Thập Nhị Nhân Duyên

thập nhị nhân duyên, chơn lý khất sĩ
THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN
Chơn Lý Khất Sĩ

  • Diễn Giải
  • Thi Kệ

I NHƠN DUYÊN SANG CÕI ĐỜI

sanh ra cõi đời, có mười hai pháp, hằng chuyền níu nhau mãi, do đó chúng sanh mới có, mới khổ, và rồi sau khi có khổ là tiến hóa hay tiêu diệt.

Vô minh sanh ra hành, 
Hành sanh ra thức,
Thức sanh ra danh sắc, 
Danh sắc sanh ra lục nhập,
 Lục nhập sanh ra xúc,
Xúc sanh ra thọ,
Thọ sanh ra ái,
Ái sanh ra thủ,
Thủ sanh ra hữu,
Hữu sanh ra sanh,
Sanh sanh ra tử,

Tử trở lại vô minh mà luân hồi quanh quẩn chịu khổ nhọc.

Vô minh là không sáng hay là chưa có biết, cũng là cảnh vũ trụ; từ khi chưa có tứ đại và chúng sanh, ta không thể biết được. Vô minh sanh ra hành. Hành là nước đất lửa gió chuyển xoay, thành quả địa cầu rung động và thay đổi.
Hành sanh ra thức. Thức là cái biết, cái sống của chúng sanh.
• Thức sanh ra danh sắc. Danh sắc là tên gọi và sắc thân.
Danh sắc sanh ra lục nhập. Lục nhập là sắc thinh hương vị xúc pháp nơi ngoài, thức trong xúc đối tượng sanh mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
Lục nhập sanh ra xúc. Xúc là sự xúc đối, xúc động, cảm xúc, xúc giác, xúc tiếp của giữa căn và trần.
Xúc sanh ra thọ. Thọ là ưa chịu, là thức do căn mà nhiễm trần.
• Thọ sanh ra ái. Ái là thương yêu trìu mến lục trần, lục căn và chúng sanh các pháp.
Ái sanh ra thủ. Thủ là cất lấy giữ gìn.
Thủ sanh ra hữu. Hữu là có, cho là thiệt, có hoài hoài.
Hữu sanh ra sanh. Sanh là sanh sản, nảy nở, chế biến tạo thêm.
Sanh sanh ra tử. Tử là thay đổi chết mất, tàn, tiêu, không không diệt bỏ, tan hoại.
Sau đó chúng sanh trở lại nữa, quanh quẩn trong bao nhiêu công việc, loay hoay chịu khổ nhọc mà không công, đành sống trong chiêm bao hình bóng, ban đêm lo sợ, chẳng biết đi đâu, ở đâu ra sao. Cũng như cá cạn ở ao không đường lui tới, mặc cho may rủi, tôi mọi cho quỉ ma vậy.

II NHÂN DUYÊN CHÚNG SANH

Đó là mười hai nhơn duyên của tứ đại, còn đây là mười hai nhơn duyên của chúng sanh:

VÔ MINH là thuở chưa có thai, chưa biết được. 
Sanh ra HÀNH là sự giao hiệp. 
Sanh ra THỨC là cái biết, cái sống trong thai bào. 
Sanh ra DANH SẮC là tên gọi và sắc thân. 
Sanh ra LỤC NHẬP là sắc thinh hương vị xúc pháp, nhập vào sáu căn lúc mới sanh. 
Sanh ra XÚC là sự cảm xúc, xúc tiếp, xúc động, xúc giác, xúc đối. 
Sanh ra THỌ là ưa chịu, muốn ham. 
Sanh ra ÁI là thương yêu tríu mến kẻ khác. 
Sanh ra THỦ là lấy giữ vợ chồng làm của riêng, ích kỷ, tư lợi, thói xấu. 
Sanh ra HỮU là có thai, có gia đình riêng tư, có tham sân si độc ác, có sự nghiệp, cái có cho mình. 
Sanh ra SANH là sanh con nẩy cháu, sanh thêm tội ác, nghề nghiệp chơi bời khổ trược. 
Sanh ra TỬ là chết mất tiêu diệt, không không, bởi các sự sanh mà mau chết mất; càng sanh hóa, càng tiêu hoại đổi thay để mà chịu khổ nhọc. Đồ bể sắm thêm, thất bại thì làm lại, cứ mãi xoay tròn như thế trong sự dốt nát vô minh. Chết rồi chỉ biết cõi đời có bấy nhiêu, đi nhập thai sanh lại nữa.

Sống để rồi chết, chết để rồi sống, cam chịu luân hồi, chẳng hiểu sao thiệt giả; làm ăn, học hành, nghề nghiệp, danh lợi, tình yêu, giành giựt, cướp bóc, chen đua trong vật chất để mua lấy cái sống tạm không chừng; cầu cho được vui hay êm sướng, tới đâu hay đó, chẳng hề biết đầu trên chân dưới, thiện ác ra sao! Hễ cái chi vừa ý thì chen chúc chui vào, bất phân phải quấy, khổ để chịu khổ, kham chịu cho là số phận hoặc tại thần quyền ám muội.

III CÁI KHỔ VÔ LÝ

Lại nữa, cái khổ vô lý của chúng sanh là sự mảng lo nuôi sống chơi bời, cho mình hay giỏi tốt đẹp, học tập chữ tiếng, tự cao chấp tuổi mà đành chịu dốt nát VÔ MINH, không chịu tầm tõi, quán xét, ngó trước xem sau. Hiện tại nay lần mai lựa, đến đâu hay đó, không thông chơn lý, chẳng biết lấy mình, mờ mịt trong bóng tối. Thôi thì cứ lần mò mà HÀNH ma tác quái, nhào lộn trong cái khổ múa xoay thở mệt, cố an ủi phủi quên để nuôi giấc mộng, đặng mà ngủ cứ ngủ, vui chịu sự hành hạ, lại càng tự thị tài sức, trí THỨC mưu mô, nương theo DANH SẮC, hình đẹp bóng xinh, tiếng tăm thanh dịu, mùi vị ngon thơm, vật chất bóng mịn, cố chấp mong cầu, để cho sáu căn thâm nhập, gọi là LỤC NHẬP. Càng tiếp XÚC vật chất càng sanh THỌ chịu, lấy tham sân si làm của cải, gọi thân khẩu ý là ta, nên luyến ÁI không rời. Lấy giữ chúng sanh làm quyến thuộc mà THỦ giữ mãi, chấp là có HỮU. Thay đi đổi lại, có vẫn có hoài, thế mới SANH đi sanh lại. Đến TỬ chết rồi, không quen chỗ vắng cảnh không, nhớ người nhớ vật, khổ ý phải nhập thai, luân hồi mãi mãi, chỉ biết có bấy nhiêu, thả trôi theo nguồn dục vọng, mặc cho cái thức nổi chìm.

