bốn năm theo hầu hạ bên Thầy để học điều đạo nghĩa, ông Ngoạn tự thấy tâm hồn nhẹ nhỏm vui-tươi. Bỗng một hôm, Đức Phật-Thầy kêu ông lại gần mà bảo phải trở về Trà-Bông để « bảo dưỡng mẹ già » và phải « tìm nơi kết tóc » để sanh con nối hậu, vì nợ trần của ông còn nặng. Tuân lịnh Thầy, nhưng ông Ngoạn còn bịn-rịn, xin nán lại ít ngày để thu xếp công việc trong chùa rồi sẽ trở về quê-quán.

Chuyện bay ra ngoài, Thị-Nhị là một tín-đồ của Đức Phật-Thầy, bấy lâu lo việc nấu nướng ở liêu sau, nghe tin bèn đến tận mặt ông Ngoạn nguyền xin trọn đời theo ông để « nâng khăn sửa trấp ». Ông Ngoạn bằng lòng. Hai người dẫn nhau đến trước Đức Phật-Thầy trình bày ý-định và xin Ngài cho phép đi về Trà-Bông.

Đức Phật-Thầy nói: « Việc ấy tùy ý các con. Nhưng sau nầy, riêng Đạo-Ngoạn phải chịu nhồi quả: nghèo nàn đến nổi vận khố, đi giữa chợ đông, khốn cùng, đến đỗi trèo non lội suối để trốn tránh, cho đến năm 60 tuổi mới được thảnh-thơi nhàn-hạ ».

Ông Đạo Ngoạn theo học đạo với Phật Thầy được gần 4 năm thì được Thầy dạy phải trở về bổn quán để báo hiếu mẹ già và tìm nơi lập gia thất sanh con nối dõi. Hành trang ông Ngoạn mang theo về Trà Bông là những giáo lý mà Thầy truyền dạy cùng với một lọn tóc mà Đức Phật Thầy trao tặng lúc Ngài bị buộc phải thế phát xuất gia theo phái Lâm Tế để giữ làm kỉ niệm. Lọn tóc ấy được ông xem như báu vật suốt chặn đường hành đạo và được nhà chùa gìn giữ bảo vệ cho đến ngày nay.

Ngày rằm tháng bảy năm Giáp Dần (1854) ông Ngoạn cùng vợ rời núi Sam về Trà Bông gặp lại mẹ. Sau đó ông xin phép mẹ cưới vợ và lập một ngôi chùa tại vàm Trà Bông. Từ ấy chuyên lo chữa bệnh và truyền đạo. Gọi là chùa nhưng thực chất đây là nơi ông Đạo Ngoạn truyền bá đạo Bửu Sơn Kỳ Hương của Đức Phật Thầy Tây An, hướng dẫn dân chúng lập trại ruộng, khai hoang phục hóa vùng ven Đồng Tháp Mười và chữa bệnh cho dân chúng. Ông hướng tín đồ niệm Phật tu nhơn, khai phá được hơn 500 công đất.

D.Mối Oan Khiên

Với phương-tiện tại gia cư-sĩ và học Phật tu nhân, ông Ngoạn nhất-đán đã thu-phục được hàng ngàn tín-đồ. Vì thế Thị-Nhị sanh lòng lợi-dụng, thâu nạp của tiền, vật thực, chứa đựng đầy rương đầy lẫm. Mặc dù ông Ngoạn đã hết lời giảng-dứt cấm ngăn, Thị-Nhị vẫn làm liều không kiêng-nễ chi hết.

Một ngày kia chùa bỗng dưng phát hỏa, cháy sạch của tiền mà Thị-Nhị bấy lâu dành trữ. Kế tiếp, nạn binh lửa do Pháp vào chiếm đóng Nam-Kỳ tràn lan khắp nơi, ông Ngoạn cũng như muôn ngàn người khác, phải đem gia-đình truân-chuyên lánh nạn.

