Kinh Kim Cang Tam Muội

Kinh Kim Cang Tam Muội


Kinh Kim Cang Tam Muội

Thất dịch
Bản Việt dịch của Thích Thái Hòa
***

Phẩm thứ nhất: Tựa

Tôi nghe như vậy:
Một thời, Đức Phật ở tại thành Vương-xá, trong núi Kỳ-xà-quật, cùng với Đại chúng tỳ kheo, hiện diện một vạn người, đều là những bậc đắc đạo quả A-la-hán. Tên của những vị ấy như: Tôn giả Xá-lợi-phất, Đại-mục-kiền-liên, Tu-bồ-đề,… chúng như vậy đều là những bậc A-la-hán.
Lại có hai ngàn vị Bồ tát đại sĩ cũng đều có mặt. Tên của những vị Bồ tát ấy là: Bồ tát Giải Thoát, Bồ tát Tâm Vương, Bồ tát Vô Trú,…
Lại có tám vạn vị Trưởng giả cũng đồng có mặt. Tên của những vị Trưởng giả ấy là: Phạm Hạnh, Đại Phạm Hạnh, Thọ Đề,…
Lại có Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân và phi nhân,… sáu mươi vạn ức.
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng và vì các đại chúng, nói kinh Đại thừa tên là Nhất vị Chân thật, Vô tướng Vô sinh, Quyết định Thực tế, Bổn giác Lợi hành.
Nếu người nào nghe kinh này, cho đến chỉ thọ trì một bài kệ bốn câu, thì người ấy sẽ đi vào địa vị trí tuệ của bậc Toàn giác, có thể sử dụng phương tiện để giáo hóa chúng sanh, vì tất cả chúng sanh làm vị Đại tri thức.
Đức Phật nói kinh này xong, Ngài ngồi kiết già, tức thì vào Tam muội Kim cang, thân tâm bất động.
Bấy giờ, trong chúng có một Tỳ-kheo, tên là A-già-đà, từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ gối, chắp tay muốn lặp lại ý nghĩa này, nên nói bài kệ rằng:

Thế Tôn đủ đại Từ
trí tuệ thông, không ngại
vì rộng độ chúng sanh
nói chân lý cùng tột.
Đều dùng Đạo một vị
trọn không dùng Tiểu thừa
vị xứ nghĩa được nói
lìa xa nghĩa bất thật.
Vào vị trí tuệ Phật
quyết định cõi chân thật
người nghe vượt thế gian
không ai không giải thoát.
Các Bồ tát vô lượng
đều hóa độ chúng sanh
vì chúng, hỏi rộng sâu
biết pháp tướng vắng lặng.
Đi vào nơi quyết định
phương tiện trí Như Lai
sẽ nói vào chân thật
đều tùy thuận Nhất thừa.
Không mùi vị xen tạp
ví như một trận mưa
các cỏ đều tươi tốt
dù căn tánh khác nhau.
Thấm nhuần một pháp vị
tất cả đều sung mãn
như trận mưa pháp kia
mầm Bồ đề tăng trưởng.
Vào Tam muội Kim cang
chứng pháp định chân thật
quyết định dứt nghi hối
một ấn pháp thành tựu.
*
Chú giải

Chú Giải

– Đức Phật giảng kinh này tại núi Kỳ-xà- quật, thuộc thành Vương-xá, nước Ma-kiệt-đà, ngày nay thuộc bang Bihar, miền Trung Ấn Độ.
– Kỳ-xà-quật: 
  • Phạn: Grdhrakūta. 
  • Pāli: Gijjha-kuta. 
  • Hán: phiên âm Kỳ-xà-quật 
  • và dịch là Linh sơn, Thứu sơn, Thứu lãnh, Thứu đầu. Ở đỉnh núi có hình tướng giống như đầu chim Thứu, nên gọi là Linh Thứu. Lúc bấy giờ núi này cũng có nhiều chim Thứu đến đậu, nên cũng gọi là núi Linh Thứu. Loại chim này cánh hơi đen, đầu màu tro, ít lông, thích ăn xác chết, thường đậu ở nơi rừng hoang. Grdhra, nghĩa gốc là chỉ cho kẻ tham ăn. Sau đó được sử dụng để chỉ cho chim Thứu.
Gần đỉnh núi có hang động của ngài A-nan và ngài Xá-lợi-phất và còn nền hương thất của đức Thế Tôn bằng gạch. Trên đỉnh núi này có một khoảng đất bằng, chừng 224 mét vuông.
Ở nơi đỉnh núi này, đức Phật đã từng thuyết kinh Đại phẩm Bát nhã, kinh Kim quang minh tối thắng vương, kinh Vô lượng thọ, kinh Pháp hoa…
Bấy giờ vua Bimbisāra (Tần-bà-ta-la), mở một con đường dài 3km, rộng khoảng hơn 3m để lên núi Linh Thứu nghe Phật thuyết pháp. Hai bên đường có những trạm để vua nghỉ chân và ngắm quang cảnh.
– Thành Vương-xá: 
  • Phạn: Rajagrha. 
  • Pāli: Rajagaha. 
  • Hán phiên âm Hạt-la-xà-cật-lợi-hy 
  • và dịch là Vương Xá thành, Vương Xá quốc, La Duyệt Kỳ. Thời vua Bimbisāra (Tần-bà-ta- la) trị vì, thì Rajagrha là thủ đô. Kinh thành này là một trong những Trung tâm hoằng pháp của đức Phật vào thời vua Bimbisāra (Tần-bà-ta-la) và vua Ajatasatru (A-xà-thế). Thời vua A Dục trị vì, kinh thành được dời về ở Pātaliputra (S), Pātaliputta (P), Hán phiên âm là Ba-la-lợi-phất- đa-la và dịch là Hoa thị thành. Thành này hiện nay là thành phố Patna.
– Nước Ma-kiệt-đà: 
  • Phạn Pāli: Maghada. 
  • Hán phiên âm là Ma-già-đà-quốc, Ma-kiệt-đà-quốc, Mặc-kiệt-đà-quốc, Ma-ha- đà-quốc, Ma-yết-đà-quốc… 
  • và dịch là Vô Hại quốc, nghĩa là quốc gia không có não hại; Bất Ác Xứ quốc, nghĩa là quốc gia không có chỗ xấu ác; Trí Cam Lồ Xứ quốc, nghĩa là quốc gia yên bình, nhân dân hiểu biết, cỏ cây tươi nhuận, hoa trái thơm ngọt; Thiện Thắng Xứ quốc, nghĩa là quốc gia có những điều tốt đẹp đặc biệt.
Maghada (Ma-kiệt-đà) là một trong mười sáu nước cường thịnh thời Phật, có chu vi hơn năm nghìn dặm, đất đai phì nhiêu, phong tục thuần phác, người dân phúc hậu do vua Bimbisāra (Tần-bà-ta-la) trị vì.
Maghada (Ma-kiệt-đà) có rừng Urunvela, nơi đức Phật đã từng tu khổ hạnh; có Bodhgaya (Bồ-đề-đạo-tràng), nơi đức Phật giác ngộ; có sông Nairanjana (Ni-liên-thiền), nơi đức Phật tắm, thả cái bát và phát lời thề nguyện trước khi lên ngồi thiền định ở Bồ-đề-Đạo- tràng, thành bậc Vô thượng giác; có Venuvana- vihāra (Tịnh xá Trúc Lâm) là Tịnh xá đầu tiên, do Trưởng giả Kalandaka (Ca-lan-đà) cúng dường rừng trúc, và do vua Bimbisāra (Tần-bà- ta-la) xây dựng để cúng dường đức Phật và Tăng đoàn làm chỗ an cư và thuyết giảng rất nhiều kinh điển ở Tịnh xá này; có núi Grdhrakūta (Linh Thứu), nơi đức Phật thuyết kinh Pháp Hoa, kinh Vô lượng thọ…; có ngục giam vua Bimbisāra (Tần-bà-ta-la); có nền nhà của cư sĩ Jīvaka (Kỳ-bà), vị ngự y chăm sóc sức khỏe cho đức Phật và Tăng đoàn, và cũng đã từng can ngăn vua Ajatasatru (A-xà-thế) giết mẹ, vị ngự y này cũng đã từng đưa vua Ajatasatrn đến sám hối và quy y với đức Phật; có Sapta-pama-guhā (hang Thất Diệp) nơi đức Phật đã từng thuyết Pháp và cũng là nơi kết tập kinh điển đầu tiên bằng ngôn ngữ Maghadi, do Tôn giả Ma-ha-ca-diếp triệu tập và chủ trì, sau khi đức Phật Niết bàn; có Tự viện Nālandā, nơi quê hương của Tôn giả Sariputra (Xá-lợi-phất), và cũng là nơi đức Phật đã từng đến lưu trú và thuyết pháp ba tháng, khi Ngài còn tại thế. về sau, Tự viện Nālandā trở thành Đại học Phật giáo đầu tiên mang tầm cỡ quốc tế và đã bị Hồi giáo hủy diệt vào cuối thế kỷ XII;…
Như vậy, Maghada (Ma-kiệt-đà) là nơi có nhiều thánh tích Phật giáo nhất, ngày nay thuộc tiểu bang Bihar, Ấn Độ.
– Nhất vị: 
  • Phạn: Eka-rasa; Vimukty- eka-rasatā. 
  • Nghĩa là một mùi vị. Giáo pháp do đức Phật chứng ngộ và giảng dạy chỉ có một mùi vị duy nhất là mùi vị giải thoát. Hiện tượng và bản thể của mọi sự hiện hữu, chỉ có một mùi vị duy nhất là chân thật bình đẳng. Nên, gọi là nhất vị chân thật.
– Vô tướng: 
  • Phạn: Animitta. 
  • Nghĩa là không có hình tướng. Hết thảy muôn vật đều không có tướng nhất định. Vì muôn vật do quan hệ nhân duyên mà sinh khởi, nên vô thường và muôn vật do quan hệ nhân duyên mà sinh khởi, nên bản thể của chúng là không, vô ngã tính hay vô tự tính. Các tướng từ nơi không, nơi vô ngã tính hay từ nơi vô tự tính mà biểu hiện qua sự quan hệ nhân duyên đều gọi là vô tướng.
– Vô sanh: 
  • Vô sanh là chỉ cho tánh- không nơi muôn vật. Tánh ấy nơi muôn vật là không sanh diệt, nên gọi là vô sanh. Niết bàn cũng gọi là vô sanh, vì tâm không còn bị hết thảy các loại phiền não sanh diệt chi phối. Niết bàn là tâm vắng lặng tuyệt đối, vì nơi tâm ấy phiền não hoàn toàn vắng bặt không có sanh khởi, nên Niết bàn gọi là vô sanh, mà cũng gọi là vô tướng và cũng gọi là tánh không.
– Quyết định thực tế: 
  • Quyết định là chắc chắn không thay đổi. Thực tế là chỗ tột cùng của chân lý hay còn gọi là sự thật tuyệt đối. Sự thật tuyệt đối là Niết bàn hay lý thể của chân như. Quyết định thực tế là Niết bàn tuyệt đối, không còn có sự quan hệ đối đãi, sinh diệt biến dị. Nên, quyết định thực tế cũng chính là vô tướng, vô sanh.
– Bổn giác: 
  • Bổn giác là chỉ cho Phật tính. 
  • Nghĩa là tính giác ngộ vốn có nơi tất cả chúng sanh. Bản tính ấy xưa nay vốn như vậy, tại phàm không giảm, tại thánh không tăng; không phải do tu mà được, không phải do không tu mà mất. Nó bản nhiên, độc tồn như thị. Phiền não nơi tâm lắng yên, thì tính Phật hiển bày. Cũng như nước lắng yên, thì ánh trăng tự chiếu.
– Lợi hành: Lợi hành là do dựa vào bản giác mà phát tâm tu tập, khiến tâm nhiễm ô, do phiền não huân tập nơi tâm từ từ bị xóa dần, làm cho tánh giác vốn có nơi tâm càng lúc càng sáng ra, những nhận thức mê lầm do tâm càng lúc càng chuyển hóa, trí tánh nơi tâm càng lúc càng thanh tịnh, khiến bản giác hay Phật tính càng lúc càng hiện ra cùng khắp nơi tâm. Và ngay nơi tâm bổn giác ấy mà khởi vận từ bi, tương ứng với căn khí, nghiệp chủng của chúng sanh để làm lợi ích cho hết thảy chúng sanh đưa hết thảy đến chỗ an lạc một cách tự nhiên, liên tục không gián đoạn, nên gọi là bản giác lợi hành.
*

Chủ yếu

Phẩm tựa của kinh này là giới thiệu thời điểm, xứ sở đức Phật thuyết kinh; Thành phần hội chúng nghe đức Phật thuyết kinh. Nội dung chủ yếu của phẩm này là đức Phật muốn phát khởi tín tâm thanh tịnh cho thính chúng đối với diệu pháp nhất thừa, nhất vị. Nhất thừa là cỗ xe chuyển vận đến địa vị giác ngộ duy nhất là Phật quả. Nhất vị là vị giải thoát của Niết bàn tối thượng. Vị giải thoát ấy, do đoạn tận Khổ đế và Tập đế đem lại.
***

Phẩm thứ hai: Pháp Vô Tướng

Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn, từ thiền định đứng dậy, nói với Đại chúng rằng:
Đi vào pháp tướng chân thật bằng phẩm vị trí tuệ của chư Phật, do bản tính quyết định. Phương tiện thần thông đều lợi ích vô tướng. Nghĩa rốt ráo giác ngộ duy nhất khó hiểu, khó vào. Đối với những hàng Nhị thừa không thể thấy biết, chỉ có Bồ tát và Phật mới hiểu cùng tận nghĩa ấy, nên nói một pháp vị để hóa độ chúng sanh.

Bấy giờ, Bồ tát Giải Thoát từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ gối, chắp tay, bạch Phật rằng: Nếu sau khi Ngài diệt độ, ở trong thời kiếp mạt, chánh pháp đi qua, tượng pháp trụ thế, chúng sanh ở trong năm sự vẩn đục, ác nghiệp phần nhiều, luân hồi ba cõi, không có kỳ hạn ra khỏi. Nguyện xin Phật từ bi, vì chúng sanh đời sau nói về pháp vị duy nhất, quyết định chân thật, khiến cho những chúng sanh đời sau ấy, đều được giải thoát.

Đức Phật dạy rằng:
Này thiện nam tử!

Ông có thể hỏi nguyên nhân ra đời của ta là muốn giáo hóa chúng sanh, khiến cho họ được quả vị xuất thế, ấy là một việc lớn không thể nghĩ bàn, vì do tâm đại từ và tâm đại bi, nếu ta không nói liền rơi vào xan tham. Vậy, quý vị hãy lắng lòng nghe, tôi sẽ vì quý vị mà tuyên thuyết.

Này thiện nam tử!

Nếu dùng tâm vô sanh mà hóa độ chúng sanh nơi huyễn hóa và không có chúng sanh nào là không hóa độ, thì sự hóa độ ấy rất là lớn, khiến cho những chúng sanh ấy đều xa lìa vọng tâm và ngã. Tất cả tâm và ngã xưa nay đều rỗng lặng. Nếu đạt được tâm rỗng lặng, thì tâm ấy không phải là huyễn hóa. Không huyễn, không hóa là được vô sanh. Tâm vô sanh ngay ở nơi không huyễn hóa.

Bồ tát Giải Thoát, bạch đức Phật rằng:
Bạch đức Thế Tôn!
Tâm tánh của chúng sanh vốn rỗng lặng, tâm vốn rỗng lặng, bản thể không có sắc tướng, vậy lấy gì tu tập để được bản tâm rỗng lặng ấy? Xin Ngài thương xót, vì con mà diễn nói.

Đức Phật dạy:
Này Bồ tát! Tất cả tướng của tâm, xưa nay không có nguồn gốc, vốn rỗng lặng, vô sanh, không có nguồn gốc và xứ sở. Nếu tâm vô sanh là ngay đó mà vào rỗng lặng. Cõi tâm rỗng lặng, chính đó là đạt tâm không.
Này thiện nam tử!
Tâm không có hình tướng. Không có hình tướng của tâm, không có hình tướng của ngã. Hình tướng của tất cả pháp cũng đều như vậy.