Có kẻ lại vì quá tham sanh mà nhẫn tâm tàn bạo, đến nỗi phải bị khổ điên, tiêu diệt luôn cái thức, tử rồi mất luôn. Cũng có kẻ mãi giữ gìn, chấp có cuộc đời, chôn chết cái thức trong trần, đến khi tỉnh ngộ biết ra cái sống chơn thật chủ nhơn, liền chết bỏ cái ta giả dối, chết bỏ cái sở chấp mà yên lặng nín nghỉ, vào cõi chơn như tịch diệt Niết-bàn. Sanh như thế tức là sự sanh sống bằng tinh thần. Tử như vậy là chết bỏ vật chất của bậc giác ngộ, mới là dứt khổ.

IV SỰ LUÂN HỒI - LỘN LẠI

Sự luân hồi xoay đi lộn lại, nào biết ai là lớn nhỏ, ai là trước sau, cứ mãi bám níu lấy nhau, lăn tròn chóng mặt. VÔ MINH không biết lại là trụ cốt. HÀNH ác tức cây căm xe chỉ xuống THỨC, thức mới tiến lên DANH SẮC, LỤC NHẬP, XÚC, THỌ và ÁI, ái là trên cao. Ái chúng sanh bình đẳng chơn chánh thì lên đến trí huệ, vào ở chơn như làm Phật, bay bổng khỏi bánh xe khổ là luân hồi. Còn trái lại, nếu ái dục tình thì ích kỷ độc ác, nặng nề dính chặt, phải rớt lộn trở xuống THỦ, HỮU, SANH, TỬ. Tử rồi còn thức nhập thai sanh danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái trở lại.

Cái vòng khổ ấy, càng vô minh tối tăm càng hành ác vận chuyển. Chúng sanh như con mọt đeo theo trụ cốt vô minh mà phải điên đầu rối óc. Có kẻ níu lấy cây căm hành mà phải bị rớt té chơi vơi, lộn ruột. Người mà ôm chặt vành xe là thức, danh sắc, lục nhập, ái, thủ, hữu, sanh, tử thì phải bị chết dẹp tan hình; ấy là kẻ mãi sanh, sanh tội ác, khi chết rồi lại diệt, diệt tiêu.

Vậy ta nên nhớ rằng: Ái chúng sanh là hành thiện đến trí huệ vào chơn như, ngôi giác mãn, sống đời đời không khổ. Còn ái dục tình vạy tà là hành ác đến vô minh, vào vọng động, hạng si mê, chết tiêu diệt, chẳng chút vui.

V. SỐNG BẰNG TRÍ HUỆ

Thật vậy, nếu lấy trí huệ làm trụ cốt, hành thiện làm căm xe, chơn như làm vành bánh thì tức là bánh xe pháp. Chúng sanh sẽ được cỡi phía trên, sáng chói vui chơi bay nhẹ, hơn là lấy vô minh làm trụ cốt, hành ác làm căm xe, vọng làm vành bánh mà phải chịu thảm hình.

Trong bánh xe vô minh luân hồi phải chịu tám khổ lớn: sanh, già, bệnh, chết, cầu muốn không được, thương yêu xa lìa, thù ghét gặp gỡ, ngũ uẩn thạnh hành cả muôn điều khổ.

Còn trong bánh xe trí huệ Niết-bàn lại có tám đạo: thấy chánh, suy gẫm chánh, nói chánh, làm chánh, nuôi sống chánh, siêng năng chánh, niệm tưởng chánh, yên định chánh, thảy hưởng toàn vui.
Vô minh ví như cuồn dây rối, càng cựa quậy càng trói buộc mình, chẳng biết đầu đuôi. Trí huệ như gươm huơi cắt đứt chỉ mành, đuôi đầu đều rã đoạn.

Trí huệ là đứng ngừng nín nghỉ, thanh nhàn an tịnh. Vô minh là chạy nhảy nói làm, cấu trược ồn ào, mệt nhọc không công. Suốt trọn đời quây múa giễu trò, khi đến chết còn mê muội sợ sệt, dầu tỉnh ra cũng đã trễ rồi, mong cầu kiếp khác, chưa biết ra sao!

Thế mới biết rằng: trần thế khói bụi mịt mờ, gió mưa lạnh lẽo, khổ chịu tự mình, khó than cùng chồng vợ, cha con, quyến thuộc, có miệng mà chẳng kêu cứu được với ai ai.

VI. ĐỨA TRẺ TRONG BỤNG MẸ

Một đứa trẻ con ở trong bụng mẹ VÔ MINH bị các sự HÀNH động bên ngoài mà sanh THỨC biết, có thức mới tượng DANH SẮC, có danh sắc mới biến thành LỤC NHẬP mà chun ra ngoài. Lần lần ba tuổi có XÚC, lớn lên sáu tuổi có THỌ, mười hai tuổi mới sanh ÁI. Ái của người nhỏ là trong sạch chơn chánh. Mười hai tuổi biết thương gia đình. Ba mươi tuổi biết thương xã hội. Bốn mươi tám tuổi biết thương cả chúng sanh. Ái tình quí báu cao thượng ấy mà nảy nở đúng như vậy tức là bác ái đại đồng, từ bi vô lượng sẽ thành Phật.

Người là lòng thương yêu gia đình. Trời là lòng thương yêu xã hội. Phật là lòng thương xót cả chúng sanh. Các bậc ấy thảy quên mình mà biết cho kẻ khác, nên muôn loại thảy kính vì. Trái lại vì lòng tư kỷ, tham vui mê muội, gây ái tình nhục dục, tức là đi xuống hố si ngây, đem mình chôn sâu trong địa ngục hắc ám để chịu sự đau khổ không ngừng, lần hồi diệt tận, khó nỗi ngồi yên. Thế mới biết rằng chữ ÁI là quí báu nhứt, mà cũng độc hại nhứt của chúng sanh.

Từ vô minh đến tử là con đường tấn hóa từ địa ngục đến Niết-bàn. Từ khi chưa có đến có vĩnh viễn, hay cũng là con đường bị cắt đứt giữa chừng, chúng sanh vừa tấn hóa lại phải bị thụt lùi tan hoại. Sự cắt đứt ấy là lưỡi gươm ái hay gọi suối vàng, là chỗ chôn người. Cũng gọi chữ ái là tòa sen, hay cụm mây, chiếc xe đưa chúng sanh mau về cõi Phật.