Năm 1867, quân Pháp cưỡng chiếm 3 tỉnh miền Tây và lập trật-tự ở Nam-Kỳ, ông Ngoạn trở về dựng lại chùa xưa, bổn đạo quy-tụ rất đông, sự chữa trị của ông càng linh mầu hơn trước nữa.

Phen nầy Thị-Nhị thâu thập của tiền đem về gởi cho quyến thuộc, lại còn sanh tâm chống-báng với ông Ngoạn mọi điều… Tín đồ của ông Ngoạn thấy vậy không dằn được lòng căm tức, yêu cầu ông cản ngăn. Thị-Nhị thấy thế lại càng kiếm chuyện hành-hung, buộc ông Ngoạn phải giao hết chùa-chiền, giao hết quần áo đang mặc trong mình chớ không được chừa lại một món chi cả. Nhị viện lý là nhờ công của mình chắc-mót.

Ông Ngoạn chỉ còn tay không với một cái quần đùi, để mặc ý cho Thị-Nhị dở chùa chở đi nơi khác, ông chẳng hề hở môi phàn-nàn than-trách.

Tín-đồ của ông rất đổi thương tâm, xúm nhau kẻ giúp lá người cho cây và ra công cất lại cho ông ngôi chùa khác.

Nhưng oan-quả vẫn chưa thôi, Thị-Nhị - sai khi dở chùa về cất tại giòng Thá-La gần đó - lại đến bắt ông về ở. Túng quá, ông Ngoạn chẳng biết làm sao với người ngoan phụ, chẳng lẽ mình tu-hành mà mãi rầy-rà, ông liền ẩn-lánh lên miền Thất-Sơn, với ý-định là mong Thị-Nhị quên ông, hay có chồng khác đi cho ông khỏi bận.

Nhưng sau đó ít hôm, Thị-Nhị dò biết được tin, bèn gom góp của tiền, lên núi Két là chỗ địa-cầu của Thất-Sơn, cất am ở đó để chận đón ông Ngoạn.

E. Sang Tà-Lơn

Biết là chuyện không hiền, ông Ngoạn sau khi chu-du cùng khắp Thất-Sơn, ông kết bạn với ông Tường (không rõ người gốc tích ở đâu) rồi rủ ông nầy sang Tà-Lơn tìm nơi tỉnh-dưỡng.

Trong khoảng ở Tà-Lơn, ông luyện được rất nhiều phép thuật. Có bận ông bảo ông Tường đem rỗ của ông đã đươn được trên non xuống Sốc-Thổ để đổi gạo về ăn. Ông Tường sợ lạc đường, lại sợ thú dữ nên từ chối không đi. Ông bảo ông Tường cứ đi, ông sẽ cho hùm thiêng dẫn lối. Ông Tường đánh bạo ra đi. Thế là quả thật, có cọp đi trước kêu chừng và giữ-gìn cho ông Tường một cách cẩn thận.

Ở Tà-Lơn một độ. Ngày kia thình-lình ông Ngoạn rơi lụy mà bảo ông Tường rằng: « Chư thần cho tôi hay: hiện nay mẹ tôi ở nhà đau nặng, đang nguyện vái và mong mỏi tôi về. Vậy chú liệu xem có thể một mình ở lại hay cùng về với tôi ?».

Ông Tường nghe sao hay vậy chớ trong lòng bán tin bán nghi. Nhưng khi hai người về đến Trà-Bông thì quả thật, thân mẫu của ông Ngoạn còn đang trầm-kha trên giường bịnh.

F. Lên núi Két

Lo thuốc thang cho mẹ vừa mạnh, ông Ngoạn lại phải nghĩ đến việc mưu sinh, vì lúc nầy, đúng y như lời Phật-Thầy mách trước ngày xưa, ông Ngoạn thật nghèo nàn vất-vả, chỉ có một cái khố rách che thân mà thôi. Ông phải lên núi Két hái thuốc, nấu thuốc cao, thuốc dán để đổi kiếm chút tiền nuôi mẹ và độ hồ khẩu cho mình. Hồi nầy Thị-Nhị đã trở về giòng Tha-La, ông không còn lo vì sự trở ngại lôi-thôi ở núi Két nữa.