Bồ tát Giải Thoát, bạch đức Phật rằng:
Bạch đức Thế Tôn!
Tất cả chúng sanh, nếu cho rằng có tướng của ngã, có tướng của tâm, thì sử dụng pháp gì để giác ngộ cho họ, khiến họ ra khỏi những sự trói buộc ấy?

Đức Phật dạy:
Này thiện nam tử!
Nếu người nào cho rằng có ngã, thì hướng dẫn cho họ quán chiếu mười hai nhân duyên. Mười hai nhân duyên vốn từ nơi nhân quả; và từ những chủng tử vận hành nơi tâm mà nhân quả được hưng khởi. Tâm còn không có thực, huống nữa là có thân.
Nếu có người nào chấp hữu ngã, thì hướng dẫn cho họ vắng lặng ngay nơi kiến chấp hữu. Nếu có người nào chấp vô ngã, thì hướng dẫn cho họ vắng lặng ngay nơi kiến chấp vô.
Nếu có người nào chấp tâm sanh, thì hướng dẫn cho họ vắng lặng ngay nơi tự tánh tịch diệt. Nếu có người nào chấp sự tịch diệt của tâm, thì hướng dẫn cho họ vắng lặng ngay nơi bản tánh sanh, vắng lặng là thấy tánh, chính đó là hội nhập thực tế. Vì sao? Vì sinh vốn không diệt; vì diệt vốn không sinh. Không diệt, không sinh; không sinh, không diệt, hết thảy pháp cũng đều như vậy.

Bồ tát Giải Thoát, bạch đức Phật rằng:
Bạch đức Thế Tôn!
Nếu có chúng sanh, khi thấy pháp có sinh, thì nên hướng dẫn cho họ diệt trừ kiến chấp nào và khi thấy pháp có diệt, thì nên hướng dẫn cho họ diệt trừ kiến chấp nào?

Đức Phật dạy:
Này Bồ tát! Nếu có chúng sanh, khi thấy pháp có sanh, thì nên hướng dẫn cho họ diệt trừ những kiến chấp đối với vô; nếu khi họ thấy pháp có diệt, thì nên hướng dẫn cho họ diệt trừ những kiến chấp đối với hữu. Nếu diệt trừ những kiến chấp ấy, sẽ chứng đắc pháp chân không, hội nhập thể tính quyết định và vô sanh quyết định.

Bồ tát Giải Thoát, bạch đức Phật rằng:
Bạch đức Thế Tôn!
Hướng dẫn cho chúng sanh ấy an trú ở nơi vô sanh là vô sanh chăng?

Đức Phật dạy:
Mắc kẹt ở nơi vô sanh, chính đó là hữu sanh. Vì sao? Vì không mắc kẹt nơi vô sanh mới là vô sanh. Bồ tát, nếu sinh khởi ý niệm vô sanh là do từ ý niệm sanh diệt mà sinh khởi. Cả ý niệm sinh và ý niệm diệt đều vắng lặng, nên vốn sinh mà vô sinh. Tâm thường rỗng lặng, tính-không vốn không mắc kẹt. Tâm không mắc kẹt gọi là vô sinh.

Bồ tát Giải Thoát, bạch đức Phật rằng:
Bạch đức Thế Tôn!
Tâm không có mắc kẹt thì có gì phải tu học? Có gì là hữu học và vô học?

Đức Phật dạy:
Này Bồ tát! Tâm là vô sanh, tâm chẳng vào hay ra. Bản tánh vắng lặng, kho tàng Như Lai không lay động, cũng không phải hữu học, cũng không phải vô học; không có học nào là không học, chính đó là vô học; không phải không có học, đó là sở học.

Bồ tát Giải Thoát, bạch đức Phật rằng:
Bạch đức Thế Tôn!
Thế nào là bản tính vắng lặng, kho tàng Như Lai không lay động?

Đức Phật dạy:
Chiêm nghiệm về tướng sanh diệt nơi kho tàng Như Lai, lý tánh ẩn sâu không biểu hiện. Lý tánh vắng lặng, không lay động ấy là kho tàng của Như Lai.

Bồ tát Giải Thoát, bạch đức Phật rằng:
Bạch đức Thế Tôn!
Thế nào là chiêm nghiệm về tướng sanh diệt?

Đức Phật dạy:
Này Bồ tát! Lý tánh không thể chiêm nghiệm chăng? Hoặc lý tánh có thể chiêm nghiệm chăng? Nếu có thể, liền sanh khởi các niệm, khởi ngàn suy, vạn xét, ấy là tướng sinh diệt. Bồ tát quán chiếu bản tánh, tự nó đầy đủ cả lý tánh và sự tướng. Ngàn suy, vạn xét đối với đạo lý không ích lợi gì. Chỉ làm theo động loạn, mất gốc rễ tâm vương. Nếu không chiêm nghiệm, thì không sanh diệt. Thực tế chân như không sinh khởi, các thức an tĩnh, vắng lặng, dòng chảy không sanh, được năm pháp thanh tịnh, gọi là Đại thừa. Bồ tát chứng nhập năm pháp thanh tịnh, tâm chính không vọng. Nếu tâm không có vọng niệm là đi vào địa vị Thánh trí tự giác của Như lai. Người nào đi vào địa vị Thánh trí tự giác ấy, người đó biết rõ ràng, tất cả từ nơi căn bản bất sanh. Biết căn bản là bất sanh thì không có vọng tưởng.

Bồ tát Giải Thoát, bạch đức Phật rằng:
Người không có vọng tưởng, thì không cần phải đình chỉ?

Đức Phật dạy rằng:
Này Bồ tát! Vọng vốn không sanh, không vọng lấy gì đình chỉ. Biết tâm là vô tâm, đã vô tâm lấy gì ngưng lắng? Không phân cách, không biện biệt, các thức không sinh khởi hiện hành. Các thức không sanh khởi hiện hành, thì lấy cái gì mà đình chỉ? Ấy gọi là không đình chỉ mà cũng không phải là không đình chỉ. Vì sao? Vì đình chỉ vốn là không có cái gì để đình chỉ vậy.

Bồ tát Giải Thoát, bạch đức Phật rằng:
Bạch đức Thế Tôn!
Nếu đình chỉ mà không đình chỉ, thì đình chỉ chính là sanh, sao gọi là vô sanh?

Đức Phật dạy:
Này Bồ tát! Ngay đình chỉ là sanh. Còn đã đình chỉ thì vốn không phải là đình chỉ, cũng không phải mắc kẹt ở nơi không đình chỉ; cũng không phải mắc kẹt ở nơi chỗ không mắc kẹt, thì lấy cái gì gọi là sanh?

Bồ tát Giải Thoát, bạch đức Phật rằng:
Bạch đức Thế Tôn!
Tâm là vô sanh, thì có gì để thủ và xả, có pháp tướng nào để an trú?

Đức Phật dạy:
Tâm vô sanh, thì không còn thủ và xả; an trú ở nơi vô tâm, an trú ở nơi vô pháp.

Bồ tát Giải Thoát, bạch đức Phật rằng:
Bạch đức Thế Tôn!
Thế nào là an trú ở nơi vô tâm và thế nào là an trú ở nơi vô pháp?

Đức Phật dạy:
Ở nơi tâm không sanh, đó là an trú vô tâm; ở nơi pháp không sanh, đó là an trú vô pháp.
Này thiện nam tử!
Tâm và pháp không sanh, tức là không còn y chỉ, nương tựa, không vướng mắc các chủng tử tâm hành, tâm thường vắng lặng, không còn khởi niệm tưởng nào khác. Ví như hư không kia, không chuyển động, không dừng lại, không khởi hiện, không tạo tác, không bên này, không bên kia. Được tâm nhãn không, được thân pháp không. Năm ấm, sáu nhập thảy đều vắng lặng.
Này thiện nam tử!
Người tu tập pháp không, không dựa ba cõi, không kẹt giới tướng, thanh tịnh vô niệm, không thâu nhiếp, không phóng xả, Kim cang tính bình đẳng, không hoại Tam bảo, tâm rỗng lặng, không lay động, đầy đủ sáu Ba-la-mật.

Bồ tát Giải Thoát, bạch đức Phật rằng:
Bạch đức Thế Tôn!
Sáu Ba-la-mật đều là hữu tướng, pháp hữu tướng có thể xuất thế chăng?

Đức Phật dạy:
Này thiện nam tử! Sáu pháp Ba-la-mật được nói bởi Như lai là vô tướng, vô vi. Vì sao? Nếu người ly dục, tâm thường thanh tịnh, dùng phương tiện nói lời chân thực để lợi mình, lợi người là Bố thí Ba-la-mật. Chí niệm kiên cố, tâm thường không kẹt, thanh tịnh không nhiễm, không vướng mắc ba cõi là Trì giới Ba la mật. Tu tập không quán, đoạn trừ kiết sử, không dựa các pháp hữu lậu, ba nghiệp thanh tịnh, thân tâm không kẹt là Nhẫn nhục Ba-la-mật. Xa lìa danh số, dứt hẳn kiến chấp có và không, thâm nhập tính-không của năm uẩn là Tinh tấn Ba-la-mật. Rỗng lặng đều lìa, chẳng kẹt các không, tâm ở vô trú, chẳng kẹt đại-không là Thiền định Ba-la-mật. Tâm không có tướng của tâm, hư không không thủ trước, không sinh khởi các hành, tịch diệt không chứng đắc, tâm không có xuất và nhập, tự tính thường bình đẳng, thực tế của các pháp, thể tính đều quyết định, không dựa vào các địa vị, trí tuệ không vướng mắc là Bát nhã Ba-la-mật.
Này thiện nam tử!
Sáu ba-la-mật này, đều đạt được lợi hành từ bản nguyện, chứng nhập tính quyết định, siêu nhiên xuất thế, giải thoát vô ngại.
Này thiện nam tử!
Tướng của pháp giải thoát như vậy, đều là từ thực hành vô tướng, cũng không có giải thoát nào là không giải, nên gọi là giải thoát. Vì sao? Vì tướng của giải thoát là vô tướng, vô hành, không động, không loạn, Niết bàn, tịch tịnh, tướng Niết bàn cũng không thể chấp thủ.

Bồ tát Giải Thoát nghe đức Phật dạy xong, tâm rất vui mừng được điều chưa từng có, muốn tuyên lại ý nghĩa mà nói kệ rằng:
Thế Tôn đủ Đại giác
vì chúng sanh nói pháp
đều nói nơi Nhất thừa
không có đạo Nhị thừa.
Vô tướng một vị lợi
như hư không rộng lớn
không gì không dung chứa
tùy căn tánh khác nhau.
Đều được nơi chỗ gốc
lìa vọng tâm ngã ấy
nhất pháp được thành tựu
các hành, có đồng, khác,
ắt được lợi bản nguyên
bặt dứt thấy nhị tướng
cảnh Niết bàn vắng lặng
cũng không kẹt chứng đắc,
vào nơi chỗ quyết định
không tướng, không có hành
tâm rỗng, cõi vắng lặng
tâm vắng lặng, không sanh,
đồng bản tính Kim cang
không hoại nơi Tam bảo
đủ sáu Ba la mật
độ hết thảy chúng sanh.
Siêu nhiên vượt ba cõi
đều không dùng Tiểu thừa
pháp ấn của một vị
nhất thừa được thành tựu.
Bấy giờ, Đại chúng nghe ý nghĩa này rồi, tâm rất vui mừng, lìa được tâm chấp ngã, hội nhập Không, Vô tướng, mở ra nẻo rộng lớn, đều được tính quyết định, đoạn trừ phiền não, hết lậu hoặc.
*
Chú giải