Từ vô minh đến hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái là nửa chặng đường, nơi ấy chia hai nẻo:
a. Ái chúng sanh, từ bi, bác ái là đi tới thủ lấy, lấy sự thiện giúp đời; hữu là có ích lợi cho chúng sanh tấn hóa. Sanh là sanh nảy các pháp môn phương tiện của trí huệ độ người. Sau rốt đến tử là nhập diệt, chơn như, Niết-bàn, hưu trí.

b. Ái tình dục thì quẹo bên trái, mà đến thủ là lấy, lấy sự ác; hữu là có, có cái nghiệp vô ích tội lỗi. Sanh là sanh mưu sâu kế độc, quả báo dẫy đầy, đến nỗi khi chết, phải khổ điên cùng tiêu diệt.

Vậy muốn dứt luân hồi khổ hắc ám thì chúng ta phải học, tầm tòi quán xét cho rõ nhơn duyên, dùng trí huệ ấy cắt đứt ái dục tình, đi ngay nẻo phải, xua ánh sáng dẹp bóng vô minh, phá tan hành ác để cho cái thức được tỉnh táo, đi theo bát chánh đạo, hưởng yên vui thiệt thọ.

Trí huệ thì hành thiện, thức thiện, danh sắc thiện, lục nhập thiện, xúc thiện, thọ thiện, ái thiện, thủ thiện, hữu thiện, sanh thiện, tử thiện là Niết-bàn.

Còn vô minh là hành ác, thức ác, danh sắc ác, lục nhập ác, xúc ác, thọ ác, ái ác, thủ ác, hữu ác, sanh ác, tử ác là luân hồi hay tiêu diệt.

Khởi đầu tại vô minh hay trí huệ rồi thì nó kéo dài mãi mãi, một trong hai đường. Vậy trí huệ là sự hiểu trắng, sáng suốt. Trí huệ thì không có hành, không hành đâu có thức, không thức đâu có danh sắc, không danh sắc đâu có lục nhập, không lục nhập đâu có xúc, không xúc đâu có thọ, không thọ đâu có ái, không ái đâu có thủ, không có thủ đâu có hữu, không hữu đâu có sanh, không sanh đâu có tử, không tử đâu có vô minh luân hồi khổ.

Lại nữa, chúng sanh từ khi đã có biết rồi, vì sợ tử mới tham sanh, muốn sanh phải chấp hữu, giữ hữu là phải thủ, lấy thủ là phải ái, muốn ái phải thọ, muốn thọ phải xúc, muốn xúc phải lục nhập, muốn lục nhập phải nương danh sắc, muốn có danh sắc phải tập thức, muốn có thức phải hành, muốn có hành phải vô minh; giả bộ mắt ngơ tai điếc, làm tuồng ngu dại dốt nát ngây khờ, không cần đen trắng, miễn sống tạm qua ngày, no bụng sướng miệng thì thôi, chẳng phân chia phải quấy, làm như sâu mọt đục phá cây trần.

Mười hai nhơn duyên do sự tập lần mà có, nên gọi là nhơn duyên tập, tự nơi sự tấn hóa của mỗi người; kẻ bắt dưới đi lên, người bắt đầu trên đi xuống.
Mười hai nhơn duyên ấy tức là một cái vòng tròn, hay cũng là một con đường dài đến Niết-bàn hay đến địa ngục, cũng gọi chiếc thang mười hai nấc, để lên lầu cao hay xuống hố thẳm, là sự còn mất, khổ vui của chúng sanh.

VII. MƯỜI HAI NHÂN DUYÊN PHÁP

Mười hai nhơn duyên cũng ví như một đám rừng có mười hai cửa, như một bánh xe có mười hai cây căm, động một cây là động tất cả, vào một cửa là vào trọn trong rừng. Trong một nhơn duyên sẵn chứa mười một nhơn duyên khác, dính nhau như dây xích liên hoàn, chúng sanh vừa chạm phải một mắc là đã bị quấn đeo. Thật vậy, chúng sanh khi đã vướng vào thì mãi quanh quẩn xoay tròn chóng mặt, không biết phương nào giải thoát, vĩnh kiếp không ngừng. Nhưng nếu may mà nhờ sự biết thương yêu nhau trong cảnh cùng khổ, đồng thời chung hiệp cùng nhau tìm xét học hỏi, mới cắt đứt được xích xiềng, khai vẹt cửa ngục, thoát ra khỏi chết.

Mười hai nhơn duyên tức là mười hai đạo để tới địa ngục, hoặc đến thiên đường hay vào trong cõi Phật. Cũng là mười hai địa ngục (ác), mười hai thiên đường (thiện), hay mười hai cõi Phật (huệ). Mười hai nhơn duyên của chúng sanh tức là mười hai chứng bịnh, tật xấu, tánh mê, mà cũng do đó mới có mười hai thứ thuốc hay, nết tốt, tánh giác.

Chúng ta ai cũng có riêng một sở chấp, thói quen trong mười hai nhơn duyên ấy. Vậy nên chúng ta muốn hết khổ luân hồi thì tùy sự xét thấy mình ở cửa nào, hãy lui ra khỏi cửa đó, quay đầu lại là xong, chớ đừng mãi đi tới và luồng tuông để chịu khốn họa. Nắm lấy mười hai nhơn duyên đi tới thì càng vọng động khổ sở, bằng buông tháo trở lại thì càng chơn như vui sướng, miễn giác ngộ là thấy được đường.

Thế mới biết rằng: trí huệ là lưỡi gươm thần huơi múa phân tách ra và gom hiệp lại, để cắt đứt tuyệt các pháp khổ sầu, diệt trừ phiền não. Trí huệ cũng là lửa sáng, dẹp tan bóng tối vô minh cùng thiêu đốt cả cỏ, cây, người, thú, ma, trời, địa ngục. Cũng như chiếc cầu cao đưa ta qua biển ái, như cặp cánh để ta bay khỏi chuồng lồng, như đám mưa dẹp tan cát bụi, như chiếc bè vớt kẻ chìm sâu, như mái nhà che ta mưa nắng.

Trí huệ là bến bờ giác, cũng tức là cặp mắt sáng của cuộc đi đường dài, cũng là mặt trời mặt trăng của muôn loại; không có nó muôn loài khó sống, cái sống mà ai cũng muốn hết. Chính Niết-bàn mới là cái sống chơn như chắc thiệt vĩnh viễn mà thôi. Cái sống ấy như hột sen khô cất để đời đời, khác hơn cái sống của chúng sanh là hột còn non nớt. Có khi vì cảnh quá khổ điên của địa ngục dốt nát vô minh mà hư rã như hột sình thúi; chớ như cái thân vỏ mộng này còn mất có tiếc chi; người trí dùng nó để che tạm cho cái hột kia mau già cứng vậy.

Cái chết ai cũng sợ, nhưng thân chết không có mất, chớ cái biết chết là mất luôn. Vậy cái biết của ta phải cho già cứng, đừng để non thúi sâu ăn. Cái khổ là con sâu, ác gian là chất thúi. Cái biết, cái sống, ta phải nuôi nó vĩnh viễn trường tồn để sống một cách yên vui bình tĩnh.