Theo tài-liệu trong « Đạo-Ông giảng-tập » thì khoảng nầy ông Ngoạn hiệp cùng ông Bùi-Văn-Thân, ông Cả-Lăng, ông Chủ-Dương, chấn chỉnh tại chùa chiền trong làng Hưng-Thới. Và cũng chính lúc nầy ông bí-truyền tâm-pháp cho ông Từ-Đọt (hay từ Lão) một đệ-tử của Đức Phật-Thầy– và dặn-dò công việc truyền-đạo cho ông nầy trước khi ông Ngoạn rời khỏi Thới-Sơn.

G. Dựng lại chùa Trà-BôngRời Thới-Sơn, ông Ngoạn trở về Trà-Bông viếng mẹ. Một hôm, mẹ bảo rằng: Mẹ nghĩ con thì tuổi một ngày một lớn; mà mẹ thì mỗi lúc một già, nay mai mẹ nhắm mắt rồi, mẹ sẽ không vui lòng mà để con ở lại với cảnh lao-đao khổ cực như vầy mãi mãi. Nên mẹ đã lựa cho con một chỗ tại làng Mỹ-Long, con hãy sớm mà lo lập lại cho rồi gia-thất.

Vâng lời mẹ, ông Ngoạn xuống Mỹ-Long cưới vợ. Bà ấy tên là Thị-Thu: tánh nết thuần-hòa, dung-tư đứng-đắn. Không bao lâu bà đã lo làm lụng có một số vốn và mua muối đổi được một số lúa khá nhiều. Bà định giúp ông Ngoạn để dựng lại chùa-chiền, chấn bưng đạo-đức.

Nhưng Thị-Nhị với tấm lòng sâu độc, đem ghe từ giồng Tha-La xuống Cái-Sao-Hạ (Mỹ-Long) a vào nhà chở hết lúa và muối mà bà Thu đã dày công dành-dụm.

Thấy việc quá ngang trái, Hương-Chủ Sắc là người có thế-lực nhứt trong vùng, đến cản ngăn và thóa-mạ Thị-Nhị, nhứt quyết không cho chở lúa. Ông Ngoạn thấy vậy can ông Chủ Sắc và tự nhận là nghiệp quả của ông, vì theo lời tiên-tri của Đức Phật-Thầy, đến năm 60 tuổi sắp lên ông mới được thong-dong rổi-rảnh. Ông Chủ Sắc không biết tính sao, vì không có nguyên-cáo, ông đành để cho Thị-Nhị tự ý tung-hoành.

Nhưng trời vẫn còn tựa người lành, bà Thu lại ra sức làm lụng nuôi mẹ giúp chồng, ít lâu tiền bạc có dư, bà theo ông Ngoạn về Trà-Bông cất lại ngôi chùa ngay nền ngày trước, mà ông Ngoạn vì lánh Thị-Nhị đã bỏ hư, và nổ-lực vung trồng ruộng phước.

Bổn đạo nghe tiếng trở về thăm viếng và nghe thuyết Pháp rất đông. Nhưng công cuộc phổ-truyền đạo đức đang tiến hành hiệu quả thì bỗng bà Thu mang bịnh ngặt mà qua đời. Ông Ngoạn lại phải một phen bận lòng lo-lắng. Ông giao hết của cải của bà Thu cho hai người cháu là Hai Nhẫn và Bảy-Truyền rồi đóng cửa mà chuyên lo kinh-kệ. Năm ấy ông ngoài 50 tuổi.

H. Chữa bệnh thời-khíNăm Giáp-Tuất (1874), bệnh thời khí hoành nhiều nơi làm cho nhân-dân nhộn-nhàng kinh-sợ không làm ăn được. Hương chức làng Nhị-Mỹ thấy thế hội nhau bàn-tính, rồi kéo đến chùa Trà-Bông thỉnh-cầu ông Ngoạn chữa trị.