Chú Giải

-Vô tướng pháp: 
  • Pháp vốn không có hình tướng. 
  • Nghĩa là hết thảy pháp đều do quan hệ nhân duyên mà sinh khởi, nên tự tánh của các pháp vốn rỗng lặng, không có tự thể. Tự thể của các pháp vốn rỗng lặng, vô thể. Chúng tùy duyên mà biểu hiện, không có phương sở, không có hình tướng nhất định, nên gọi là pháp vô tướng.
Pháp vô tướng mà kinh này đề cập là tự tâm chân như. Tự tâm chân như, tùy duyên mà biểu hiện, nhưng tính chân như ấy, không hề biến thể theo duyên, nên gọi là chân như tính. Tính ấy không có phương sở, không có sinh diệt, không có lai khứ, không có tướng trạng, nên gọi là pháp chân như vô tướng.
– Nhị thừa: 
  • Thừa là cỗ xe. 
  • Nhị thừa là hai cỗ xe. Giáo pháp do đức Phật giảng dạy, ví như cỗ xe có khả năng chuyên chở người hành trì đi từ mê lầm đến giác ngộ; đi từ phàm phu đến bậc thánh trí; đi từ khổ đau đến an lac và đi từ sanh tử đến Niết bàn.
Hai cỗ xe gồm: Thanh văn thừa Duyên giác thừa. 
  • Thanh văn thừa, là giáo pháp đức Phật giảng dạy có năng lực chuyển tải hàng Thanh văn đến chỗ giác ngộ. Nội dung của giáo pháp ấy là Tứ diệu đế. Hàng đệ tử do trực tiếp nghe đức Phật giảng về Tứ diệu đế rồi thực hành và đi đến giác ngộ, nên gọi là Thanh văn thừa. 
  • Duyên giác thừa, Bồ tát thừa cũng thiết lập trên nền tảng Tứ diệu đế, nhưng với một cách nhìn rộng và sâu hơn từ tuệ giác duyên khởi, vô tướng và vô sanh.
Duyên giác thừa là những vị sinh ra không gặp Phật, không trực tiếp nghe Phật thuyết pháp, nhưng tự mình quán chiếu lý mười hai duyên khởi, khiến dẫn sinh đến đời sống giác ngộ, nên gọi là Duyên giác thừa.
– Chánh pháp, Tượng pháp và Mạt pháp: Giáo pháp của đức Phật được các nhà Phật học chia ra làm ba thời kỳ gồm Chánh pháp, Tượng pháp và Mạt pháp.
  • Chánh pháp: Tiếng Phạn là Saddharma. Trong khi đức Phật tại thế và sau khi Ngài diệt độ, mọi người nghe giáo pháp và y vào giáo pháp của Ngài giảng dạy để thực hành là liền có sự giải thoát và an lạc ngay trong hiện thế, ấy gọi là thời kỳ Chánh pháp.
  • Tượng pháp: Tiếng Phạn là Saddharma- pratirūpaka. Sau khi đức Phật diệt độ, tuy có giáo pháp và cũng có người tu hành, tương tự như thời Chánh pháp, nhưng sự chứng quả giải thoát không bằng thời kỳ Chánh pháp, nên gọi là thời kỳ Tượng pháp.
  • Mạt pháp: Tiếng Phạn là Saddharma- vipraloba. Giáo pháp của đức Phật ở vào thời kỳ bị biến dạng khá nhiều, nên có nhiều người tu mà ít người chứng ngộ.
Các nhà Phật học phân chia thời kỳ Chánh pháp, Tượng pháp, Mạt pháp có nhiều cách nhìn khác nhau. Ở đây không phiền trích dẫn.
– Năm sự vẩn đục: Hán gọi là ngũ trược. Gồm:
  • 1- Kiếp trược (Kalpa-kasāya). Thời kỳ kiếp sống con người bị tổn giảm. Nghĩa là tuổi thọ con người từ một trăm tuổi giảm dần đến ba mươi tuổi, thì nạn đói kém xảy ra; giảm xuống hai mươi tuổi, thì nạn tật dịch xảy ra và giảm đến còn mười tuổi, thì nạn binh đao nổi dậy và bấy giờ hết thảy chúng sanh ở vào thời kỳ này đều bị thiệt hại.
  • 2- Kiến trược (Drsti-kasaya): Sự vẩn đục về hiểu biết. Thời kỳ Chánh pháp đi qua, thời kỳ Tượng pháp xuất hiện, tà kiến cũng phát triển theo, khiến người tu tập không hiểu rõ giáo pháp để hành trì, khiến có tu tập mà ít chứng ngộ.
  • 3- Phiền não trược (Klesa-kasãya): Tâm chúng sanh bị vẩn đục do phiền não.
  • 4- Chúng sanh trược (Sattva-kasãya): Chúng sanh đối xử với nhau, bằng những nhận thức sai lầm và tâm ý vẩn đục.
  • 5- Mạng trược (Ãyu-kasãya): Đời sống nuôi dưỡng bằng tà mạng và mạng sống ngắn ngủi.
– Ba cõi: Hán gọi là Tam giới (Trayo-dhãtavah), gồm: Dục giới, sắc giới, Vô Sắc giới.
  • 1- Dục giới (Kama-dhātu): Thế giới được hình thành từ tính dục của chúng sanh, nên gọi là Dục giới. Phạm vi của Dục giới, trên từ cõi trời Tha-hóa-tự-tại, dưới đến địa ngục A-tỳ.
  • 2- Sắc giới (Rūpa-dhātu): sắc hay rūpa, có nghĩa là đối ngại, sắc giới là thế giới cư trú của những loài chúng sanh không sinh ra từ tính dục mà hóa sinh từ sắc thể thanh tịnh do thiền định tạo nên. Tuy ly dục thanh tịnh, nhưng vẫn còn sắc thể thanh tịnh làm đối ngại, nên gọi sắc giới, sắc giới có 18 cõi trời, được hình thành do khả năng thiền định sâu cạn của những chúng sanh ở cõi này tạo nên.
  • 3- Vô sắc giới (Ārūpya-dhātu): Thế giới cư trú của những loài chúng sanh, không sinh hoạt theo sắc uẩn mà sinh hoạt theo thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn, nên gọi là Vô sắc giới. Không gian của Vô sắc giới là tâm thức. Do mức độ thiền định của chúng sanh nơi cư giới của không gian tâm thức này, có sâu cạn khác nhau, nên Vô sắc giới còn có tên là Tứ không xứ, Tứ vô sắc hay Tứ không định.
– Tâm không: Hán là Không tâm. Tâm rỗng lặng, không có tự thể của ngã và pháp.
– Mười hai duyên khởi: 
  • Hán gọi là Thập nhị nhân duyên. Mười hai nhân duyên khởi sinh liên hệ với nhau trong nhân duyên, nhân quả ba đời, hỗ tương liên tục tác động lên nhau ở nơi đời sống của mỗi chúng sanh luân hồi trong ba cõi.
– Mười hai nhân duyên gồm: 
  1. Vô minh: Không sáng suốt. 
  2. Hành: Ý chí tác nghiệp và chủng tử vận hành ở trong tâm thức. 
  3. Thức: Nơi cất chứa chủng tử và là nơi mà các nhận thức dựa vào để biểu hiện. 
  4. Danh sắc: Danh là tâm và sắc là vật chất. Danh sắc là nơi tập hợp của tinh thần và vật chất. 
  5. Lục nhập: Sáu quan năng gồm: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, tiếp xúc với sáu ngoại cảnh gồm: sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp làm duyên cho sáu nhận thức gồm: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức biểu hiện. 
  6. Xúc: Nơi tiếp xúc giữa sáu quan năng gồm: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý và sáu đối tượng gồm: sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. 
  7. Thọ: Thọ là tiếp nhận. 
  8. Ái: Ưa thích, khát thèm, kiếm tìm. 
  9. Thủ: Bám lấy. 
  10. Hữu: Tồn tại, tạo thành, trở thành. 
  11. Sanh: Biểu hiện, sanh khởi. 
  12. Lão tử: Già chết.
Mười hai nhân duyên này tương tác với nhau, gắn kết với nhau tạo thành nhân quả ba đời của mọi hữu tình luân hồi trong ba cõi. Các bậc Duyên giác, giác ngộ được lý mười hai duyên khởi này, do thiền định nhiếp phục vô minh và hành, thuộc tác nhân của quá khứ cũng như nhiếp phục và chặt đứt ái, thủ, hữu tác nhân của hiện tại, nên các Ngài chấm dứt được sanh tử khổ đau trong tương lai.
Bồ tát, do quán chiếu duyên khởi, thấy rõ lý vô tướng, vô sanh ngay nơi các pháp duyên khởi, nên vọng tưởng đoạn trừ, vô minh dứt sạch, ngã chấp và pháp chấp không còn, khiến các Ngài thong dong giữa sống và chết để hành đạo độ đời với tâm vô sanh, với hành vô tướng.

– Chấp hữu: Chấp năm uẩn là thật có, gọi là chấp hữu. Nhưng thực tế năm uẩn không phải thật có mà chỉ giả hữu.
– Chấp vô: Chấp năm uẩn đoạn diệt, gọi là chấp vô. Nhưng thực tế năm uẩn không phải đoạn diệt mà tương tục sinh diệt, do quan hệ và tác động hỗ tương giữa nhân duyên, nhân quả.
– Năm pháp thanh tịnh: 
  • Hán: Ngũ tịnh pháp, năm pháp thuộc về Phật địa gồm: Pháp giới thanh tịnh, Đại viên kính trí, Bình đẳng tánh trí, Diệu quan sát trí, Thành sở tác trí.
  1. - Pháp giới thanh tịnh: Chỉ cho pháp thân thanh tịnh, hay bản thể chân thật bất sanh, bất diệt của chư Phật. Ấy là tự tánh chân như hay Tự tánh Như lai tạng. Pháp giới thanh tịnh là nơi nương tựa hết thảy công đức của thế gian và xuất thế gian. Theo Phật Địa Kinh Luận 3, thì thanh tịnh pháp giới là công đức chân như vô vi. Theo Thất Phật Kinh, thanh tịnh pháp giới là trí giác ngộ chân thật, biết rõ hết thảy các pháp.
  2. - Đại viên kính trí: Trí xa lìa mọi sự phân biệt; trí thấy rõ tất cả tánh và tướng của muôn pháp một cách như thực. Tánh và tướng của trí hoàn toàn thanh tịnh, hoàn toàn không tạp nhiễm, ví như tánh sáng của tấm gương lớn, soi rõ xuyên suốt mọi hiện tượng của muôn vật một cách tự nhiên. Trí này do chuyển hóa thức A-lại-da hay thức thứ tám mà thành tựu.
  3. - Bình đẳng tánh trí: Trí thấy rõ bản tính của các pháp, tự tha đều bình đẳng. Nên, khởi vận tâm đại bi cứu độ hết thảy chúng sanh một cách bình đẳng. Trí này do chuyển hóa thức Mạt-na hay thức thứ bảy mà thành tựu.
  4. - Diệu quan sát trí: Trí quán sát một cách tinh tế, mầu nhiệm đối với tự tướng và cộng tướng của vạn hữu, để ứng cơ thuyết pháp một cách vô ngại, tự tại. Trí này do chuyển hóa ý thức hay thức thứ sáu mà thành tựu.
  5. - Thành sở tác trí: Trí do chuyển hóa năm thành phần nhận thức gồm: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức và thân thức mà thành tựu. Trí có tác dụng làm lợi ích cho hết thảy chúng sanh bằng ba nghiệp thanh tịnh.
– Đại không: Không sanh, không diệt, không hữu, không vô, không thường, không đoạn, không lai, không khứ, nghĩa không cũng không, nên gọi là đại không. Đại không, không những là không mắc kẹt nơi sanh tử mà còn không mắc kẹt ở nơi Niết bàn, nên gọi là đại không. Tâm đạt đến đại không, thì ngay nơi đương xứ mà tùy duyên ứng hiện, không thủ, không xả, không đến, không đi tùy theo tâm lượng mà biểu hiện.
*

Chủ yếu

Phẩm này, đức Phật dạy về cách nhìn vô tướng đối với ngã và pháp qua tự tâm chân như. Pháp vô tướng là pháp ở nơi tự tâm chân như vô thể. Tâm ấy vốn rỗng lặng, không sanh diệt. Đây là cách nhìn theo tuệ quán bát nhã ở trong sự tỉnh giác hiện tiền. Với cách nhìn này, thì ngã và pháp chỉ là hình tướng huyễn hóa khởi hiện từ vọng tâm bất thật. An trú vào định tâm, phiền não bị thiền định nhiếp phục, khiến không còn sanh khởi, nên gọi là vô sanh, hay gọi là vô sanh pháp nhẫn. An trú vào định này là an trú vào tự tánh bất sanh, bất diệt của các pháp, khiến tâm luôn luôn ở trạng thái bất động. Tâm bất động là do tuệ an trú ở nơi tự tâm chân như vô tự thể này, nên gọi là vô sanh pháp nhẫn.
Định này có tác dụng chặt đứt mọi hình tướng huyễn hóa của ngã và pháp, từ tự tâm duyên vào vô minh mà hiện khởi.
Và từ nơi tâm vô sanh mà Bồ tát khởi vận đại bi làm lợi ích cho chúng sanh, bằng cách quán chiếu, hết thảy cảnh giới đều từ nơi vọng tâm của chúng sanh, mà biểu hiện thành mọi sắc tướng, cảm giác, tri giác, chủng tử tâm hành và mọi nhận thức sai biệt. Chúng sanh do vọng tâm duyên vào vô minh, khởi lên chấp thủ ngã và pháp, khiến cho họ bị lưu giữ ở trong huyễn cảnh luân hồi.
Bồ tát biết vậy, nên từ nơi tâm chân như vô sanh; từ nơi thực tại vô tướng, Bồ tát vận khởi đại bi, sử dụng vô số phương tiện thiện xảo, để cởi trói cho chúng sanh, đưa họ trở lại với tâm chân như vô sanh, với thực tại vô tướng hay Niết bàn tịch tịnh vậy.
Chủ yếu của phẩm này, đức Phật dạy pháp tự tâm chân như vô tướng, vô sanh và Bồ tát y vào pháp tự tâm chân như này mà hành đạo.
***

Phẩm thứ ba: Hành Vô Sanh

Bấy giờ, Bồ tát Tâm Vương nghe đức Phật nói pháp vượt khỏi ba cõi không thể nghĩ bàn, liền từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay, dùng kệ hỏi rằng:
Nghĩa được Như Lai nói
xuất thế không có tướng
có thể thảy chúng sanh
đều được sạch hữu lậu.
Tâm, ngã rỗng, hết buộc
gọi là không có sanh
sao gọi không có sanh
mà được Vô sanh nhẫn?
Bấy giờ, đức Phật bảo Bồ tát Tâm Vương rằng:
Này thiện nam tử!
Vô sanh pháp nhẫn là pháp vốn không sanh. Các hành là không sanh, chứ không phải hành là không có sanh, nên đắc Vô sanh nhẫn, chính là hư vọng.

Bồ tát Tâm Vương, bạch đức Phật rằng:
Bạch đức Thế Tôn!
Đắc Vô sanh nhẫn chính là hư vọng, thì không đắc, không nhẫn nên không phải hư vọng?

Đức Phật dạy:
Không phải vậy. Vì không đắc, không nhẫn thời là có đắc. Có đắc, có nhẫn thời là có sanh. Có sanh nơi đắc. Pháp nào có sở đắc đều là hư vọng.

Bồ tát Tâm Vương thưa:
Bạch đức Thế Tôn!
Thế nào là tâm vô sanh, vô nhẫn mà không phải là hư vọng?

Đức Phật dạy:
Tâm vô sanh, vô nhẫn là tâm không có hình tướng. Ví như bản tính của lửa, tuy ở trong gỗ, nhưng vì bản tính quyết định của nó không có xứ sở, nên chỉ có danh từ, tánh của nó không thể thủ đắc. Muốn giải thích lý của nó, chỉ nêu lên danh xưng giả định. Tướng của danh xưng đã không thể thủ đắc, thì tướng của tâm cũng vậy, không thấy xứ sở, biết tâm như thế là tâm vô sanh.
Này thiện nam tử!
Tánh và tướng của tâm ấy, lại như quả A- ma-lặc, vốn không phải tự sanh, không sanh từ cái khác, không cộng sanh, không sanh ra từ nhân, không phải vô sanh.
Vì sao? Vì do duyên thay đổi, duyên khởi không phải sanh, duyên hết chẳng phải diệt, ẩn hiện đều vô tướng, lý tính căn nguyên đều tịch diệt, không có xứ sở, không thấy chỗ trú, do tánh quyết định.
Tánh quyết định ấy, cũng không phải là đồng nhất, không phải là dị biệt, không phải là gián đoạn, không phải là thường hằng, không phải là nhập, không phải là xuất, không phải là sanh, không phải là diệt, lìa xa bốn luận chứng, dứt bặt mọi ngôn ngữ. Tánh của tâm vô sinh cũng lại như vậy.
Vì sao nói rằng, sanh mà không sanh, có nhẫn mà không nhẫn? Vì nếu có người nào thấy và nói rằng, tâm có chỗ đắc, có chỗ trú, là người không thể chứng đắc đạo quả Vô thượng bồ đề. Vì nếu là bậc trí tuệ, thì đêm ngày luôn luôn nhận rõ bản tánh của tâm. Biết tánh của tâm như vậy, tánh của vô sanh cũng như vậy, tánh của vô hành cũng như vậy.

Bồ tát Tâm Vương thưa rằng:
Bạch đức Thế Tôn!
Nếu tâm vốn như như, không sanh khởi ở nơi hành, các hành không sanh khởi vô sanh, thì hành không sanh, vô hành không sanh, gọi là hành không sanh chăng?

Đức Phật dạy:
Này thiện nam tử!
Ông dùng vô sanh để chứng minh hành vô sanh chăng?

Bồ tát Tâm Vương thưa:
Dạ không phải. Vì sao? Vì như hành vô sanh, tánh và tướng đều rỗng lặng, không thể thấy, không thể nghe, không thể được, không thể mất, không có ngôn từ, không thể nói năng, không thể tri nhận, không có tướng trạng, không nắm vào, không buông ra, thì lấy gì làm thủ chứng? Nếu có thủ chứng là có tranh luận. Không có tranh cãi, không có lý luận mới là hành vô sanh.

Đức Phật dạy:

Ông đã chứng đắc đạo quả Vô thượng Bồ đề chăng?

Bồ tát Tâm Vương thưa:
Bạch đức Thế Tôn!
Con không chứng đắc đạo quả Vô thượng Bồ đề. Vì sao? Vì trong bản tánh bồ đề không có tướng được, không có tướng mất, không có tướng giác, không có tướng tri, không có tướng phân biệt. Ở trong sự không phân biệt, chính nó là tánh thanh tịnh. Tánh ấy không có xen tạp, không có ngôn thuyết, không phải có, không phải không, không phải biết, không phải không biết. Các pháp có thể hành cũng lại như vậy.
Vì sao? Vì tất cả pháp hành, tánh quyết định không thấy được xứ sở. Nó vốn không đắc và chẳng đắc, thì làm gì có đắc đạo quả Vô thượng Bồ đề?

Đức Phật dạy:
Đúng như vậy, đúng như vậy. Đúng như lời ông nói. Tất cả tâm hành, không ngoài vô tướng, thể tính của nó vắng lặng, vô sanh. Các thức uẩn biểu hiện cũng lại như vậy. Vì sao? Vì nhãn và sự xúc tiếp của nhãn đều là rỗng lặng. Thức cũng rỗng lặng, tướng của nó không có chuyển động mà bất động. Bên trong không có ba thọ, ba thọ vắng lặng. Tai, mũi, lưỡi, thân, tâm ý, ý thức, mạt-na thức và a-lại-da thức cũng lại như vậy, đều cũng không sanh là tâm tịch diệt và tâm không sanh. Nếu tâm sanh tịch diệt; nếu tâm sanh vô sanh là hành có sanh, không phải là hành vô sanh.
Này Bồ tát! Bên trong sanh ba thọ, ba hành, ba giới, nếu tâm sanh đã vắng lặng, không có sanh, thì tâm thường vắng lặng, không có công, không có dụng, không có chứng tướng tịch diệt, cũng không có trú ở nơi vô chứng, có thể ở nơi không có trú, thâu giữ vô tướng, thì không có ba thọ, ba hành, ba giới, đều là thanh tịnh, vắng lặng không trú, vô sanh, vô hành, không vào chánh định, không kẹt tọa thiền.