VIII. THỨ LỚP CỦA NHƠN DUYÊN NƠI LOÀI NGƯỜI

1. Vô minh là địa ngục, tứ đại mới hiệp thành cho đến khi một tuổi (chưa có biết sáng).
2. Hành là ngạ quỉ, cây cỏ, từ một tới sáu tuổi (chỉ có thọ cảm đói khát tham lam).
3. Thức là súc sanh, thú vật, từ sáu tuổi tới mười hai tuổi (chỉ có tư tưởng hơn thua sân giận).
4. Danh sắc là A-tu-la, ác thần, từ 12 tới 18 tuổi (chỉ có hành ác si mê).
5. Lục nhập là Nhơn, người, từ 18 tới 24 tuổi (có hành thiện lòng nhơn).
6. Xúc là Thiên, trời, từ 24 tới 30 tuổi (có trí hóa biết điều thiện, cảm xúc).
7. Thọ là Nhập Lưu, Tu-đà-huờn, từ 30 tới 36 tuổi (cư sĩ, biết ưa đạo).
8. Ái là Nhứt Vãng Lai, Tư-đà-hàm, từ 36 tới 42 tuổi (có lòng từ bi thương xót chúng sanh).
9. Thủ là Bất Lai, A-na-hàm, từ 42 tới 48 tuổi (nắm giữ đạo không lìa, xuất gia giải thoát).
10. Hữu là Vô Sanh, A-la-hán, từ 48 tới 54 tuổi (có cái sống chắc thật).
11. Sanh là Duyên Giác, Bích-chi, từ 54 tới 60 tuổi (sanh trí huệ, các pháp giác ngộ nơi thanh tịnh).
12. Tử là Bồ-tát, Giác tha, từ 60 tới 66 tuổi (chết bỏ ta mà lo cho người).
Và từ 66 tới 72 là Như Lai (hưu trí, nín nghỉ, trở lại chơn như).
Qua khỏi 72 là Niết-bàn trọn vẹn (chết bỏ đạo đời, tắt nghỉ trọn vẹn). Đó là nhơn duyên tấn hóa từng trình độ pháp, theo tuổi của người. Ai sống y như thế tức là tu, sẽ đắc đạo, kết quả trong kiếp một không sai. Muốn biết rõ cách tu của từng hạng bực ấy, ta cần học giới luật, vì giới luật là chỗ ở của tất cả chúng sanh; mà nơi bài này ta cần phải biết nguồn gốc chúng sanh là do nhơn duyên tập trước đã! Quan hệ nhứt là chữ ái chia tẻ hai đường: người đứng trên chữ ái là chư Phật, kẻ nằm dưới chữ ái là chúng sanh. Điều đó đáng cho chúng ta thận trọng!

IX. NHƠN VÀ QUẢ CỦA MƯỜI HAI NHƠN DUYÊN

1. Vô minh, hành là nhơn quá khứ.
2. Thức, danh sắc, lục nhập là quả hiện tại. 
3. Xúc, thọ, ái, thủ, hữu là nhơn hiện tại.
4. Sanh, tử là quả vị lai.
Chúng sanh bởi từ kiếp trước vô minh, hành ác, gây nhơn nên mới phải nhập thai sanh thức, danh sắc, lục nhập là kết quả hiện tại mới có thân hình. Bởi có thân hình mới có xúc, thọ, ái, thủ, hữu là gây nhơn hiện tại, để chịu sanh tử đời sau là quả vị lai khổ não.
Vậy muốn không quả vị lai: sanh, tử, khổ thì đừng có nhơn hiện tại: xúc, thọ, ái, thủ, hữu.
Muốn không nhơn hiện tại thì phải không quả hiện tại: thức, danh sắc, lục nhập.
Muốn không quả hiện tại thì phải dứt trừ nhơn quá khứ: vô minh, hành.
Đã là nhơn quá khứ qua rồi thì đâu có trừ dứt gì được, âu là chúng ta hôm nay, muốn sau này không còn khổ của sanh tử thì phải ráng mở mang trí huệ để trừ vô minh. Tập hành thiện để dứt bỏ hành ác thì vòng luân hồi mới được sáng trưng, ngừng nghỉ là Niết-bàn, và không còn tám vạn khổ mà hưởng được tám vạn đạo yên vui, giác ngộ chơn như không còn sanh tử tức là Phật.
Diệt dứt luân hồi thì khổ sẽ hết.
HẾT

Hòa thượng Thích Giác Toàn, Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự, Trưởng ban Thường trực Giáo phẩm Hệ phái diễn kệ bộ Chơn lý, đã ấn hành trong 4 tập. Nhân tưởng niệm 68 năm ngày Tổ sư vắng bóng (1954-2022), Giác Ngộ trích một phần trong Chơn lý - Thiền quang vi diệu, giới thiệu cùng quý độc giả.

I. Nhơn duyên sanh cõi đời

Có mười hai duyên pháp
Hằng chuyền níu nhau mãi
Do đó, có chúng sanh
Có vui rồi có khổ
Tấn hóa hay tiêu diệt:
Vô minh sanh ra Hành
Hành rồi sanh ra Thức
Thức sanh ra Danh sắc
Danh sắc sanh Lục nhập
Lục nhập sanh ra Xúc
Xúc rồi sanh ra Thọ
Thọ rồi sanh ra Ái
Ái rồi sanh ra Thủ
Thủ rồi sanh ra Hữu
Hữu rồi sanh ra Sanh
Sanh rồi sanh ra Tử
Tử trở lại Vô minh
Luân hồi chịu khổ nhọc.
Vô minh là không sáng
Hay là chưa có biết
Cũng là cảnh vũ trụ
Khi chưa có tứ đại
Và chưa có chúng sanh
Ta không thể biết được
Vô minh sanh ra hành
Hành là sự vận hành
Nước, đất, lửa, gió... xoay
Chuyển thành: Quả địa cầu
Rung động và thay đổi
* Buổi đầu: Hành sanh thức
Thức là cái biết, sống
Của chúng sanh vạn vật
* Thức sanh ra danh sắc
Danh sắc là tên gọi
Của sắc thân tứ đại
* Danh sắc sanh lục nhập
Lục nhập là sắc, thinh
Hương, vị, xúc, pháp ngoài
Thức trong xúc đối tượng
Sanh mắt, tai, mũi, lưỡi
Thân, ý của con người
* Lục nhập sanh ra xúc
Xúc là sự xúc đối
Xúc động và xúc giác
Xúc tiếp căn và trần
* Xúc sanh ra tình thọ
Thọ là sự ưa chịu
Thức do căn nhiễm trần
* Thọ rồi sanh ra Ái
Ái thương yêu trìu mến
Lục trần và lục căn
Và chúng sanh các pháp
* Ái sanh ra chấp thủ
Thủ cất lấy, giữ gìn
* Thủ sanh ra hiện hữu
Hữu là có, là thật
Là có có, hoài hoài
* Hữu lần sanh ra sanh
Là sanh sản, nảy nở
Là chế biến tạo thêm
* Sanh rồi sanh ra tử
Tử thay đổi, chết mất
Tàn tiêu và tan hoại
Không không, dứt diệt bỏ
Sau đó hồi quay lại
Quanh quẩn bao nhiêu việc
Loay hoay chịu khổ nhọc
Mãi mãi hoàn không công
Đành sống trong chiêm bao
Ban đêm sợ hình bóng
Chẳng biết đâu về đâu
Và ở đâu, ra sao...
Cũng như cá ao cạn
Không biết đường lui, tới
Mặc cho sự rủi may
Tôi mọi cho quỷ ma
Đó là mười hai duyên
Của tứ đại lăn xoay.