Vốn sẳn lòng đạo-đức, lại giỏi về khoa cứu chữa bịnh nầy từ khi còn gần-gủi bên Đức Phật-Thầy, ông Ngoạn liền đem hết năng-tài thi-thố. Công hiệu của sự trị binh và quần-chúng kéo tới đông-đảo thế nào, thiết tưởng đoạn văn dưới đây trong tập « Đạo Ông giảng-tập » đủ miêu-tả rõ.

Đạo ông pháp-thuật gắn keo,
Ra oai Phật-lực cứu-điều muôn dân.
Chuyển xoay kinh chú như thần,
Ôn-hoàng dịch khí một lần phải kiêng.
Phù linh hay tợ thuốc tiên,
Phun đâu giải đó mạnh liền như xưa.
Tổng nào tỉnh ấy đều ưa,
Biết bao nhiêu kể người ta đông vầy.
Kẻ lui người tới dẫy đầy,
Dòng sông chật nức ghe cây chen luồn.


Sự đông đúc hiện giờ đến đổi làm cho quân Pháp ở Định-Tường kinh sợ. Họ xuống lệnh cho nhà chức-trách ở Sa-Đéc quan-sát coi nếu thật là gian đạo-sĩ « hội dân làm loạn thì cấp tốc bắt ngay ». Nhưng lúc này giới hữu quyền ở đây phần nhiều đều cảm-phục uy-đức của ông Ngoạn, họ mật bàn với nhau, thỉnh sắc thần đem về để sau hậu tổ chùa Trà-Bông rồi báo về tỉnh đường rằng sự tụ-hội đông-đảo là để cầu an bá-tánh và cúng thần chớ không chi lạ. Nhờ vậy mà từ ấy sự lui tới của dân chúng mới yên. Ngày nay tại chùa Trà-Bông vẫn còn để thờ Long-Đinh, ấy là nếp cũ ngày xưa vẫn còn roi dấu.

I. Sanh còn và tịch diệt


Từ khi bà Thu là vợ giữa của ông Ngoạn mất đi, ông không hề nghĩ đến việc tục huyền nữa. Nhưng mẹ ông không nghe, thường dạy ông lấy vợ để sanh con nối hậu.

Nhớ lời Thầy xưa và tuân theo lệnh mẹ, ông Ngoạn cưới bà Nguyễn-thị-Huê ở rạch Cái-Vừng (thuộc làng Nhị-Mỹ) về coi sóc trong ngoài và sớm hôm nuôi dưỡng từ-mẫu. Bà nầy đức-độ thanh-cao, làm ăn giỏi-giắn. Trong việc giúp-đỡ bịnh-nhân và tiếp đãi tín-đồ của ông Ngoạn lúc sau nầy, một phần lớn nhờ ở bàn tay của bà giúp sức.

Căn-cứ theo bài du-ký Đế-Thiên (có lẽ là của ông Đặng-Công-Hứa) thì năm ông Ngoạn đúng 60 tuổi, tức là năm Canh-Thìn (1880), ông nằm mộng thấy có Khổng-tước bay đỗ vào lòng, rồi trong năm ấy bà Huê thọ thai và sanh hạ một trai. Nhân thấy điềm ứng chim công, ông Ngoạn theo đó mà đặt tên con là Đặng-Công-Hứa. Cuộc đời sóng gió của ông Ngoạn trước kia từ nay không còn có nữa. Ông sớm chiều thong-thả giảng đạo xem kinh, tịnh-niệm và tu bồi công-đức.

.Tết Canh-Dần (1890), giữa lúc có tín-đồ tựu về lễ Phật đông-đủ, ông Ngoạn vui vẻ nói: « Trong năm nay, chúng đệ-tử sẽ không còn gặp mặt ta nữa. Vậy mỗi người cứ trì-tâm đạo-tác phước-điền, chớ khá vì chẳng ai nhắc-nhở mà lảng-xao bổn-phận ». Tín-đồ nghe nói biết là lời trối nên đau đớn bịn-rịn chẳng chịu ra về, ông phải đem thuyết « hữu hình tắc hoại » ra giảng-giải, ai nấy mới chịu an lòng nghe theo.