Bồ tát Tâm vương thưa:
Thiền có thể nhiếp động, an định đối với các huyễn loạn, sao lại không thiền?

Đức Phật dạy:
Này Bồ tát! Thiền tức là động. Không có động, không có thiền, ấy là thiền vô sanh. Bản tánh của thiền là vô sanh, nó xa lìa tướng sanh về thiền. Tánh của thiền là vô trú, nó xa lìa cái động an trú của thiền. Nếu biết bản tánh của thiền là không có động tịnh là được vô sanh. Trí tuệ vô sanh, nó cũng không cần y trú, mà tâm vẫn không động. Vì do trí tuệ ấy, nên chứng được Bát nhã ba-la-mật-đa vô sanh.

Bồ tát Tâm Vương thưa:

Bạch đức Thế Tôn!
Trí tuệ vô sanh ở nơi tất cả xứ, vô trú ở nơi tất cả xứ. Không rời khỏi tâm, không kẹt xứ sở, không có xứ sở của tâm an trú, không có trú, không có tâm, tâm không sanh khởi trú. Trú tâm như vậy, là an trú vô sanh.
Bạch đức Thế Tôn!
Tâm an trú vô sanh là không thể nghĩ bàn. Trong sự không thể nghĩ bàn ấy là có thể nói và không thể nói.

Đức Phật dạy:
Đúng như vậy, đúng như vậy.
Bồ tát Tâm vương, nghe nói như vậy, vui mừng chưa từng có, liền nói bài kệ rằng:
Thế Tôn đủ đại trí
nói rộng pháp vô sanh
nghe điều chưa từng nghe
chưa từng nói, nay nói.
Như cam lồ thanh tịnh
lâu lâu chảy một lần
khó gặp, khó nghĩ bàn
người nghe lại càng khó.
Ruộng phước tốt bực nhất
thuốc mầu nhiệm trên hết
do vì độ chúng sanh
nên nay Phật tuyên nói.
Bấy giờ, trong đại chúng, nghe nói điều này xong, đều được vô sanh và trí tuệ vô sanh.
*
Chú giải

Chú Giải

– Tâm vô sanh: Vô sanh nghĩa là tâm không tự sanh, cũng không sanh ra từ cái khác, cũng không cùng với cái khác mà sanh ra và cũng không phải từ nơi nhân mà sanh ra, nên gọi là tâm vô sanh.
– Hành vô sanh: là vô sanh pháp nhẫn. Hành vô sanh, nghĩa là do nhiếp phục tâm đi vào thiền định, an trú kiên trì và vững chãi ở nơi tự tâm chân như, khiến các chủng tử tâm hành bị thiền định kiên trì nhiếp phục, phiền não vĩnh viễn không sanh, nên định này gọi là vô sanh pháp nhẫn. Thường trú ở trong định này, khiến cho các chủng tử tâm hành không sanh khởi trở lại nơi tự tâm, nên gọi là hành vô sanh. Hành vô sanh, nghĩa là tâm vốn nó là như. Tâm vốn là như, nên nơi tâm ấy không sinh khởi hành và hành không có chỗ để sanh khởi ở nơi tâm chơn như. Cả tâm chơn như và tất cả hành đều là không sanh và chúng đều không có sở hành, nên gọi hành không sanh.
– Vô sanh pháp nhẫn:
  • Phạn: Anutpattikadharmaksānti. An trú vào lý bất sanh diệt nơi vạn hữu, với tâm bất động, phiễn não không sanh, nên gọi là Vô sanh pháp nhẫn.
Vô sanh pháp nhẫn có ba loại:
  • 1- Bản tánh vô sanh nhẫn: Nghĩa là Bồ tát do quán sát thấy rõ bản tính của vọng chấp (biến kế sở chấp) vốn không có tự thể, vốn vô sanh.
  • 2- Tự nhiên vô sanh nhẫn: Nghĩa là Bồ tát do quán sát các pháp không do tự nhiên sanh khởi, mà sanh khởi do dựa vào nhân duyên (y tha khởi). Tuy duyên vào cái khác mà sanh khởi, nhưng bản tánh của duyên khởi là vô sanh.
  • 3- Phiền não khổ cấu vô sanh nhẫn: Nghĩa là Bồ tát do quán sát thấy rõ thực tính chân như của vạn hữu là vô vi, xưa nay vốn vắng lặng, không tạp nhiễm (viên thành thật tánh). Nên gọi phiền não khổ cấu vô sanh. (Du Già Sư Địa Luận 74, Đại Chính 30).
Ở kinh này, vô sanh pháp nhẫn chính là các chủng tử tâm hành vốn không sanh. Tâm vốn vô sanh, vì tâm không có hình tướng, không có phương sở, không có trú xứ, bản tính của tâm là vô tính, tỉnh giác, sáng trong, rỗng lặng, nên tâm vốn không sanh. Do đó, nhẫn mà không có chủ thể hay đối tượng để nhẫn, gọi là vô sanh pháp nhẫn.

– Quả A-ma-lặc:
  • Phạn: Āmala, āmlikā, amlaphala. 
  • Pāli: Āmalaka. 
  • Hán phiên âm: A- ma-lặc, A-mạt-la, Am-ma-la, Am-ma-lặc-ca 
  • và dịch là dư cam tử. 
  • Tên khoa học: Tamarindus indica. Cây quả thuộc loại đậu, cành lá giống cây hợp hoan, thực vật nhiệt đới sinh ra ở Ân Độ, Mã Lai, Phi Châu. Quả giống quả đậu, dài độ hơn mười phân tây, có vị chua, gọi là quả A- ma-lặc. Quả này có thể dùng làm thức ăn và thuốc.
*

Chủ yếu

Tự tánh của chủng tử tâm hành vốn rỗng lặng, vô sanh, nên tánh ấy không dựa vào bất cứ cái gì để sanh. Nếu dựa vào cái khác để sanh, thì hành là do duyên sanh. Nghĩa là hành, do duyên vào vô minh mà sanh, nên chúng hiện hữu như huyễn, như mộng, như bọt nước đổ dốc, như ráng chớp, như ảnh tượng trong gương.
Bản tánh của hành là rỗng lặng, vô sanh, nên tướng của hành là vô tướng. Vì tướng của hành là vô tướng, nên hành không thể dùng khái niệm để khái niệm, không thể dùng ái thủ để nắm bắt. Các sóng thức nơi tâm, không còn bị gió nghiệp duyên thổi khởi. Các sóng thức nơi biển tâm chuyển thành thánh trí. Thức tâm lắng yên thì trí hiện. Trí hiện thì thấy rõ tâm vốn vô sanh. Cũng như nước yên thì trăng hiện; nước động thì không thấy trăng. Không thấy trăng, không lỗi tại nước, không lỗi tại trăng mà do duyên nơi gió, khiến nước xao động. Gió lặng, nước yên, trăng hiện. Nên, trăng vốn vô sanh.
Cũng vậy, tâm không sanh ra hành. Hành do duyên vô minh mà sanh. Vô minh diệt, thì hành không sanh. Hành không sanh, thì tâm vắng lặng. Tâm vắng lặng, nên tâm vốn vô sanh. Tâm vô sanh là đại Niết bàn.
***

Phẩm thứ tư: Lơi ích Từ Bản Giác

Bấy giờ, Bồ tát Vô Trú được nghe đức Phật dạy Nhất vị chân thực, không thể nghĩ bàn, liền từ xa đến gần, trực tiếp bên tòa ngồi của đức Như lai, chuyên tâm nhiếp niệm lắng nghe, nhập vào xứ thanh bạch, thân tâm không biến động.

Bấy giờ, đức Phật dạy Bồ tát Vô Trú rằng:
Ông từ đâu đến? Từ xứ sở nào, nay lại đến đây?

Bồ tát Vô Trú thưa:
Bạch đức Thế Tôn!
Con vốn không từ đâu đến và nay vốn không từ xứ sở nào đến.

Đức Phật dạy:
Ông vốn không từ đâu đến và nay vốn không từ xứ sở nào đến là ông được lợi hành căn bản không thể nghĩ bàn.
Bấy giờ, các Đại Bồ tát và Đại sĩ liền phóng ánh sáng lớn, chiếu khắp cả đại thiên thế giới, rồi nói kệ rằng:

Lành thay! Bồ tát
đầy đủ trí tuệ
thường dùng bản lợi
lợi hành chúng sanh.
Nơi bốn oai nghi
thường trú bản lợi
dìu dắt muôn loài
không đến, không đi.

Bấy giờ, Bồ tát Vô Trú, bạch đức Phật rằng:
Bạch đức Thế Tôn!
Cần dùng phương pháp chuyển hóa nào để có lợi ích, mà chuyển hóa hết thảy tình thức của chúng sanh đều nhập vào tâm thức thanh tịnh?

Đức Phật dạy:
Các đấng Toàn Giác – Như Lai, thường sử dụng Nhất giác mà chuyển hóa các tình thức, nhập vào thức thanh tịnh.
Vì sao? Vì tất cả chúng sanh đều có bản giác, nên thường sử dụng Nhất giác để giác ngộ đối với các loại chúng sanh, khiến cho tất cả đều nhập được bản giác, để giác ngộ được rằng, các tình thức đều là rỗng lặng, vô sanh. Vì sao vậy? Vì bản tánh quyết định, vốn không hề có sự biến động.

Bồ tát Vô Trú thưa rằng:
Tất cả thức đều do duyên vào các đối tượng mà sinh khởi, sao gọi là bất động?

Đức Phật dạy:
Hết thảy đối tượng vốn rỗng lặng, hết thảy thức vốn rỗng lặng, tánh rỗng lặng vốn không có điều kiện, như vậy lấy điều kiện gì mà sinh khởi?

Bồ tát Vô Trú thưa:
Tất cả đối tượng vốn không, lấy gì gọi là có thấy?

Đức Phật dạy:
Thấy tức là vọng. Vì sao vậy? Vì hết thảy vạn hữu đều là vô sanh, vô tướng, chính nó đều rỗng lặng, vốn không có tên gọi. Tướng của hết thảy pháp cũng đều như vậy. Thân của hết thảy chúng sanh cũng như vậy. Thân còn không có, làm gì có cái thấy?

Bồ tát Vô Trú thưa:
Tất cả đối tượng đều rỗng lặng, tất cả thân thể đều rỗng lặng, tất cả nhận thức đều rỗng lặng, thì giác cũng phải rỗng lặng.

Đức Phật dạy:
Nhất giác là không hủy, không hoại, vì nó là tánh quyết định, nên không phải là rỗng lặng, không phải là không rỗng lặng, không có sự rỗng lặng nào là không rỗng lặng.

Bồ tát Vô Trú thưa: 
Các đối tượng cũng vậy, không phải tướng rỗng lặng, không phải tướng không rỗng lặng.

Đức Phật dạy:
Đúng như vậy. Các đối tượng ấy, tánh vốn quyết định, căn nguyên của tánh vốn quyết định, nó vốn không có xứ sở.

Bồ tát Vô Trú thưa:
Giác cũng vậy, vốn không có xứ sở.

Đức Phật dạy:
Đúng như vậy. Giác vốn thanh tịnh, không có xứ sở, nên thanh tịnh là vô giác. Muôn vật vốn thanh tịnh, không có xứ sở, nên thanh tịnh là vô sắc.

Bồ tát Vô Trú thưa:
Nhận thức của mắt và tâm ý cũng lại như vậy là không thể nghĩ bàn.

Đức Phật dạy:
Nhãn căn, tâm ý và nhận thức cũng lại như vậy là không thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì sắc vốn thanh tịnh, không có xứ sở, không có tên gọi, không có nhập vào bên trong. Nhãn căn vốn thanh tịnh, không có xứ sở, không thể nhìn thấy, không lưu xuất ở bên ngoài. Tâm ý vốn thanh tịnh, không có xứ sở, không có điểm dừng, không có chỗ khởi. Các thức vốn thanh tịnh, không có xứ sở, không có biến động, không có riêng biệt các duyên, tánh vốn rỗng lặng, tánh vốn không có giác. Giác chính là giác.
Này thiện nam tử!
Tri giác vốn không phải là giác mà do các căn hội nhập với các thức. Vì sao? Vì con đường giải thoát, ở trong thời kỳ đoạn trừ các lậu hoặc, chứng nhập địa vị Kim cang trí, các lậu hoặc đã được đoạn trừ rồi, nhập vào Vô trú địa, thì không còn có xuất hay nhập, bấy giờ xứ sở của tâm không còn ở nơi địa vị của tánh quyết định nữa, mà địa vị của nó thanh tịnh như ngọc lưu ly trong suốt, và tánh của nó thường bình đẳng như đại địa vậy.
Sự quán sát mầu nhiệm từ bản giác, ví như
ánh sáng mặt trời trí tuệ. Sự thành tựu được lợi hành từ bản giác, ví như trận mưa pháp lớn. Người nào chứng nhập được trí tuệ từ bản giác này, là chứng nhập địa vị trí tuệ của bậc Toàn giác. Bậc chứng nhập địa vị trí tuệ từ bản giác này rồi, thì các thức uẩn hoàn toàn không còn sinh khởi.

Bồ tát Vô Trú thưa:
Năng lực Thánh đạo của Nhất giác được Như Lai dạy, là bốn trí địa rộng lớn, chính nó là lợi hành từ bản giác của hết thảy chúng sanh. Vì sao? Vì chính ở trong thân này của tất cả chúng sanh xưa nay vốn đầy đủ.

Đức Phật dạy:
Đúng như vậy. Vì sao? Vì hết thảy chúng sanh xưa nay vốn không có lậu hoặc, chỉ có căn bản lợi ích của thiện pháp, nhưng nay vì do tham dục đâm vào mà hiện hữu, khiến chưa có thể hàng phục.

Bồ tát Vô Trú thưa:
Nếu có chúng sanh nào chưa đắc lợi ích căn bản, cần phải chọn lọc, tích lũy, thì làm thế nào để hàng phục những điều khó hàng phục?

Đức Phật dạy:
Nếu thực hành chung hay riêng, có phân biệt và có tạp nhiễm, nên quay tâm về an trú ở nơi chỗ rỗng không, thì hàng phục được những điều khó hàng phục, giải thoát được những sự ràng buộc của ma, hiện chứng Niết bàn ngay nơi các thức uẩn, nghiễm nhiên siêu việt ngay nơi vị trí đang ngồi.

Bồ tát Vô Trú thưa:
Độc nhất không bạn, tâm chứng đắc Niết bàn, thường trú ở nơi Niết bàn là giải thoát chăng?

Đức Phật dạy:
Thường trú ở trong Niết bàn, ây là Niết bàn trói buộc. Vì sao? Vì Niết bàn vốn là lợi hành từ bản giác và lợi hành bản giác vốn là Niết bàn. Những thành phần giác ngộ đối với Niết bàn, chính nó là những thành phần của bản giác, và chính nó cũng không khác với tánh giác và Niết bàn. Tánh giác không sinh, Niết bàn cũng không sinh; tánh giác không diệt, Niết bàn cũng không diệt, nên Niết bàn và tánh giác không có khác nhau. Niết bàn không thể chứng đắc, không thể chứng đắc Niết bàn, thì lấy gì mà có thể trú?
Này thiện nam tử!
Người giác ngộ không an trú ở Niết bàn. Vì sao? Vì giác ngộ vốn vô sanh, xa lìa mọi cấu nhiễm của chúng sanh; vì giác ngộ vốn không diệt, xa lìa động tịnh của Niết bàn. An trú vào địa vị như vậy, gọi là tâm an trú ở không điểm, không có xuất hay nhập, nên thể nhập tâm thức thanh tịnh.

Bồ tát Vô Trú thưa:
Tâm thức thanh tịnh, có chỗ hội nhập, có chỗ chứng đắc là chứng đắc pháp chăng?