II. Còn đây mười hai duyên

Của chúng sanh luân hồi:
Vô minh thuở chưa thai
Chưa có được, biết được
Sanh ra Hành : Giao hiệp
Sanh ra Thức : Cái biết
Cái sống trong thai bào
Rồi sanh ra Danh sắc
Tên gọi của sắc thân
Rồi sanh ra Lục nhập
Là sắc, thinh, hương, vị
Xúc, pháp nhập sáu căn
Lúc mới sanh - sanh Xúc
Sự cảm xúc, xúc tiếp
Xúc động và Giác - Đối
Sanh ra thọ - ưa chịu
Biết muốn ham vui thích
Sanh ra Ái - thương yêu
Và tríu mến kẻ khác
Sanh ra Thủ - giữ lấy
Làm chồng vợ riêng tư
Ích kỷ, chấp thủ, xấu
Sanh ra Hữu - có thai
Có gia đình riêng tư
Tham sân si... độc ác
Có sự nghiệp của mình
Sanh - Sanh con nảy cháu
Lần sanh thêm tội ác
Nghề nghiệp khổ trược đời
Sanh ra Tử là chết
Mất tiêu diệt, không không
Sự sanh và sự chết
Nối tiếp nhau sanh hóa
Tiêu hoại và đổi thay
Luân hồi chịu khổ nhọc!
Đồ bể rồi sắm thêm
Thất bại thì làm lại
Cứ xoay tròn như thế
Trong dốt nát vô minh
Chết rồi thì mất hết
Biết đời có bấy nhiêu
Nhập thai sanh trở lại.
Dòng luân hồi vô tận!
Sống để rồi lần chết
Chết để rồi sống lại
Cam chịu kiếp luân hồi
Xoay vòng đời nghiệt ngã
Chẳng hiểu sao thiệt giả
Làm ăn và học hành
Nghề nghiệp đường danh lợi
Tình yêu và gia đình
Giành giựt và cướp bóc
Chen đua trong vật chất
Kiếp sống tạm phù du
Mơ màng trong vui khổ
Tới đâu lần hay đó
Chẳng biết ngả đầu đuôi
Thiện ác xoay mù mịt
Vừa ý chen chúc vào
Quấy khổ đành cam chịu
Kham nhẫn cõi phù sinh.

III. Lại nữa, khổ vô lý

Của chúng sanh, cuộc đời
Sống buông trôi thân phận
Sống thả nổi chơi bời
Cho mình hay, mình giỏi
Học tập, chữ tiếng tốt
Tự cao và tự phụ
Chấp gia phong, tuổi tác
Trong dốt nát Vô minh
Không quán xét tầm tòi
Không ngó trước, xem sau
Sống nay lần, mai lựa
Đến đâu hay đến đó
Sống không thông chơn lý
Không lập chí chính mình
Mờ mịt trong bóng tối
Thôi thì cứ lần mò
Hành ma và tác quái
Múa xoay khổ thở mệt
Cố an ủi phủi quên
Nuôi giấc mộng trần đời
Mê ngủ gà, ngủ gật
Vui chịu sự hành hạ
Rồi tự thị tài trí
Thức mưu mô tự thân
Nương theo Danh sắc mình
Hình đẹp và bóng xinh
Tiếng tăm mùi vị thơm
Và vật chất mịn màng
Có ai hơn mình đâu!
Mà phải lo cượng cầu
So đo Căn - Trần - Thức
Mặc thù tạc hơn thua
Mặc Lục nhập tương tác
Càng tiếp Xúc vật chất
Càng sanh Thọ ưa chịu
Tham sân si làm của
Thân khẩu ý tự thân
Tự mãn Ái không rời
Chấp họ hàng quyến thuộc
Thủ giữ tài sản
Chấp cho là có Hữu
Thay đi và đổi lại
Có vẫn mãi có hoài
Sanh đi sanh lại
Con cháu sự nghiệp dài
Đến một ngày Tử chết
Không quen cảnh vắng không
Lòng nhớ cảnh, nhớ người
Ý khổ tìm nhập thai
Trói buộc luân hồi mãi
Chỉ biết có bấy nhiêu
Trôi theo nguồn dục vọng
Mặc cho thức nổi chìm.
Có kẻ quá tham lam
Mà nhẫn tâm tàn bạo
Đến nỗi phải khổ điên
Tiêu diệt luôn cái thức!
Hoại tử rồi mất luôn
Cũng có kẻ buộc ràng
Cố chấp có cuộc đời
Chôn chết thức trong trần
Đến khi bừng tỉnh ngộ
Biết cái sống chủ nhơn
Bỏ cái ta giả dối
Bỏ cái ngã sở chấp
Mà yên lặng nín nghỉ
Cõi tịch lặng Niết-bàn!
Sanh như thế tức là
Sự sống bằng tinh thần
Tử như vậy chính là
Chết từ bỏ vật chất
Bậc thật sự Giác ngộ
Mới thật là dứt khổ.

IV. Sự luân hồi, lộn lại

Nào biết ai lớn nhỏ
Nào biết ai trước sau
Cứ mãi bám níu nhau
Xoay lăn tròn chóng mặt
Vô minh không tự biết
Là trụ cốt khởi đầu
Hành ác tức căm xe
Nối kết Thức tiến lên
Danh sắc - Lục nhập - Xúc
Thọ Ái trôi lăn
Ái chúng sanh bình đẳng
Đến đỉnh cao trí tuệ
Vào chơn như làm Phật
Bay bổng thoát luân hồi
Thoát bánh xe khổ não!
Trái lại, Ái dục tình
Thì ích kỷ độc ác
Nặng nề buộc dính chặt
Phải rớt lộn trở xuống
Thủ , Hữu Sanh , Tử
Tử rồi quay nhập thai
Danh sắc - Lục nhập - Xúc
ThọÁi trở lại
Xoay tròn và khổ lụy!
Càng Vô minh tối tăm
Càng Hành ác vận chuyển
Chúng sanh như con mọt
Đeo trụ cốt Vô minh
Phải điên đầu rối óc...
Níu lấy cây căm Hành
Té chơi vơi, lộn ruột!
Người mà ôm vành xe
Thức - Danh sắc - Lục nhập
Ái - Thủ - Hữu - Sanh - Tử ...
Bị chết khổ tan hình!
Ấy là kẻ mãi sanh
Sanh tội ác, chết diệt
Thương đau... lụy đời đời
Vậy ta nên nhớ rằng:
Ái chúng sanh - hành thiện
Đến trí huệ chơn như
Ngôi chánh giác viên mãn
Sống đời đời không khổ
Kẻ buộc Ái tình dục
Đi vào đường vạy tà
Hành ác đến Vô minh
Nẻo vọng động, si mê
Chết diệt tiêu... khổ não
Chẳng được chút vui nào!