Ngày 19 tháng 2 năm ấy, ông tắm gội sạch-sẽ rồi ngồi niệm Phật mà tịch-diệt, thọ được 70 tuổi. Tín-đồ xúm nhau chôn cất và thương-xót vô cùng, có người ở lại Trà-Bông đến ba năm để săn-sóc và bồi đắp chung-quanh nắm xương tàn của người liễu-ngộ cho thỏa-lòng luyến tiếc.

Qua mười năm khói lửa, ngôi chùa Trà-Bông đến giờ hãy còn giữ được nguyên vẹn phong-độ uy-nghiêm, mặc dù cây cối quanh chùa đã phải nhiều phen đương đầu với sự tàn-phá của miểng bom oanh-tạc.

Sau khi ông Đạo Ngoạn qua đời, chùa tiếp tục được Nguyễn Thị Huê (Là người vợ thứ 3 của ông) và bổn đạo coi sóc. Ông Đặng Công Hứa (Chín Hứa con trai của Ông) cũng được ông Ngoạn và bà Huê truyền dạy giáo pháp và phương cách chữa bệnh nên chùa Trà Bông vẫn quy tụ được đông đảo tín đồ.

Đến khi ông Chín Hứa thay thế trụ trì ngôi chùa ông đặt tên mới cho chùa là Triều Âm Tự. Căn cứ vào bức hoành phi chữ Nho bằng gỗ sơn son do chính tay ông Chín Hứa viết, có đề phần lạc khoản “ất mão niên, bát ngoạt, thập nhị nhựt” (ngày 12 tháng 8 năm Ất Mão – 1915) có thể ước tính ngôi chùa đã được tu sửa lần gần đây nhất cũng đã trên 100 năm. Ngoài tên gọi Triều Âm tự ít người biết, dân gian vẫn quen gọi đây là “Chùa Ông Chín” bởi đức độ và tài năng của ông Chín cũng không kém ông Đạo Ngoạn.

Tháng 8 năm 1945, bà Trần Thị Nhượng (Sáu Ngài) cùng với bà Trần Thị Thanh (bí danh Hiếu) và hai nữ bảo vệ đến chùa nhờ ông Chín tổ chức địa điểm và nhơn lực gói bánh tét tiếp tế cho bộ đội đánh Tây ở tỉnh Sa Đéc được ông Chín nhiệt tình vận động bổn đạo hưởng ứng.

Năm 1949, ông Chín Hứa cho Ban Đờ-sạc (đơn vị sản xuất bột nổ và đầu đạn của chánh quyền cách mạng) đóng tại chùa. Ông vận động bổn đạo cất xưởng chế tạo và kêu gọi phật tử đi các nơi thu mua đồng các loại như mâm đồng, nồi đồng, đồng điếu,…để Ban Đờ-sạc có nguyên liệu chế tạo vũ khí đánh giặc. Chùa Ông Chín cũng gom góp tất cả vật dụng bằng đồng kể cả lư đồng trong chùa để đóng góp. Chùa ông Chín còn hiến luôn 40 cây sao của chùa để hưởng ứng lịnh của Ủy ban kháng chiến Hành chánh Huyện Cao Lãnh tạo dựng rào xã chiến đấu, đắp cản ngăn sông nhằm cản trở việc đi lại khủng bố của giặc Pháp. Số sao này được dùng để xóc trụ làm cản ngoài vàm Trà Bông, vàm rạch Cái Chai ngăn tàu giặc, số còn lại cưa ván bắt cầu Cái Chai để giao liên tiện đi lại.