Đức Phật dạy:
Không phải vậy. Vì sao? Ví như người con mê muội, tay nắm đồng tiền vàng mà không có biết, chạy khắp mười phương, trải qua năm mươi năm, bần cùng khốn khổ, tìm cầu công việc để nuôi thân mà vẫn không đủ. Người cha thấy con của mình cớ sự như vậy, liền bảo con rằng: “Con nắm đồng tiền vàng sao không sử dụng? Hãy nên tùy ý sử dụng, đều sẽ được đầy đủ!”.
Người con tỉnh ra, biết được mình có tiền vàng, tâm rất vui mừng, liền bảo rằng mình được tiền. Người cha liền bảo rằng: “Này con chớ vui mừng, tiền vàng mà con đang được đó, vốn là của con, không phải do con kiếm được, tại sao lại vui mừng?”.
Này thiện nam tử! Tâm thức thanh tịnh cũng lại như vậy, xưa không có tướng xuất, nay không có tướng nhập. Do xưa mê mờ, chứ không phải không có; nay do giác ngộ, chứ không phải ngoài vào.

Bồ tát Vô Trú thưa:
Người cha kia biết người con của mình mê muội, tại sao phải để trải qua năm mươi năm, đi khắp cả mười phương, nghèo cùng khốn khổ, mới gọi bảo cho biết?
Đức Phật dạy: Trải qua năm mươi năm là tâm khởi động trong một niệm; đi khắp mười phương xa là biến kế sở chấp.

Bồ tát Vô Trú thưa:
Tâm khởi động trong một niệm là như thế nào?

Đức Phật dạy:
Tâm khởi động trong một niệm là năm uẩn cùng sanh. Trong khi năm uẩn sanh có đầy đủ năm mươi điều ác.

Bồ tát Vô Trú thưa:
Biến kế sở chấp đi xa khắp cả mười phương, chỉ là tâm khởi sanh một niệm, đầy đủ gồm cả năm mươi điều ác, thì những chúng sanh ấy phải làm thế nào để một niệm không sanh?

Đức Phật dạy:
Khiến các chúng sanh kia, ngồi yên để tâm thần an tĩnh, trú vào địa vị Kim cang, niệm an tĩnh, không sinh khởi, tâm thường ở trong thái hòa, an lạc, đó là một niệm không khởi.

Bồ tát Vô Trú thưa:
Niệm giác ngộ không sinh là không thể nghĩ bàn. Tâm ấy là thư thái, an hòa, chính nó là lợi hành từ bản giác. Lợi hành mà không có khởi động, thường tại mà không phải là không, không phải là hữu, không phải là vô, không phải là không, không phải là giác, tri giác vốn không phải là giác. Bản giác vốn là lợi hành. Giác ấy là thanh tịnh, không ô nhiễm, không vướng mắc, không biến chuyển, không thay đổi, vì tánh ấy là quyết định, không thể nghĩ bàn.

Đức Phật dạy:
Đúng như vậy.
Bồ tát Vô Trú, nghe lời đức Thế Tôn nói như vậy rồi, được điều chưa từng có, liền nói bài kệ rằng:
Thế Tôn, đang Đại giác
thuyết pháp sanh vô niệm
tâm vô niệm, vô sanh
tâm thường sanh, không diệt.
Nhất giác, bản giác lợi
các lợi từ bản giác
như người được tiền vàng
sở đắc chính phi đắc.
Lúc ấy, đại chúng nghe lời này rồi, được tuệ giác siêu việt từ lợi ích bản giác.
*

Chú giải

Chú Giải

– Bản giác: Giác tánh vốn có nơi hết thảy chúng sanh. Giác tánh ấy vốn trong sạch, sáng suốt từ xưa đến nay không hề bị phiền não làm ô nhiễm.
– Lợi hành từ bản giác: Hán là bản giác lợi. Chữ lợi trong phẩm này, có nghĩa là chuyển xuất. Từ nơi bản giác mà chuyển xuất lợi hành, nên gọi là bản giác lợi.
– Bồ tát Vô Trú: Vị Bồ tát an trú vào nghĩa chân như nơi các pháp, khởi hạnh thực hành nguyện ba-la-mật, với tâm bất động, không mắc kẹt ngã chấp, nên gọi là Bồ tát Vô Trú.
– Nhất vị chân thật: Một mùi vị chân thật.
  • Nghĩa là giáo pháp của Như lai, sự tướng và lý tánh đều một mùi vị chân thật bình đẳng. Nhưng ở trong phẩm này Nhất vị chân thật là chỉ cho bản giác và thủy giác đều là một mùi vị chân thật bình đẳng ở nơi tâm giác ngộ.
– Vào xứ Thanh Bạch: Hán là nhập Thanh Bạch xứ. Thanh Bạch xứ là chỉ cho Bạch Tịnh Vô Cấu thức, Thanh Tịnh thức. Thức này là nguồn tâm trong sạch của hết thảy chúng sanh.
Nó là quả đức giác ngộ mà các đức Như lai chứng nhập. Quả đức ấy, tại thánh không tăng, tại phàm không giảm, không phiền não trong sanh tử, không giải thoát trong Niết bàn, ở trong sanh tử hay Niết bàn gì quả đức ấy đều là Như. Chứng nhập nghĩa Như này, gọi là vào xứ thanh bạch.
– Nhất giác: Nghĩa là minh tâm và do minh tâm mà thấy được tánh của tâm vốn rỗng lặng, sáng suốt, thanh tịnh. Đức Phật tự thân giác ngộ được tâm ấy và sử dụng tâm ấy, để hóa độ chúng sanh, khiến chúng sanh đều được giác ngộ tâm ấy, nên kinh nói đức Phật thường sử dụng nhất giác để giác ngộ đối với các loại chúng sanh, khiến cho tất cả chúng sanh đều chứng nhập bản giác.
– Vô trú địa: Các thức đã được chuyển hóa, không còn có tướng xuất và nhập, không mắc kẹt ở sanh tử, cũng không mắc kẹt ở Niết bàn, nên gọi là vô trú địa.
– Bốn trí địa rộng lớn: Hán gọi là Tứ hoằng trí địa, Tứ hoằng trí nguyện chi địa. Bồ tát do tu tập pháp môn tự tánh, nên phát nguyện làm lợi ích hết thảy chúng sanh ngay nơi tự tánh. Bốn hoằng thệ nguyện ấy gồm: 
  • Tự tánh chúng sanh thề nguyện độ, nghĩa là nguyện độ hết thảy chúng sanh ngay nơi tự tánh. Vì ngay nơi tự tánh hay bản giác mà vô lượng chúng sanh sanh khởi, nên ngay nơi tự tánh hay bản giác mà nhiếp độ hết thảy chúng sanh một cách bình đẳng. 
  • Tự tánh phiền não thề nguyện đoạn, nghĩa là thề nguyện đoạn trừ hết thảy phiền não ngay nơi tự tánh. Vì tự tánh hay bản giác thường tỏa chiếu mầu nhiệm, khiến vô biên phiền não, nguyện đều đoạn trừ.Đoạn trừ phiền não ngay nơi bản tánh sanh khởi. 
  • Tự tánh pháp môn thề nguyện học, nghĩa là thề nguyện học tập hết thảy pháp môn ngay nơi tự tánh, vì ngay nơi tự tánh vốn đầy đủ hết thảy pháp môn. 
  • Tự tánh Phật đạo thề nguyện thành, nghĩa là thề nguyện thành tựu Phật đạo ngay nơi tự tánh Phật đạo. 
    • – Tự tánh Phật đạo trí là căn nguyên bản giác nơi hết thảy chúng sanh. Ba tánh trí còn lại chuyển xuất lợi hành của thủy giác từ bản giác. Bản giác là trí thể. Thủy giác là trí dụng. Dụng từ nơi thể mà sanh, nghĩa là Thủy giác lợi hành từ nơi Bản giác mà sanh khởi. Thể từ nơi dụng mà biểu hiện, nghĩa là Bản giác từ nơi Thủy giác mà biểu hiện. Nên, Bản giác qua Thủy giác mà lợi hành; Thủy giác qua Bản giác mà hội nhập. Do đó, kinh này nói: “Người nào chứng nhập được trí tuệ từ bản giác này là chứng nhập địa vị trí tuệ của bậc Toàn giác. Bậc chứng nhập địa vị trí tuệ từ bản giác này rồi, thì các thức uẩn không còn sinh khởi”. (Kim Cang Tam Muội Kinh, tr 368c, Đại Chính 9).
*


Chủ yếu

Tự tánh thanh tịnh hay bản giác vốn vô sanh, vì vô sanh, nên vô trú. Bản giác vốn vô trú, nên lợi hành từ bản giác vốn vô trú. Do lợi hành vô trú, khiến các nguyện tu tập chuyển hết thảy tỉnh thức vào bản thức hay vào tự tánh thanh tịnh. Và ngay trong tự tánh thanh tịnh đầy đủ hết thảy công đức vậy.
***


Phẩm thứ năm: Vào Bến Bờ Chân Thực

Bấy giờ, đức Như Lai nói như thế này:
Hỡi các Bồ tát!
Thâm nhập lợi hành từ bản giác có thể hóa độ chúng sanh. Nếu về sau không phải thời, thì nên đúng như thời mà nói sự lợi ích của thuyết pháp. Không phải chỉ nói cho người thuận mà còn nói cho người không thuận; không phải chỉ nói cho người đồng, mà còn nói cho người không đồng. Nói thích ứng như vậy, dẫn dắt trí của các loài hữu tình nhập vào biển cả trí tuệ hoàn toàn, không để cho chúng như gió thổi vào hư không, mà làm cho nhiều thứ đều trở thành thần dũ một vị.
Thế gian không phải là thế gian, an trú chỗ không an trú. Năm sự rỗng lặng đối với ra, vào, có, không, nắm bắt, buông bỏ. Vì sao? Vì tướng của các pháp là không. Tánh của nó không phải có, không phải không, không phải là không hay bất không, chẳng phải không hay chẳng phải có. Tánh không có quyết định, không có trú nơi có hay trú nơi không, không phải có hay không ấy. Trí của Thánh hay phàm nơi chỗ sâu kín có thể suy lường. Này các Bồ tát! Nếu biết những lợi ích ấy, thì có thể chứng đắc Bồ đề.

Bấy giờ, trong chúng có một vị Bồ tát tên là Đại Lực, từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật bạch rằng:
Bạch đức Thế Tôn!
Như lời Ngài dạy, năm sự rỗng lặng đối với ra, vào, có, không, nắm bắt, buông bỏ. Thế nào là năm sự rỗng lặng mà không nắm bắt, buông bỏ?

Đức Phật dạy:
Này Bồ tát! Năm sự rỗng lặng gồm: Ba cõi là rỗng lặng; ảnh tượng của sáu đường là rỗng lặng; hình tướng của các pháp là rỗng lặng; hình tướng của những tên gọi là rỗng lặng; ý nghĩa của tâm thức là rỗng lặng.
Này Bồ tát! Các thứ rỗng lặng như thế. Sự rỗng lặng là chẳng mắc kẹt ở nơi sự rỗng lặng. Sự rỗng lặng không phải là tướng rỗng lặng; pháp không có tướng, thì lấy gì để nắm bắt hay buông bỏ? Chứng nhập địa vị không chấp thủ, là chứng nhập ba sự rỗng lặng.

Bồ tát Đại Lực thưa:
Thế nào là ba sự rỗng lặng?

Đức Phật dạy:
Ba sự rỗng lặng gồm: – Tướng rỗng lặng cũng rỗng lặng; – Sự rỗng lặng ở nơi rỗng lặng cũng rỗng lặng; – Đối tượng của rỗng lặng cũng rỗng lặng. Những sự rỗng lặng như vậy, không mắc kẹt ở nơi ba hình tướng, đều là chân thực, không thể nghĩ bàn, dứt bặt mọi con đường ngôn ngữ.

Bồ tát Đại Lực thưa:
Đều là chân thực, thì cần phải có hình tướng?

Đức Phật dạy:
Không mà không mắc kẹt nơi không; có mà không mắc kẹt nơi có; không phải không hay không phải có. Pháp chẳng có, tức là không mắc kẹt nơi không; tướng chẳng không, tức là không mắc kẹt nơi có. Không thể sử dụng sự hiểu biết đối đãi giữa có và không mà có thể hiển bày được như lý.
Này Bồ tát! Mọi hình tướng của nghĩa lý đều không có tên gọi, không thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì tên gọi không phải là tên gọi, mà cũng không phải là không nơi tên gọi; nghĩa lý không phải là nghĩa lý, mà không phải là không nơi nghĩa lý.

Bồ tát Đại Lực thưa:
Danh và nghĩa như vậy là tướng của thực tại chân như; và là tướng của chân như, từ chân như đến. Chân như không mắc kẹt nơi chân như; chân như không có hình tướng của chân như, vì tướng không phải là chân như mà cũng không phải là không đến từ chân như. Tướng của tâm chúng sanh, tướng ấy cũng đến từ chân như, thì tâm của chúng sanh cũng không cần phải có đối tượng riêng biệt.

Đức Phật dạy:
Đúng như vậy. Tâm của chúng sanh, sự thực không có đối tượng phân biệt. Vì sao? Vì tâm vốn là thanh tịnh, và vì lý tánh không có uế nhiễm. Vì do nhiễm ô trần lao, nên gọi là ba cõi. Tâm lệ thuộc ba cõi, nên gọi là có đối tượng phân biệt. Đối tượng ấy là hư vọng, từ nơi tâm hóa sanh. Nếu tâm không có hư vọng, thì không có đối tượng phân biệt.

Bồ tát Đại Lực thưa:
Nếu tâm ở nơi thanh tinh, thì moi đối tượng của tâm không sanh. Khi tâm này thanh tịnh, thì không có ba cõi.

Đức Phật dạy:
Đúng như vậy. Này Bồ tát! Tâm không sanh khởi đối tượng, đối tượng không sanh khởi tâm. Vì sao? Các đối tượng được thấy chỉ là được thấy bởi tâm. Tâm không huyễn hóa, thì không có đối tượng để thấy.
Này Bồ tát! Nội tâm không có chúng sanh, ba tánh rỗng không, vắng lặng, thì không có ta và chúng sanh, cũng không có người và chúng sanh, cho đến hai nhập, tâm cũng không sanh. Đạt được lợi ích như vậy, thì không có ba cõi.

Bồ tát Đại Lực thưa:
Thế nào là hai nhập không sanh nơi tâm? Tâm vốn không sanh làm gì có nhập?

Đức Phật dạy:
Hai nhập gồm: một là nhập thuộc về lý tánh; hai là nhập thuộc về hành tướng. Nhập thuộc về lý tánh là tin tưởng sâu xa rằng, chúng sanh không khác với chơn tánh; không phải một, không phải nhiều, do bị khách trần che khuất làm chướng ngại. Không đến, không đi, dừng lại an trú ở giác quán, quán chiếu thẩm xét Phật tánh, không phải có, không phải không; không phải ta, không phải người, phàm thánh không hai, địa vị tâm kim cang, an trú vững chãi, không di đổi, vắng lặng vô vi, không có phân biệt, đó gọi là lý nhập.
Nhập thuộc về hành tướng là tâm không dựa vào khuynh động, ảnh tượng không lưu chuyển, biến đổi. Ở lãnh vực sở hữu, tâm niệm vắng lặng vô cầu, gió thổi không lay động, ví như đại địa, lìa hẳn vọng tâm và ngã, cứu độ chúng sanh, không có sanh, không có tướng, không có nắm bắt, không có buông bỏ.
Này Bồ tát! Tâm không có ra hay vào; không có vào hay ra nơi tâm. Vì vào mà không vào, nên gọi là vào.
Này Bồ tát! Chứng nhập pháp như vậy là tướng của pháp không phải rỗng không, pháp cũng không phải rỗng không và pháp cũng không phải xả bỏ. Vì sao? Vì pháp không phải là không có đầy đủ các công đức. Pháp không phải là tâm, không phải là ảnh. Pháp vốn thanh tịnh như vậy.