V. Thật vậy, sống ở đời

Biết làm chủ chính mình
Lấy trí tuệ trụ cột
Hành thiện làm căm xe
Chơn như làm vành bánh
Tức là bánh xe pháp
Chúng sanh cỡi bên trên
Đi chung quanh vòng đời
Sáng chói chơi, bay nhẹ
Hơn là lấy bánh xe
Vô minh làm trụ cốt
Hành ác làm căm xe
Vọng tưởng làm vành bánh
Mà phải chịu thảm hình!
Trong bánh xe vô minh
Luân hồi tám khổ lớn
Sanh - già và bệnh - chết
Cầu muốn không được khổ
Thương yêu xa lìa khổ
Thù ghét mà gặp gỡ
Ngũ uẩn xấu, tốt... hành
Cả muôn điều đau khổ!
Còn bánh xe trí tuệ
Có tám đạo Niết-bàn :
Thấy chánh, suy gẫm chánh
Nói chánh và làm chánh
Sống chánh, siêng năng chánh
Niệm tưởng, yên định chánh
Tất cả hưởng an vui!
Vô minh như dây rối...
Càng cựa quậy, buộc mình
Chẳng biết đầu, biết đuôi
Càng xao xuyến... càng khổ!
Trí tuệ như gươm bén
Cắt đứt chỉ mành đời
Đầu đuôi đều rã đoạn
Trí tuệ biết dừng nghỉ
Thanh nhàn và an tịnh
Vô minh ưa chạy nhảy
Nói làm cấu trược ảo
Mệt nhọc khổ không công!
Suốt đời múa giễu trò
Đến chết còn sợ sệt
Đảo điên trong mê muội
Dầu tỉnh ra đã muộn
Mong cầu đời kiếp khác
Chưa biết sẽ ra sao!
Thế mới chợt hiểu rằng:
Trần thế khói bụi mờ
Gió mưa ngày đêm lạnh
Khổ đau tự mình chịu
Khó than cùng chồng vợ
Mẹ cha và quyến thuộc
Có miệng mà như không
Chẳng kêu cứu được ai
Thế gian đầy khổ não
Thế gian là mộng ảo!

VI. Đứa trẻ trong bụng mẹ

Màn Vô minh che lấp
Bị các Hành bên ngoài
Mà sanh Thức biết trong
Có thức mới tượng hình:
Danh sắc Lục nhập
Thai lớn chun ra ngoài
Ba tuổi lần có Xúc
Sáu tuổi Thọ tăng dần
Mười hai tuổi có Ái
Ái còn nhỏ hồn nhiên
Trong sạch và chơn chánh
Mười hai... biết thương yêu
Chấp thủ với gia đình
Ba mươi tuổi... xã hội
Bốn tám tuổi… già giặn
Biết thương yêu chúng sanh
Ái tình cao thượng ấy
Nảy nở đúng như vậy
Thật bác ái đại đồng
Thật từ bi vô lượng
Nhất định sẽ thành Phật.
Người : Thương yêu gia đình
Trời : Thương yêu xã hội
Phật : Thương yêu chúng sanh
Các bậc ấy quên mình
Biết lo cho kẻ khác
Muôn loại phải kính vì
Trái lại, lòng tư kỷ
Tham hưởng vui mê muội
Thích ái tình nhục dục
Đi xuống hố si mê
Chôn sâu trong địa ngục
Đọa khổ trong hắc ám!
Chịu khổ lụy không ngừng
Lần hồi hoại diệt tận
Đứng ngồi khó thở yên
Thế nên phải biết rằng:
Chữ Ái quý báu nhất
Mà cũng độc hại nhất.
Người người cần tỉnh ngộ
Từ Vô minh Đến Tử
Là con đường tấn hóa
Địa ngục đến Niết-bàn
Từ chưa có đến có
Có vĩnh viễn tức không
Hay cũng là con đường
Bị cắt đứt giữa chừng
Chúng sanh vừa tấn hóa
Vừa thụt lùi, tan hoại!
Sự cắt đứt ấy là
Lưỡi gươm Ái suối vàng
Cũng gọi là oan nghiệt
Chỗ chôn người khổ nạn!
Lưỡi gươm Ái tòa sen
Lưỡi gươm Ái trí tuệ
Hay cụm mây, chiếc xe
Đưa chúng sanh về Phật.
An tọa vị Niết-bàn
Từ Vô minh lăn xoay
Đến Hành, Thức, Danh sắc
Lục nhập, Xúc, Thọ, Ái
Nửa chặng đường tiến hóa
Nơi ấy chia hai nẻo:
- Ái chúng sanh tiến lên
- Ái tình dục đọa xuống
.

a) Ái chúng sanh tiến lên

Từ bi và bác ái
Luôn thương người, giúp đời
Thủ giữ lấy tâm thiện
Lấy pháp thiện hộ đời
Luôn luôn hành thiện sự
Đem lợi lạc chúng sanh
Hàng ngày thực hành pháp
Phương tiện và trí tuệ
Hộ trì người vượt khổ
Sau rốt tự ly xả
Nghỉ hưu trí Niết-bàn.