Giữa năm 1958, do tuổi cao sức yếu, ông Chín Hứa lâm bệnh nặng và qua đời vào ngày 13 tháng 6 âm lịch trong sự tiếc thương của bổn đạo và chánh quyền cách mạng. Từ năm 1962, chùa là nơi nuôi chứa những cán bộ của Ban Quân báo tỉnh đội Kiến Phong. Tiêu biểu như ông Nguyễn Văn Cõi (bí danh Tư Cõi), Nguyễn Thiện Tùng (Chín Tùng, Trần Văn Bé,…)

Năm 1965 – 1966, tại chùa một căn hầm bí mật được xây dựng để nuôi chứa những cán bộ của tỉnh và huyện. Mỗi khi có đợt càn quét của địch, khi chúng rút khỏi, chùa đánh 3 tiếng mỏ lớn để làm ám hiệu cho cán bộ trú ẩn trong hầm. Hầm bí mật này được sử dụng rất hiệu quả cho đến ngày giải phóng 30 tháng 4 năm 1975. Trong khoảng thời gian này nhiều cán bộ của tỉnh và huyện đã sống, chiến đấu và công tác tại hầm bí mật của chùa như : ông Nguyễn Văn Nỉ (bí danh Khuyên) – Phó phòng Tham mưu tỉnh đội Kiến Phong, ông Bùi Công Luận (Bảy Hải) – cán bộ tình báo,ông Vũ Hoàng Mập (Ba Ngãi) – cán bộ An ninh tỉnh, ông Đào Văn Thăng (Năm Dân) – Chủ nhiệm Hậu cần tỉnh đội, ông Trần Thanh Hữu (Hiền Hữu) – Chủ tịch huyện Cao Lãnh,…

Từ năm 1973 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, Thị xã Ủy Cao Lãnh về ở rạch Trà Bông gần chùa, những người tu hành trong chùa vừa làm giao liên xã Nhị Mỹ và bảo vệ cán bộ xã. Các đồng chí lãnh đạo thị xã Ủy như Võ Hồng Nhân (bí thư Thị xã Ủy), Nguyễn Đắc Hiền (Phó trưởng ban Tuyên huấn tỉnh)… cũng thường xuyên qua lại và ở tại chùa.

Là một nhánh lớn của phái Bửu Sơn Kỳ Hương, Triều Âm Tự cũng áp dụng hệ thống giáo lý của Phật Thầy. Tuy nhiên cũng có đôi nét khác biệt, theo thuyết vô vi nên không thờ tượng cốt mà chỉ thờ tượng trưng bức trần điều, các bàn thờ Tam Bảo, Phật Đạo, Cửu Huyền Trăm Họ và bàn thờ ông Chín Hứa có rèm bằng vải màu nâu che lại (theo Ban Hộ tự đây là lệ đã có từ trước đến nay).
J.Các Ngày Cúng :

Hằng năm tại chùa có các lệ cúng:



Ngày mùng 3 – mùng 4 tháng Giêng: Vía Bà Cố.
Ngày 14 – 15 tháng Giêng: cúng rằm Thượng Ngươn.
Ngày 19 – 20 tháng Hai: Vía ông Đạo Ngoạn.
Ngày 30 – mùng 1 tháng Ba: Vía Ông Sơ.
Ngày 20 – 21 tháng Tư: Vía Bà Sơ.
Ngày mùng 4 – mùng 5 tháng Năm: Tết Đoan Ngọ
Ngày 21 – 22 tháng Năm: Vía Bà Chín.
Ngày 12 – 13 tháng Sáu: Vía Ông Chín.
Ngày 14 – 15 tháng Bảy: Rằm Trung Ngươn.
Ngày 11 – 12 tháng Tám: Vía Phật Thầy.
Ngày 14 -15 tháng Mười: Rằm Hạ Ngươn.
Ngày 21 - 22 tháng Mười Một: Vía Bà Đạo.

Trong các lệ cúng tại Triều Âm Tự thì lệ vía ông Đạo Ngoạn là lệ cúng chính, quy tựu đông đảo tín đồ trong bổn đạo từ khắp nơi như: Cả Vừng (Nhị Mỹ), Mương Điều (Lấp Vò), Cao Lãnh, Tân Thuận Tây, Mỹ Long, Mỹ Quý, Ba Sao,… đến vía và cúng dường.




Đánh giá bài viết

4.98/32 rates

Print Friendly and PDF
Đăng nhận xét

Đăng nhận xét

Cảm ơn Đạo Hữu đã đóng góp. Chúc Đạo Hữu một ngày an lạc! A Di Đà Phật