Bồ tát Đại Lực thưa:
Thế nào là pháp vốn thanh tịnh như vậy, không phải là tâm, không phải là ảnh?

Đức Phật dạy:
Pháp thuộc về chân như và chân không, pháp không thuộc về tâm và thức. Không phải là sở hữu các kiết sử của tâm. Tướng của pháp không phải là rỗng không; tướng của pháp không phải thuộc về sắc; pháp không phải là tâm hữu vi, không phải là pháp tương ưng, không phải tâm vô vi là pháp tương ưng. Không phải chỗ hình ảnh biểu hiện; không phải là chỗ để chỉ bày; không phải là tự tánh; không phải là khác biệt; không phải tên gọi; không phải tướng trạng, không phải lý nghĩa. Vì sao? Vì lý nghĩa không phải là chân như; pháp không phải là chân như mà cũng không phải là không chân như; không có pháp gì là không chân như; không có pháp gì là không hiện hữu từ chân như. Vì sao? Vì pháp thuộc về lý tánh và các quan năng, nên nó không phải là lý tánh và các quan năng, xa lìa mọi tranh luận, tướng của nó không thể thấy được.
Này Bồ tát! Pháp thanh tịnh như vậy, không phải được sinh ra từ nơi cái sanh của sanh và cũng không phải bị diệt mất từ nơi cái diệt của diệt.

Bồ tát Đại Lực thưa:
Pháp tướng như vậy là không thể nghĩ bàn, không phải hợp thành, không phải riêng thành, không phải nương nhau, không phải buộc nhau, không phải tụ hợp, không phải ly tán, không phải là sanh, không phải là diệt, cũng không có tướng đến, đi và dừng, nên không thể nghĩ bàn.

Đức Phật dạy:
Đúng như vậy, không thể nghĩ bàn; tâm không thể nghĩ bàn, nên tâm cũng như vậy. Vì sao vậy? Vì tâm không khác với chân như; tâm vốn là chân như vậy. Chúng sanh và Phật tánh không phải đồng nhất, không phải khác biệt. Tánh của chúng sanh vốn không sanh diệt. Tánh tịch diệt nơi sanh, tánh ấy vốn cùng thể với Niết bàn. Tướng của tánh vốn là chân như. Vì chân như là bất động.
Tất cả tướng của pháp không sinh khởi từ nơi duyên mà tướng và tánh sinh khởi từ chân như, nhưng chân như không bị động. Tướng và tánh từ nhân duyên, tướng ấy vốn không có và rỗng lặng. Duyên ở nơi duyên; rỗng lặng ở nơi rỗng lặng, không có khởi sanh theo duyên. Tất cả pháp do duyên, là do tâm mê lầm mà vọng thấy, chứ hiện thực vốn không phải sanh, vì duyên vốn là không thực có. Lý tính của pháp chân như nơi tâm, tự thể rỗng lặng, không có xứ sở. Như vị Không vương kia vốn không có trú xứ. Tâm của phàm phu thấy là do phân biệt từ hư vọng. Tướng như như vốn không phải có hay không. Tướng có hay không, chỉ là những cái thấy biết của tâm thức.
Này Bồ tát! Pháp thuộc về tâm như vậy, không phải không có tự thể, không phải có tự thể, không phải có hay không có tự thể.
Này Bồ tát! Tướng ấy đều là vô tướng, không phải thuộc phạm vi của ngôn thuyết. Vì sao? Vì pháp thuộc chân như là vô tướng rộng lớn như hư không, hàng nhị thừa không thể nhận biết được. Cảnh giới hư không, trong và ngoài không thể đo lường. Bậc Đại sĩ sáu hạnh, mới có thể nhận biết.

Bồ tát Đại Lực thưa:
Thế nào là sáu hạnh? Nguyện xin Ngài hãy nói cho con!
Đức Phật dạy:
1- Mười tín hạnh.
2- Mười trú hạnh.
3- Mười hạnh hạnh.
4- Mười hồi hướng hạnh.
5- Mười địa hạnh.
6- Đẳng giác hạnh.

Những vị ở trong các hạnh như vậy mới có thể nhận biết.
Bồ tát Đại Lực thưa: Lợi ích giác ngộ từ thực tế không có xuất nhập, vậy những tâm pháp nào được vào thực tế?

Đức Phật dạy:
Pháp thực tế là pháp không có biên giới. Tâm không có biên giới là tâm hội nhập với biên giới chân thực.

Bồ tát Đại Lực thưa:
Trí tuệ của tâm không có biên giới, trí tuệ ấy không có bến bờ. Tâm không có bến bờ là tâm được tự tại. Trí của tự tại là trí chứng nhập thực tế. Như những kẻ phàm phu kia, và những chúng sanh với tâm của họ yếu kém và đa đoan, thì phải sử dụng pháp gì để chế ngự, khiến tâm họ được kiên cố để chứng đắc thực tế?

Đức Phật dạy:
Này Bồ tát! Tâm của những chúng sanh ấy đa đoan là do các kiết sử trong ngoài, sai khiến chảy theo dòng chảy, tích chứa thành biển, gió to sóng lớn, đại long kinh hãi, do tâm khiếp sợ, khiến thành đa đoan.
Này Bồ tát! Khiến những chúng sanh kia, còn ba giữ một, vào thiền định của Như lai. Vì do thiền định, nên tâm không còn đa đoan.

Bồ tát Đại Lực thưa:
Còn ba giữ một vào thiền định của Như lai là thế nào?

Đức Phật dạy:
Còn ba là còn ba giải thoát, giữ một là giữ lấy bản thể chân như nơi nhất tâm. Vào thiền định của Như lai là quán chiếu lý thể chân như ở nơi nhất tâm. Chứng nhập lãnh địa của tâm như vậy là chứng nhập thực tế.

Bồ tát Đại Lực thưa:
Pháp ba giải thoát là những pháp gì? Thiền định quán chiếu lý thể là do từ pháp nào mà chứng nhập?

Đức Phật dạy:
Ba giải thoát gồm
  • Hư không giải thoát. 
  • Kim cang giải thoát 
  • và Bát nhã giải thoát. 
Quán chiếu lý tính là quán chiếu lý thanh tịnh chân như của tâm, đều không thể không có tâm.

Bồ tát Đại Lực thưa:
Thế nào là tồn dụng và thế nào là quán sát?

Đức Phật dạy:
Tâm tánh và sự tướng không phải hai, nên gọi là tồn dụng. Nội hành và ngoại hành, xuất và nhập không phải hai, không vướng mắc một tướng, tâm không có được mất, một không phải một địa, lưu nhập tâm thanh tịnh, đó gọi là quán sát vậy.
Này Bồ tát! Người như vậy, không kẹt nơi hai tướng, tuy không xuất gia, nhưng không kẹt ở tại gia; tuy không mặc pháp phục, không thọ trì đầy đủ giới pháp ba-la-đề-mộc-xoa, không dự vào pháp bố tát, nhưng có thể sử dụng pháp tự tứ vô vi ở nơi tự tâm, mà chứng được thánh quả, không kẹt nhị thừa mà đi vào con đường Bồ tát, sau đó viên mãn các địa vi của Bồ tát và thành tựu bậc Giác ngộ hoàn toàn.

Bồ tát Đại Lực thưa:
Người như vậy là người không thể nghĩ bàn, họ không phải là người xuất gia mà cũng không phải là không xuất gia. Vì sao? Vì họ đã vào nhà Niết bàn, mặc áo Như lai, ngồi tòa Bồ đề, những người như vậy, cho đến những bậc Sa môn, cũng phải đảnh lễ cúng dường.

Đức Phật dạy:
Đúng như vậy. Vì sao? Vì vào nhà Niết bàn thì tâm vượt khỏi ba cõi, mặc áo Như lai; chứng nhập chỗ pháp không; ngồi tòa Bồ đề, bước lên địa vị Chánh giác. Người như vậy, tâm của họ siêu việt ngã chấp của nhị thừa, huống gì là hàng Sa môn mà không cung kính cúng dường.

Bồ tát Đại Lực thưa:
Chân như nhất địa của những vị kia cùng với biển tính rỗng lặng, những hàng nhị thừa không thể thấy được chăng?

Đức Phật dạy:
Đúng như vậy. Những hạng người nhị thừa kia, do đắm chìm nơi mùi vị của thiền định, thân được thiền định ở nơi nhất địa của biển tính rỗng lặng kia, như người bị bệnh uống rượu hôn mê không tỉnh, cho đến nhiều kiếp còn không thể giác ngộ. Tới khi rượu hết tỉnh ngộ, mới tu hành, về sau chứng được thân Phật. Như người kia từ bỏ hạng nhất Xiển đề, hội nhập sáu hạnh, ở trong các địa vị thực tập, tâm thanh tịnh nhất niệm, quyết định sáng suốt rõ ràng, do sức mạnh của trí tuệ Kim cang được không thối chuyển, hóa độ chúng sanh với lòng từ bi vô tận.

Bồ tát Đại Lực thưa:
Người như vậy, nếu không trì giới, thì đối với hàng Sa môn kia không nên kính ngưỡng.

Đức Phật dạy:
Vì người ấy thuyết giới, với tâm kiêu mạn, bất thiện như biển có sóng lớn. Ví như tâm địa của người kia, biển của tám thức lắng yên, sự thanh tịnh của chín thức trôi chảy, gió nghiệp không thể chuyển động, sóng thức không thể chuyển khởi, bản tánh của giới bình đẳng như hư không, nên nói giữ giới là điên đảo, mê muội. Ví như thức thứ bảy và thứ sáu của người kia các tập khí không sinh khởi, mà thường phát tâm Bồ đề, tu tập diệt tận định, không rời Phật ba thân. Ở trong sự quán chiếu ba loại vô tướng, tâm tùy thuận mà vào chỗ huyền diệu, kính trọng Tam bảo sâu xa, không mất các oai nghi, đối với hạng người như vậy bậc Sa môn không thể không cung kính.
Này Bồ tát! Những bậc nhân giả ấy, không mắc kẹt vào những pháp biến động hay không biến động của thế gian, tâm của họ nhập vào ba tụ giới rỗng lặng, diệt trừ sạch hết pháp hữu lậu liên hệ ba cõi.

Bồ tát Đại Lực thưa:
Bậc nhân giả ấy, đối với Phật, quả đức đầy đủ; đối với Phật ở nơi Như lai tạng; đối với Phật ở nơi các hình tượng, đối với những chỗ của Phật như vậy, mà phát Bồ đề tâm, chứng nhập ba tụ giới thanh tịnh, không mắc kẹt ở nơi những hình thức của giới, tâm vắng bặt các pháp hữu lậu liên hệ ba cõi. Không cư trú nơi địa vị tịch tịnh mà cũng không xả bỏ chúng sanh, vào địa vị bất động, không thể nghĩ bàn.
Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất, từ chỗ ngồi đứng dậy nói bài kệ rằng:
Biển trí giác đầy đủ
không trú thành Niết-bàn
như hoa sen mầu nhiệm
không mọc từ vùng cao.
Chư Phật vô lượng kiếp
không xả ly phiền não
độ đời, chứng đắc sau
như sen nở từ bùn.
Các địa trong sáu hành
chỗ tu của Bồ tát
như ba không tụ kia
chân đạo của Bồ đề.
Con nay trú không trú như điều đức Phật dạy lại đến chỗ đã đến đầy đủ sau mới xuất.
Lại khiến các chúng sanh đồng nhất con, không khác người đến trước, đến sau đều khiến lên chánh giác.

Bấy giờ, đức Phật dạy Tôn giả Xá-lợi-phất rằng:
Thật không thể nghĩ bàn, Tôn giả đời sau sẽ thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ đề, giáo hóa vô lượng chúng sanh, vượt khỏi biển khổ sanh tử.
Bấy giờ, đại chúng đều giác ngộ Bồ đề, các chúng thuộc căn khí Tiểu thừa đều hội nhập năm biển cả rỗng lặng.
*
Chú giải

Chú Giải

– Vào bến bờ chân thực: 
  • Hán: Nhập thực tế. Thực tế, 
  • tiếng Phạn: là Bhūta-koti, nghĩa là chỗ tột cùng chân thực. Nhập thực tế là vào chỗ tột cùng chân thực. Chỗ tột cùng chân thực ấy là Niết bàn. Vì vậy, thực tế cũng có nghĩa là Niết bàn.
– Năm sự rỗng lặng: 
Hán: Ngũ không. Ngũ không gồm:
  • 1- Tam hữu thị không: Ba cõi gồm Dục hữu, Sắc hữu, Vô sắc hữu, tự tánh của chúng vốn rỗng không, không có thực thể. Ba cõi Dục hữu, Sắc hữu, Vô Sắc hữu do duyên vào Dục ái, Sắc ái và Vô Sắc ái mà khởi hiện, nên chúng hiện hữu như huyễn, như mộng, như trăng dưới nước, như ảnh trong gương… Chúng hiện hữu, nhưng không có thực chất, không có thực thể, nên gọi là Tam hữu thị không.
  • 2- Lục đạo ảnh thị không: Ảnh tượng ở nơi tâm chúng sanh trong sáu đường, gồm địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la, nhân loại và chư thiên vốn rỗng không, không có thực thể. Lục đạo chúng sanh vốn không có thực thể, do vọng tâm duyên vào nghiệp cảm mà sanh khởi quả báo khổ vui trong sáu đường. Khổ vui trong lục đạo chúng sanh do duyên vào ảnh tượng của tâm thức mà biểu hiện, nên chúng hiện hữu như ảo ảnh, vốn không có thực thể. Do đó, gọi là Lục đạo ảnh thị không.
  • 3- Pháp tướng thị không: Hình tướng của các pháp vốn rỗng lặng, không có thực thể. Pháp tướng do duyên tác động sanh khởi, nên tướng của chúng là hợp tướng. Bất cứ pháp gì do duyên khởi mà biểu hiện, thì tướng của pháp ấy đều là phi tướng, không tướng hay vô tướng. Nên gọi là Pháp tướng thị không.
  • 4- Danh tướng thị không: Hình tướng của mọi danh xưng thuộc thế gian và xuất thế gian đều duyên vào ý thức mà khởi lên vọng tưởng phân biệt. Nên, mọi danh tướng do ý thức khởi sanh vọng tưởng phân biệt, vốn không có thực thể. Do đó, gọi là danh tướng thị không.
  • 5- Tâm thức nghĩa thị không: Tâm và thức vốn tương tác với nhau mà biểu hiện đủ mọi thứ danh ngôn giả định, nên những biểu hiện của chúng vốn không có thực nghĩa. Do đó, gọi là Tâm thức nghĩa thị không.
– Ba sự rỗng lặng: 
  • Hán: Tam không. Tam không gồm:
1- Không tướng diệc không: Tướng không cũng không. Nghĩa là tướng rỗng lặng cũng rỗng lặng.
2- Không không diệc không: Sự rỗng lặng ở nơi sự rỗng lặng cũng rỗng lặng.
3- Sở không diệc không: Đối tượng của rỗng lặng cũng rỗng lặng.
Với ba nghĩa không này, Bồ tát Đại sĩ ở vào địa vị thứ chín cho đến các địa vị Đẳng giác, Diệu giác mới có thể liễu tri là do sở tri chướng ở trong những địa vị Bồ tát Đại sĩ này đã và đang bị đoạn tận. Nhờ vậy, quý vị có khả năng nhập vào thực tế.