b) Ái tình dục lui xuống

Quẹo bên trái, xấu, quấy
Mà chấp thủ, giữ lấy
Tham sắc tốt hữu vi
Tham tài sản của cải
Tham nhà cao cửa rộng
Tham tình tiền danh lợi
Mê ác nghiệp tội lỗi
Nghĩ mưu sâu kế độc
Chiếm đoạt lợi về mình
Gây ác báo dẫy đầy
Đến nỗi khi tử chết
Khổ điên cuồng tiêu diệt.
Vậy muốn hết luân hồi
Hết hắc ám khổ lụy
Phải tìm tòi, suy quán
Tỏ rõ nghiệp nhân duyên
Dùng trí huệ cắt đứt
Ái dục tình đời kiếp
Đam mê trói buộc mình
Nay muốn mình thoát khổ
Phải biết tự soi quán
Dẹp bóng tối vô minh
Phá tan hành sự ác
Biết tu dưỡng chính mình
Hành trì Bát Chánh đạo
Trú yên vui thiệt thọ.
Trí tuệ thì Hành thiện
Thức thiện, Danh sắc thiện
Lục nhập, Xúc, Thọ ... thiện
Ái, Thủ, Hữu ... đều thiện
Sanh , Tử luôn trọn thiện
Nhất định trú Niết-bàn.
Vô minh Hành ác
Thức, Danh sắc, Lục nhập
Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu
Sanh, Tử ... ác luân hồi
Mãi khổ báo tiêu diệt!
Trí huệ hay vô minh
Do chính ta khởi đầu
Do chính ta quyết định
Lầm lạc khổ thâm sâu!
Trí huệ - sự hiểu trắng
Sống hiền thiện, an vui
Trí huệ không Có Hành
Không Hành , đâu Có Thức
Không Thức , không Danh sắc
Không Lục nhập, Xúc, Thọ
Không Ái , không Thủ , Hữu
Không Sanh ,Tử trầm luân
Không Vô minh luân hồi!
Chúng sanh từ sống biết
Biết sợ Tử tham Sanh
Chấp Thủ - Hữu Ái
Rồi Thọ - Xúc - Lục nhập
Nương Danh sắc , Tập Thức
Bị trói Hành - Vô minh!
Giả mắt ngơ, tai điếc
Tưởng như ngu, dại, khờ
Sống dốt nát ngây ngô
Không cần biết đen trắng
Sống tạm qua ngày tháng
No bụng, sướng miệng thôi
Chẳng phân chia phải quấy
Như sâu mọt gặm nhấm
Đục phá nát cây trần.
Mười hai duyên tập khổ
Khởi phát từ Vô minh
Hay khai nguồn Trí huệ
Đều tự do chính mình!
Mỗi người tự quyết định
Thích đi lên, đi xuống
Như một cái vòng tròn
Địa ngục hay Niết-bàn
Sống khổ hay sống vui
Do chính mình lựa chọn
Cây thang mười hai nấc
Bước lên chốn thanh cao
Hay xuống nơi hố thẳm
Sống khổ, vui, còn, mất
Do chúng sanh tự quyết!

VII. Mười hai nhơn duyên pháp

Ví như một đám rừng
Có mười hai cánh cửa
Hay như một bánh xe
Có mười hai cây căm
Một cửa tức mười hai
Động một là động hết
Trong một có mười hai
Trong mười hai có một
Dính nhau như dây xích
Quấn đeo, chồng chéo nhau
Chúng sanh khi vướng vào
Mãi quanh quẩn xoay tròn
Xây xẩm và chóng mặt
Không biết phương giải thoát!
Vĩnh kiếp bị trầm luân
Nhưng nếu được hữu duyên
Sống biết thương yêu nhau
Trong cùng cảnh rối khổ
Đồng lòng chung gắn kết
Sống biết linh... học tập
Tìm cắt dây xiềng xích
Khai phá cửa địa ngục
Thoát khỏi chết an vui.
Mười hai nhơn duyên pháp
Tức mười hai cửa Đạo

Đi tới miền Địa ngục
Hay đến cảnh Thiên đường
Hay vào trong cõi Phật
Mười hai Địa ngục ác
Mười hai Thiên đường thiện
Mười hai cõi Phật huệ

Tất cả ác thiện huệ
Đều có mười hai cửa
Do chúng sanh tự chọn
Tức mười hai chứng bệnh
Xấu tốt hay mê ngộ
Có mười hai loại thuốc
Đặc trị bệnh chúng sanh
Thiện - Ác hay Tuệ giác .
Chúng ta ai cũng có
Một sở chấp, thói quen
Trong mười hai nhơn duyên
Nay muốn thoát luân hồi
Thì phải tự chính mình
Biết soi quán tự thân
Đang đọa khổ cửa nào
Thì lần ra cửa đó
Khi mê tham chìm đắm
Khi ngộ biết quay đầu
Cửa nào ra cửa đó
Tỉnh giác thoát bờ mê
Đừng tự chấp trói buộc
Bảo thủ mãi đi tới
Lỡ rồi thôi lỡ luôn
Khổ rồi đành chịu vậy
Khốn họa mãi khôn cùng!
Nắm lấy mười hai duyên
Vọng động hoài, khổ hoài
Biết buông, biết dừng lại
Nhất định được giải thoát
Khổ vui do chính mình
Tự mình - Sống biết linh!
Chúng ta nên biết rằng:
Trí huệ lưỡi gươm thần
Múa ra hay gom hiệp
Cắt đứt các khổ sầu
Diệt tiêu phiền não chướng
Trí huệ ánh lửa sáng
Dẹp tan bóng vô minh
Thiêu đốt cỏ, cây, thú
Ma, người, trời, địa ngục
Cũng như chiếc cầu cao
Đưa ta qua biển ái
Như cặp cánh đại bàng
Đưa ta vượt rừng sâu
Như đám mưa tan bụi
Như bè vớt kẻ chìm
Như mái nhà che nắng
Như ánh sáng thanh thiên.
Trí tuệ là bến giác
Cặp mắt sáng soi đời
Như mặt trời, mặt trăng
Muôn loài nương để sống
Sự sống ai cũng muốn
Niết-bàn thường lạc tịnh!
Chơn thực và vĩnh viễn
Hột sen khô để đời
Khác hơn sự sống tạm
Của chúng sanh phàm phu
Hột còn non, còn nớt
Có khi quá khổ điên
Cảnh địa ngục, vô minh
Hột sình thúi, hư rã
Chớ cái thân huyễn ảo
Còn mất có tiếc chi!
Người trí tạm nương nó
Cho hột mau già cứng.
Cái chết, ai cũng sợ
Nhưng thân chết, không mất
Chớ cái biết khổ điên
Là chết mất biệt luôn!
Nên cái biết của ta
Phải cho thật già cứng
Đừng để non, sâu thúi!
Cái khổ là con sâu
Ác gian là chất thúi

Nó ăn mòn... thức, biết
Đục khoét... chết dần dần
Cái thức biết, sự sống
Phải gìn giữ, nuôi dưỡng
Nó trường tồn miên viễn
Thật an vui định tĩnh.