– Hai nhập: 
  • Hán: Nhị nhập. Nhị nhập gồm:
1- Lý nhập: Ngộ nhập lý tánh. Nghĩa là từ nơi giáo pháp mà ngộ nhập lý tánh. Do ngộ nhập lý tánh, nên tin tưởng sâu xa rằng, Phật tánh nơi hết thảy chúng sanh đều bình đẳng, siêu việt mọi vọng tưởng phân biệt, siêu việt mọi phân biệt chủ thể và đối tượng. Lý tánh thì lúc nào và ở đâu cũng như.
2- Hành nhập: Ngộ nhập hành sự. 
Hành nhập gồm có bốn:
a- Báo oán hành: Đối diện với các hành vi oán đối, tâm của hành giả không lay chuyển, vì sao? Vì biết sự oán đối này là do từ vô lượng kiếp về trước ta bỏ chân tánh mà chạy theo vọng trần, tác nghiệp sanh tử hữu lậu, dẫn sanh ra nhiều oán đối, nên đây chỉ là quả báo do ta tạo ra, nên bây giờ ta hoan hỷ nhận chịu, không than trách ai, không oán đối ai. Vì vậy, gặp khổ oán mà không ưu não. Nhân nơi oán đối mà khởi hạnh nguyện tu tập, nên gọi là Báo oán hành.
b- Tùy duyên hành: Tự tánh chúng sanh vốn vô ngã, nhưng do vọng tưởng duyên cảnh mà tác nghiệp dẫn khởi, khiến sanh cảm thọ khổ vui. Nghiệp duyên hết, khổ vui không còn, nên được mất, vui buồn do duyên mà khởi, chứ tự tâm không tăng giảm, không sanh diệt, vốn thuần hợp với đạo, nên gọi là tùy duyên hành.
c- Vô sở cầu hành: Do tham cầu, nên gọi là phàm phu; giác ngộ tham là gốc của khổ, nên buông bỏ, sống với tâm an tịnh, vô vi, nên gọi là bậc Thánh trí. sống với tâm hữu cầu, nên khổ liền sanh, ấy gọi phi đạo. sống với tâm vô cầu, các khổ tự diệt, ấy là sống ở trong chơn đạo. Sống với tâm an tịnh, vô vi, các khổ không còn có duyên để sanh, nên gọi là Vô sở cầu hành.
d- Xứng pháp hành: Thực hành đúng với pháp tánh thanh tịnh. Nghĩa là hành pháp không rơi vào các tương tác đối đãi nhị nguyên; không rơi vào các tướng của ngã và pháp. Bậc có trí tin sâu xa vào lý tánh thanh tịnh nơi tự tâm, nên thực hành bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ lợi ích cho hết thảy chúng sanh mà tâm vô trú.
– Sáu hạnh gồm: 
l- Mười Tín hạnh. 
2- Mười Trú hạnh. 
3- Mười Hành hạnh. 
4- Mười Hồi hướng hạnh. 
5- Mười Địa hạnh. 
6- Đẳng Giác hạnh.
  • 1- Mười tín hạnh: Gọi đủ là mười Tín tâm. Hán gọi là Thập Tín tâm. Mười Tín hạnh hay mười Tín tâm gồm:
    • – Tín tâm: Nhất tâm quyết định, mong muốn thành tựu.
    • – Niêm tâm: Tâm luôn an trú vào sáu niệm, gồm: Niệm Phật; niệm Pháp; niệm Tăng; niệm Giới; niệm Thí và niêm Thiên.
    • – Tinh tấn tâm: Tinh tấn nghe pháp, nhất là pháp Bồ tát tạng và nỗ lực thực hành các thiện nghiệp không gián đoạn.
    • – Định tâm: Tâm an trú vào sự tướng và nghĩa lý chân thật của các pháp, xa lìa hết thảy tâm hư ngụy, phân biệt vọng tưởng.
    • – Tuệ tâm: Nghe Bồ tát tạng, quán chiếu thấy rõ các pháp do duyên khởi, nên vô thường, vô ngã, vốn rỗng lặng không có tự tánh.
    • – Giới tâm: Tâm thọ trì Đại thừa giới bao gồm đủ cả ba nhóm giới Thanh tịnh, khiến cho thân, ngữ, ý không tạo ác nghiệp mà thường hành hết thảy thiện nghiệp và thường làm lợi ích cho hết thảy chúng sanh.
    • – Hồi hướng tâm: Đem hết thảy thiện căn từ công phu tu luyện, hồi hướng cho hết thảy chúng sanh và nguyện cho hết thảy chúng sanh, từ công đức thiện nghiệp này đều về quả vị Vô thượng Bồ đề, chứng nhập thực tế.
    • – Hộ pháp tâm: Luôn luôn biết sử dụng năm pháp để hộ tâm gồm: 
      • – Mặc hộ: Hộ tâm ở trong sự tĩnh lặng. 
      • – Niệm tâm: Hộ tâm ở trong niệm tỉnh giác. 
      • – Trí hộ: Hộ tâm bằng trí quán. 
      • – Tức tâm hộ: Hộ tâm bằng dứt trừ phiền não và chính sự dứt trừ phiền não là hộ tâm. 
      • – Tha hộ: Hộ tâm bằng sự phòng hộ các căn, khiến các trần không thể xâm nhập và các thức không khởi sinh sự phân biệt vọng tưởng. Thực hành năm hạnh này, gọi là Hộ pháp tâm.
    • – Xả tâm: Tâm buông bỏ, không vướng mắc đối với hết thảy tài sản, danh tướng.
    • – Nguyện tâm: Tâm thường khởi lên các nguyện tương ứng với bồ đề.
Mười tín, các kinh giải thích có khác nhau, ở đây tôi chuẩn theo kinh Bồ tát Anh lạc để giải thích.

  • 2- Mười trú hạnh: Gọi đủ là Thập địa trụ, Thập pháp trụ, Thập trụ vị. Ấy là mười vị trí an trú của hàng Bồ tát, sau khi đã trải qua mười tín vị.
Mười trú vị gồm:
    • – Sơ phát tâm trú: Tâm đã vững chãi với các địa vị ở thập tín, tiến lên với sự học rộng và hành trì sâu ở trong Phật pháp, quán chiếu không lý và an trú ở nơi lý này mà thực hành các công đức, nên gọi là sơ phát tâm trú.
    • -Trị địa trú: Hàng Bồ tát thường an trú vào tâm rỗng lặng, sâu mầu, để thực hành vô lượng pháp môn, thành tựu vô lượng công đức, nên gọi là Trị địa trú.
    • – Tu hành trú: Do sức tu hành, trí tuệ của Bồ tát phát sáng lên, từ địa vị Sơ phát tâm trú và Trị địa trú, nên gọi làTu hành trú.
    • – Sinh quý trú: Hàng Bồ tát do hành và lý tương hợp, nên hơi hám của giống Phật sinh khởi, khiến thường sinh ra trong chủng tộc Như lai, nên gọi là Sinh quý trú.
    • – Phương tiện cụ túc trú: Hàng Bồ tát thực hành Bồ tát hạnh có đầy đủ vô lượng thiện căn công đức, tướng mạo hoàn hảo và có đầy đủ các phương tiện để thực hành hạnh tự lợi, lợi tha, nên gọi là Phương tiện cụ túc trú.
    • – Chính tâm trú: Hàng Bồ tát thực hành tuệ Bát nhã, khiến không những thân tướng trang nghiêm mà tâm cũng luôn luôn an trú ở nơi tuệ giác thanh tịnh, nên gọi là Chính tâm trú.
    • – Bất thoái trú: Hàng Bồ tát tâm luôn an trú ở nơi không, vô tướng, vô nguyện một cách vững chãi và tiến lên thân tâm nhất như, nên gọi là Bất thoái trú.
    • – Đồng chơn trú: Bồ đề tâm không thoái chuyển, các tà nghiệp, vọng hoặc không phá hoại nổi tâm ấy, khiến cho tinh hoa linh giác của Phật lưu trú và trưởng dưỡng đầy đủ, nên gọi là Đồng chơn trú.
    • – Pháp vương tử trú: Từ Sơ phát tâm trú đến Sinh quý trú, gọi là giai đoạn Bồ tát nhập thánh thai. Từ Phương tiện cụ túc trú đến Đồng chơn trú là giai đoạn Bồ tát trưởng dưỡng thánh thai và đến giai đoạn của Pháp vương tử trú này là Bồ tát xuất thai, nên gọi là hàng Bồ tát Pháp vương tử trú.
    • – Quán đảnh trú: Hàng Bồ tát này có khả năng gánh vác công việc của Phật, nên Phật đem nước trí rưới lên đỉnh đầu, để ký thác trọng trách giác ngộ độ thoát chúng sanh, đi sâu vào cảnh giới bất khả tư nghì của Phật và phải luôn luôn học hỏi để có thực trí nhằm thâm nhập vào chỗ tột cùng của chân lý, nên gọi là Quán đảnh trú.
  • 3- Mười hành hạnh: Hán gọi là Thập hạnh tâm. Bồ tát thực hành mười hạnh lợi sanh từ địa vị 21 đến địa vị 30 thuộc 52 địa vị tu tập của Bồ tát đạo. Mười hành hạnh gồm:
    • – Hoan hỷ hạnh: Bồ tát sử dụng vô lượng đức tính mầu nhiệm của Như lai, để tùy thuận giáo hóa, khiến hết thảy chúng sanh trong mười phương đều có lợi ích.
    • – Nhiêu ích hạnh: Bồ tát khéo vận dụng tâm từ bi và sử dụng mọi phương tiện làm lợi ích cho hết thảy chúng sanh.
    • – Vô sân hận hạnh: Bồ tát thường thực hành nhẫn nhục từ bi không sân hận để đem lại lợi ích cho hết thảy chúng sanh.
    • – Vô tận hạnh: Bồ tát thường thực hành hạnh tinh tấn, khiến hết thảy chúng sanh bỏ hết thảy điều ác, thực hành mọi điều lành, đưa hết thảy chúng sanh thoát ly sanh tử đồng đến Niết bàn.
    • – Ly si loạn hạnh: Bồ tát thường thực hành chánh niệm, để an trú chánh định, tâm không bi nhiễu loan đối với moi hình sắc, âm thanh, hương thơm, mùi vị, xúc chạm và ảnh tượng ở nơi tâm ý.
    • – Thiện hiện hạnh: Bồ tát quán chiếu không lỷ ở trong pháp duyên khởi hiện tiền, với ba nghiệp đạo thanh tịnh, không tham đắm đối với mọi danh tướng, nhưng vẫn thường thực hành hạnh độ sanh.
    • – Vô trước hạnh: Bồ tát trải qua vô lượng kiếp, thường thực hành hạnh cúng dường vô lượng chư Phật trong vô lượng thế giới, với tâm vô trú, không thủ trước.
    • – Tôn trọng hạnh: Bồ tát thực hành hạnh
    • tôn trọng hết thảy thiện căn sanh khởi trí tuệ, nhờ đó mà thành tựu hết thảy thiện pháp đối với hạnh tự lợi và lợi tha.
    • – Thiện pháp hạnh: Bồ tát tu tập chứng được bốn pháp đà-la-ni vô ngại, để hộ trì chánh pháp, giáo hóa chúng sanh, khiến dòng dõi Như lai không bị đoạn mất.
    • – Chân thực hạnh: Bồ tát nói và làm đều tương hợp với Đệ nhất nghĩa đế.
Bồ tát thực hành mười hạnh không ngoài mục đích chứng nhập thực tế, nghĩa là chứng nhập chân lý tối hậu.
  • 4- Mười hồi hướng: Hán gọi là Thập hồi hướng tâm. Mười tâm hồi hướng của hàng Bồ tát, tu tập ở giai vị từ 31 đến 40 thuộc 52 giai vị của Bồ tát đạo.
    • – Cứu hộ nhất thiết chúng sanh, ly chúng sanh tướng hồi hướng: Bồ tát khởi tâm cứu độ bình đẳng đối với hết thảy chúng sanh, bằng sự thực hành Lục độ và Tứ nhiếp pháp mà không bị mắc kẹt nơi mọi hình tướng thân sơ, ân oán.
    • – Bất hoại hồi hướng: Bồ tát tu tập đạt đến niềm tin bất hoại đối với Tam bảo, liền đem niềm tin ấy mà hồi hướng cho hết thảy chúng sanh, không kể thân sơ, ân oán, khiến cho tất cả đều đạt được lợi ích.
    • – Đẳng nhất thiết Phật hồi hướng: Bồ tát tu tập không mắc kẹt nơi sanh tử, không lìa tâm bồ đề, thường thực tập hạnh hồi hướng, như các đức Phật trong mười phương và ba đời.
    • – Chí nhất thiết xứ hồi hướng: Bồ tát đem hết thảy thiện căn đã tu tập được, để cúng dường Tam bảo khắp cả mười phương và hồi hướng cho hết thảy chúng sanh khắp cả pháp giới.
    • – Vô tận công đức tạng hồi hướng: Bồ tát tu tập với tâm tùy hỷ đối với hết thảy căn lành vô tận và đem hết thảy công đức từ căn lành vô tận ấy, mà hồi hướng đối với Phật sự vô tận, khiến thành tựu vô tận công đức.
    • – Tùy thuận bình đẳng thiện căn hồi hướng: Bồ tát tu tập đem hết thảy thiện căn để hồi hướng cho hết thảy chúng sanh một cách bình đẳng, được các đức Phật gia trì, khiến cho hết thảy thiện căn được thành tựu một cách vững chãi.
    • – Tùy thuận đẳng quán nhất thiết chúng sanh hồi hướng: Bồ tát thường tùy thuận thiền quán bình đẳng, phát triển lớn mạnh căn lành, để làm lợi ích và hồi hướng cho hết thảy chúng sanh.
    • – Như tướng hồi hướng: Bồ tát thuận theo tướng chân như mà hồi hướng đối với các thiện căn.
    • -Vô phược, vô trước giải thoát hồi hướng: Bồ tát tự do đối với hết thảy pháp, tâm không bị ràng buộc bởi các loại phiền não, có bao nhiêu thiện căn đều đem hồi hướng để thực hành viên mãn hạnh Phổ hiền.
    • – Pháp giới vô lượng hồi hướng: Bồ tát tu tập hết thảy thiện căn không cùng tận và đem thiện căn ấy hồi hướng khắp cùng pháp giới.
  • 5- Mười địa hạnh: Hán gọi là Thập địa. Nghĩa là mười địa vị tu tập của Bồ tát ở giai vị 41 đến 50, trong 52 địa vị của hiền thánh. Mười địa vị ấy gồm:
    • – Hoan hỷ địa: Bồ tát thực hành bố thí không hề tiếc thân mạng, tài sản, nhân viên quả mãn, đoạn trừ mọi chướng ngại thuộc phàm phu, chứng được biến hành chân như, tâm sinh hoan hỷ, nên gọi là Hoan hỷ địa hay Sơ địa.
    • – Ly cấu địa: Bồ tát thực hành trì giới, lìa xa hết thảy dục nhiễm, chứng nhập chân như thù thắng, đầy vô biên công đức, nên gọi là Ly cấu địa hay Nhị địa.
    • – Phát quang địa: Bồ tát phát khởi tâm rộng lớn với gia công dụng hạnh tu tập, khiến trí tuệ phát sáng xóa sạch được những phần hắc ám trong tâm, chứng nhập chân như lưu thắng. Chứng nhập chân như này, gọi là Phát quang địa.
    • – Diệm huệ địa: Bồ tát thực hành đầy đủ ba mươi bảy phẩm pháp trợ đạo, đoạn sạch những phiền não tinh tế, ánh sáng ngọn đèn trí tuệ phát sanh, liền chứng nhập chân như nhiếp thụ. Do chứng nhập chân như này, Bồ tát ở địa vị này khởi sanh trí tuệ, không còn hệ thuộc phiền não, nên gọi là Diệm huệ địa.
    • – Nan thắng địa: Bồ tát do tu tập pháp bình đẳng ở giai đoạn gia hạnh, trí tuệ vô sai biệt phát sanh, giác ngộ được tự tánh bình đẳng giữa tục đế và chân đế, đoạn trừ được mọi chướng ngại của phiền não đối với Niết bàn thuộc Thanh văn và Duyên giác, chứng nhập tính chân như vô sai biệt, nên gọi là Nan thắng địa.
    • – Hiện tiền địa: Bồ tát tu tập hạnh lợi sanh bình đẳng, trí tuệ hiện tiền, đoạn trừ được những thô tướng nhiễm và tịnh thuộc về Tứ thánh đế, chứng nhập tính chân như vô nhiễm tịnh.
    • – Viễn hành địa: Bồ tát tu tập hết thảy các pháp thuộc thành phần của tuệ giác, giác ngộ được các thiền định Không, Vô tướng, Vô nguyện đoạn trừ và xa lìa sự chấp thủ tướng của các pháp một cách tinh tế, chứng nhập pháp chân như vô sai biệt, nên gọi là Viễn hành địa.
    • – Bất động địa: Bồ tát tu tập đạo thanh tịnh, lìa xa tâm, ý và thức, đạt được vô sanh pháp nhẫn. Tâm bất động đối với phiền não, chứng nhập tính chân như bất tăng bất giảm, nên gọi là Bất động địa.
    • – Thiện huệ địa: Bồ tát tu tập vô lượng trí, quán sát cảnh giới chúng sanh, biết đúng như thật, thành tựu được trí tuệ vô ngại biện tài, diễn nói các pháp một cách vô ngại, khiến chúng sanh đều được lợi ích, không bị ngăn ngại. Bồ tát chứng đạt địa vị này là thành tựu trí tuệ tự tại đối với chân như, nên gọi là Thiện huệ địa.
    • – Pháp vân địa: Bồ tát tu tập vô lượng trí tuệ, quán sát và hiểu rõ tam muội hiện tiền, giác ngộ đại pháp, khởi tâm đại bi trùm khắp không gian, ví như vầng mây lớn, che chở hết thảy chúng sanh, chứng nhập chân như nghiệp tự tại. Nghĩa là Bồ tát ở vào địa vị này, giải thoát hết thảy mê lầm liên hệ nghiệp mà mọi hành động đều tương ứng với chân như. Bồ tát chứng nhập chân như này, gọi là Pháp vân địa.
  • 6- Đẳng giác hạnh: Đẳng giác hạnh còn gọi là Đẳng chánh giác, Hữu thượng sĩ, Nhất sanh bổ xứ, Kim cang tâm, Lân cực… 
Đây là địa vị 51, địa vị cuối cùng trong tiến trình tu tập của Bồ tát. Bồ tát tu tập đạt đến địa vị này, nhân và hoa thì ngang bằng với Phật, nhưng quả giác ngộ, thì chưa bằng Phật. 
Quả vị cao nhất của Bồ tát là Đẳng giác. Trong lúc quả Phật là Toàn giác hay Chánh biến giác. Ây là quả vị chứng nhập thực tế hoàn toàn. 
Địa vị Bồ tát Đẳng giác mới tham dự vào biên cương của thực tế, nhưng chưa chứng nhập thực tế hoàn toàn, nghĩa là mới tham dự vào biên cương giác ngộ và chưa thể hội nhập với cảnh giới giác ngộ hoàn toàn của chư Phật, nên gọi là Đẳng giác.
*