VIII. Thứ lớp của nhơn duyên nơi loài người

1.Vô minh là địa ngục
Tứ đại mới hiệp thành
Cho đến khi một tuổi
(Chưa có cái biết sáng).
2. Hành : Ngạ quỷ, cây, cỏ
Từ một tới sáu tuổi
(Chỉ có thọ cảm thôi,
Đói khát và tham lam).
3. Thức : Súc sanh, thú vật
Từ sáu tới mười hai
(Tuổi chỉ có tư tưởng
Biết hơn thua, sân giận).
4. Danh sắc : A-tu-la
Mười hai tới mười tám
(Tuổi tương tợ ác thần
Có hành vi, si mê).
5. Lục nhập là nhơn, người
Mười tám tới hăm bốn
(Biết hành thiện giúp đời
Có lòng nhơn, tín, nghĩa).
6. Cảm Xúc là Thiên, Trời
Hăm bốn tới ba mươi
(Tuổi có trí, cảm xúc
Biết thân thiện, chia sẻ).
7. Thọ giữ là Nhập lưu
Ba mươi tới ba sáu
(Cư sĩ biết ưa đạo
Tu-đà-huờn tín tâm).
8. Ái là Nhứt vãng lai
Ba sáu đến bốn hai
(Tư-đà-hàm, từ ái
Biết thương sót chúng sanh).
9. Thủ là A-na-hàm
Nghĩa Bất lai, giữ đạo
Tu tinh tấn, ly xả
Quyết xuất gia, giải thoát.
10. Hữu như A-la-hán
Sống Vô sanh, an tịnh
(Bốn tám đến năm tư
Tâm tánh vững chắc thật).
11. Sanh như hạnh Duyên Giác
Bích Chi Phật trong đời
(Năm bốn đến sáu mươi
Trí tuệ, tỏ rõ pháp
Giác ngộ, sống thanh tịnh).
12. Tử như hạnh Bồ-tát
Sống Giác tha hữu tình
(Sáu mươi đến sáu sáu
Coi như mình đã chết
Vì chúng sanh phụng sự).
Sáu sáu đến bảy hai
Gọi Như Lai hưu trí
An trụ tánh chơn như.
Qua khỏi bảy mươi hai
Là Niết-bàn trọn vẹn
Đạo đời dừng tắt nghỉ
Bất sanh và bất diệt
Tất cả là nhơn duyên
Từng trình độ pháp tiến
Theo tuổi tác đời người
Ai sống y như thế
Là biết tu - đắc đạo
Kết quả trong một kiếp
Nhất định chẳng sai ngoa!
Muốn biết rõ cách tu
Của từng hạng bậc ấy
Ta cần học giới luật
Giới luật là nền tảng
Cội gốc của chúng sanh
Riêng nơi Chơn lý này
Ta cần biết nguồn gốc
Nhơn duyên Tập trước đã!
Quan trọng nhất chữ ái
Chia ngã rẽ hai đường
Người đứng trên chữ Ái
Là chư Phật, chư Tổ
Người đứng dưới chữ Ái
Là chúng sanh phàm phu

Điều đó đáng lưu ý
Cho chúng ta thận trọng
Tự chọn, quyết cho mình
Phật - Tổ hay ngu phu
Tự mình quyết, mình chọn.

IX. Nhơn và Quả của Mười hai nhơn duyên

1. Vô minh cộng với Hành
Là nhơn duyên quá khứ
2. Thức, Danh sắc, Lục nhập
Là quả báo hiện tại
3. Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu
Là nhơn duyên hiện tại
4. Sự Sanh - Tử cuộc sống
Là quả báo vị lai.
Chúng sanh nhiều đời kiếp
Do Vô minh , Hành ác
Gây nhơn duyên nghiệp chướng
Nên mới phải nhập thai
Sanh Thức Danh sắc
Lục nhập quả hiện tại
Có thân hình đời này
Bởi có thân hình này
Mới có Xúc , Thọ , Ái
Tánh Thủ , Hữu đang có
Tiếp gây nhơn hiện tại
Chịu quả Sanh - Tử sau
Quả vị lai khổ não!
*Muốn không quả vị lai
Sanh - Tử khổ thì nhớ
Đừng có nhơn hiện tại
Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu.
*Muốn không nhơn hiện tại
Phải không quả hiện tại
Thức, Danh sắc, Lục nhập
(Thì không quả vị lai).
*Muốn không quả hiện tại
Phải trừ nhơn quá khứ:
Vô minh và Hành ác
Đã là nhơn quá khứ
Làm sao dứt trừ được
Âu là ta hôm nay
Muốn sau này không khổ
Không Sanh Tử - Vô minh
Thì đời này phải nhớ
Cố tu tập trí huệ
Tập hành thiện, bỏ ác
Thì mới mong có được
Dòng luân hồi đời sau
Đời sống được sáng trưng
Dứt sanh tử khổ quả
Dừng nghỉ Niết-bàn vui!
Không còn tám vạn chướng
An hưởng tám vạn vui
Giác ngộ chơn như đạo
Tuyệt dứt sanh tử báo
Dòng luân hồi vắng lặng
Phật Như Lai tịch tịnh!
Phật Như Lai hạo nhiên!
Tổ sư Minh Đăng Quang giảng luận
Sa-môn Giác Toàn diễn kệ
(Pháp viện Minh Đăng Quang, 22-4-Canh Tý – 2020)




DANH MỤC - CHƠN LÝ KHẤT SĨ

1. Vũ Trụ Quan 21. Chánh Pháp 41. Phật Tánh
2. Ngũ Uẩn 22. Chánh Kiến 42. Học Để Tu
3. Lục Căn 23. Tam Giáo 43. Đạo Phật
4. Thập Nhị Nhân Duyên 24. Tông Giáo 44. Tu Và Nghiệp
5. Bát Chánh Đạo 25. Thần Mật 45. Pháp Tạng
6. Có Và Không 26. Giác Ngộ 46. Vô Lượng Cam Lộ
7. Sanh Và Tử 27. Khuyến Tu 47. Quan Thế Âm
8. Nam Và Nữ 28. Đi Tu 48. Đại Thái Thức
9. Chánh Đẳng Chánh Giác 29. Ăn Và Sống 49. Địa Tạng
10. Công Lý Vũ Trụ 30. Chư Phật 50. Pháp Hoa
11.Khất Sĩ 31. Hạt Giống 51. Thờ Phượng
12. Y Bát Chơn Truyền 32. Sợ Tội Lỗi 52. Pháp Chánh Giác
13. Ăn Chay 33. Trường Đạo Lý 53. Số Tức Quan
14. Nhập Định 34. Nguồn Đạo Lý 54. Sám Hối
15. Bài Học Cư Sĩ 35. Con Sư Tử 55. Chơn Như
16. Cư Sĩ 36. Đi Học 56. Hòa Bình
17. Tâm 37. Đời Đạo Đức 57. Lễ Giáo
18. Tánh Thủy 38. Đại Thừa Giáo 58. Đạo Phật Khất Sĩ
19. Học Chơn Lý 39. Xứ Thiên Đường 59. Khổ Và Vui
20. Trên Mặt Nước 40. Vị Hung Thân 60. Pháp Học Cư Sĩ

Post a Comment

Cảm ơn Đạo Hữu đã đóng góp. Chúc Đạo Hữu một ngày an lạc! A Di Đà Phật