Chủ yếu:

Muốn chứng nhập thực tế, Bồ tát không những buông bỏ ngôn ngữ, mà còn buông bỏ mọi tác nhân tạo thành ngôn ngữ; không những vậy, mà Bồ tát còn phải buông bỏ hết thảy tài năng biện tài của mình. Bồ tát thành tựu Tứ vô ngại biện là vì lợi ích chúng sanh, chứ không phải chứng nhập thực tế.

Chứng nhập thực tế, thì chỉ có chánh biến giác mà không phải chỉ có giác và ý niệm về giác. Giác và ý niệm về giác còn đứng xa ngàn dặm ngoài cửa ngõ thực tế, huống hồ gì ngôn ngữ của giác do tâm thức duyên cảnh mà biểu hiện. Ngôn ngữ do tâm thức duyên cảnh mà biểu hiện, cho dù biện tài đến mấy, thì vẫn xa cách thực tế đến cả vạn trùng!

Tâm đã kẹt mắc vào thế giới ý niệm, thì dù có biện tài về cơ, vẫn xa cách có ngàn trùng, dù có biện tài về không, thì vẫn xa cách không muôn dặm, huống gì bàn luận về không phải có, không phải không; không phải không có; không phảỉ không không, Bồ đề hay niết bàn…!

Chủ yếu của phẩm này, đức Phật dạy Bồ tát Đại Lực buông bỏ mọi ý niệm để chứng nhập thực tế. Tâm vô trú đối với ngã và pháp, đối với phi ngã và phi pháp thì thực tế hiện tiền. Niệm đã buông, thì ngay đó là thực tế mà không cần phải chứng nhập. Tâm thì lúc nào cũng thực tế và hiện tiền, nhưng do những chủng tử bản hữu và tân huân vận hành nơi tâm, khuấy động tâm thành thức, khiến gió và sóng thức hiện khởi, làm cho biển tâm bị xao động và ô nhiễm bởi ảnh tượng của các trần. Buông bỏ mọi tri kiến nhận thức về ngã hay phi ngã, về pháp hay phi pháp, thì chân tâm hay thực tế hiện tiền. Ấy gọi là nhập thực tế.
***

Phẩm thứ sáu: Chân Tánh Không

Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất bạch Phật rằng:
Bạch đức Thế Tôn!
Tu đạo Bồ tát, không có danh tướng, không có các phép tắc ở trong ba tụ tịnh giới, làm thế nào để dạy dỗ và nhiếp thọ chúng sanh? Nguyện xin Ngài từ bi chỉ dạy cho con!

Đức Phật dạy:
Này thiện nam tử! Ông hãy lắng nghe, tôi sẽ vì ông mà nói.
Này thiện nam tử! Các pháp thiện hay bất thiện đều từ nơi tâm mà sinh khởi. Tất cả phân biệt của ý nghĩ và lời nói, đối với các cảnh giới đều phải được hạn chế tại nhất xứ và cắt đứt các duyên. Vì sao? Này thiện nam tử! Một gốc không khởi, thì ba dụng không thể thi thiết, an trú đúng nơi lý chân như, ngăn cửa ngõ của sáu đường, tùy thuận với chân như ở nơi bốn duyên là đầy đủ cả ba tụ tịnh giới.

Tôn giả Xá-lợi-phất thưa:
Thế nào là thuận chân như ở nơi bốn duyên, đầy đủ cả ba tụ tịnh giới?

Đức Phật dạy:
  • 1- Tác trạch diệt lực thủ duyên (Duyên thủ đắc giới do năng lực tác pháp có chọn lựa): Đó là Nhiếp luật nghi giới.
  • 2- Bản lợi tịnh căn lực sở tập khởi duyên (Duyên do chứng đắc bản giác mà khởi lợi hành, cùng duyên với trí lực thanh tịnh căn bản mà được tập khởi): Đó là Nhiếp thiện pháp giới.
  • 3- Bản tuệ đại bi lực duyên (Duyên vào tuệ giải từ bản giác, mà năng lực đại bi phát khởi): Đó là Nhiếp chúng sanh giới.
  • 4- Nhất giác thông trí lực duyên (Do đạt được giác ngộ nhất tâm và duyên vào năng lực thông đạt Phật trí, rồi thuận theo tướng của chân như mà an trú): Đó là An trú thuận theo chân như. Ấy gọi là bốn duyên.
Này thiện nam tử!
Năng lực của bốn đại duyên như vậy không mắc kẹt ở nơi sự tướng, nhưng không phải là không có công dụng, lìa khỏi một xứ, thì không thể mong cầu.
Này thiện nam tử!
Một việc như vậy, bao gồm thông cả sáu hạnh, nó là biển cả tuệ giác của Phật.

Tôn giả Xá-lợi-phất thưa:
Không mắc kẹt sự tướng, không phải là không có công dụng, ấy là pháp thường, lạc, ngã, tịnh của chân không, siêu việt hai chấp ngã, là đại bát Niết bàn, tâm không bị lệ thuộc, đó là năng lực quán chiếu rộng lớn và trong năng lực giác và quán ấy, gồm đủ ba mươi bảy phẩm pháp trợ đạo.

Đức Phật dạy:
Đúng như vậy. Chúng đầy đủ ba mươi bảy phẩm pháp trợ đạo. Vì sao? Vì Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề phần, Bát chánh đạo,… tuy gọi nhiều tên, nhưng cùng một nghĩa, không phải đồng nhất, không phải dị biệt, tuy dùng danh số, nhưng chỉ là tên gọi và chữ nghĩa. Pháp không thể nắm bắt, văn tự không thể nào nắm bắt được một nghĩa nào của pháp. Nghĩa của hình thức không văn tự là không-tánh chân thực. Nghĩa không-tánh là như thực, như như. Lý của như-như đầy đủ hết thảy pháp.
Này thiện nam tử! Người nào an trú nơi lý chân như, người ấy vượt qua ba biển khổ.

Tôn giả Xá-lợi-phất thưa:
Hết thảy vạn pháp đều là văn tự, ngôn ngữ. Tướng của ngôn ngữ, văn tự chính nó không phải là nghĩa. Nghĩa đúng như thực thì không thể giảng nói. Nay, việc thuyết pháp của Như lai là thế nào?

Đức Phật dạy:
Ta thuyết pháp là vì do Tôn giả và chúng sanh ở trong sanh tử mà thuyết. Thuyết pháp mà không thể thuyết, đó mới gọi là thuyết pháp. Ý nghĩa và lời nói được ta thuyết không phải là văn. Ngôn ngữ và văn tự của chúng sanh nói không phải là nghĩa. Ngôn ngữ không phải là nghĩa, vì nó đều là hư vô trống rỗng. Ngôn ngữ của hư vô, trống rỗng là ngôn ngữ không có ở nơi nghĩa. Ngôn ngữ không có ở nơi nghĩa đều là ngôn ngữ hư dối.
Ngôn ngữ nơi nghĩa chân như, là như- thực-không, chứ không phải trống không. Như- thực-không mà chẳng phải thực, vì nó lìa hẳn hai tướng đối đãi. Trung đạo mà không phải ở giữa. Pháp không phải là ở giữa, vì nó lìa hẳn cả ba tướng (tướng bên này, bên kia và ở giữa), không thấy có xứ sở.
Nói như và như như, như ấy không phải là hữu hay vô, không phải là hữu đối đãi với vô. Như, không phải là vô hay hữu, hay hữu không phải là hữu, mà như ấy, không ở nơi hữu hay vô gì cả. Vì vậy, thuyết mà không thuyết gì cả. Ngôn thuyết không ở nơi chân như, chân như không hiện hữu ở nơi chân như, nên mới gọi là chân như.

Tôn giả Xá-lợi-phất thưa:
Tất cả chúng sanh từ hạng Nhất xiển đề và tâm của hạng Nhất xiển đề, nên an trú vào những vị trí nào để đạt đến Như lai và thực tướng của Như lai?

Đức Phật dạy:
Từ nơi tâm của hạng Nhất xiển đề cho đến Như lai và thực tướng của Như lai, nên an trú ở trong năm vị trí:
  • – Tín vị: Tin tưởng rằng, chủng tử chân như ở trong thân này, bị vọng tưởng che lấp, buông bỏ tâm vọng tưởng là liền có tâm an tịnh, thanh bạch, nhận biết rõ ràng các thế giới chỉ là ngôn ngữ của tâm ý.
  • – Tư vị: Tư là thâm sát các cảnh giới, chỉ là ngôn ngữ của tâm ý. Các ngôn ngữ phân biệt của ý là tùy nơi tâm ý mà hiển bày. Các cảnh giới được thấy không phải là thức căn bản của tự ngã. Biết rõ thức căn bản này, không phải là pháp, không phải là nghĩa, không phải là chủ thể nắm giữ, không phải là đối tượng được nắm giữ.
  • – Tu vị: Tu là thường phát khởi và có khả năng phát khởi. Phát khởi và tu tập đồng thời, trước tiên là sử dụng trí tuệ chỉ đạo, để bãi trừ các chướng nạn, vượt ra khỏi mọi sự trói buộc và che lấp.
  • – Hành vị: Hành là siêu việt các địa vị tu tập. Tâm không còn thủ hay xả. Lợi căn cực tịnh, tâm đối với chân như không còn lay động, quyết định chứng kiến bản tánh chân thực, biết được Niết bàn rộng lớn của Như lai là rộng lớn ở nơi tự tánh chân thực rỗng lặng.
  • – Xả vị: Xả là không mắc kẹt ở nơi tánh rỗng lặng. Chánh trí linh hoạt lưu chuyển, ở nơi tướng chân như của đại bi, tướng không kẹt mắc nơi chân như. Đối với Tuệ giác vô thượng, tâm rỗng rang không thấy có chứng đắc, không thấy có xứ sở và ngằn mé của biên giới là đạt đến Như lai.
Này thiện nam tử!
Năm địa vị và sự giác ngộ duy nhất là chứng nhập lợi hành từ bản giác. Và nếu hóa độ chúng sanh là từ nơi xứ điểm căn bản này.

Tôn giả Xá-lợi-phất thưa:
Thế nào là từ nơi xứ điểm căn bản?

Đức Phật dạy:
Gốc vốn không gốc; xứ vốn không xứ; ngằn mé rỗng không, hội nhập như thực, mà tâm khởi tuệ giác là thành tựu viên mãn Thánh đạo. Vì sao? Này thiện nam tử! Ví như đưa tay nắm bắt không gian kia, dù không thể, nhưng không phải là không thể.

Tôn giả Xá-lợi-phất thưa:
Như điều Thế Tôn dạy: Việc làm đầu tiên là phải giữ lấy lợi hành từ bản giác, duy trì sự vắng lặng đối với các niệm. Các niệm vắng lặng là chân như. Các đức gom thâu và duy trì bao gồm vạn pháp, dung nhiếp viên mãn không hai, không thể nghĩ bàn, phải biết rằng pháp ấy, là trí tuệ siêu việt vĩ đại; là thần chú vĩ đại; là minh chú vĩ đại; là thần chú tối thượng và là thần chú không có gì có thể so sánh bằng.

Đức Phật dạy:
Đúng như vậy, đúng như vậy! Tánh-không của chân như, ngọn lửa trí tuệ của tánh-không ấy, thiêu đốt hết các phiền não trói buộc, là bình đẳng ở nơi bình đẳng đối với ba vị trí giác ngộ, với ba thân của diệu giác và ở trong chín thức sáng tỏ thanh tịnh, không có các ảnh tượng.
Này thiện nam tử!
Pháp ấy không lệ thuộc nhân, không lệ thuộc duyên, vì do tự thân của trí tuệ hoạt dụng, nên không phải là động, không phải là tịnh, vì là do hoạt dụng của tánh-không vậy. Nghĩa của pháp ấy không phải là có hay không, vì tướng của nó rỗng lặng, nên rỗng lặng vậy.
Này thiện nam tử!
Nếu giáo hóa chúng sanh, thì phải hướng dẫn cho họ quán chiếu để thể nhập nghĩa này. Người nào thể nhập được nghĩa này là người ấy thấy được Như lai.

Tôn giả Xá-lợi-phất thưa:

Quán chiếu ý nghĩa của Như lai là không bị mắc kẹt ở nơi các dòng chảy, không những vượt khỏi Tứ thiền mà còn siêu việt cõi trời hữu đảnh.

Đức Phật dạy:
Đúng như vậy, vì sao? Vì tất cả pháp đều thuộc về danh số, Tứ thiền cũng như vậy. Nếu người nào thấy Như lai, người ấy thấy tâm Như lai tự tại, thường tại trong chỗ cùng tột vắng lặng, không xuất, không nhập, vì trong và ngoài đều bình đẳng.
Này thiện nam tử!
Như các loại thiền quán kia đều là Tưởng không định, nên các loại thiền định ấy không phải là trở lại ở nơi chân như. Vì sao? Vì dùng chân như quán chiếu chân như, thì sự thực là không thấy có sự quán chiếu. Tướng của chân như là tướng của các tướng đã vắng lặng. Vắng lặng chính là ý nghĩa của chân như. Ví như người kia nghĩ đến thiền định là động mà không phải là thiền. Vì sao? Vì bản tánh của thiền là lìa xa vọng động, nó không phải là nhiễm, không phải là đối tượng bị nhiễm; không phải là pháp, không phải là ảnh tượng, lìa hẳn các loại phân biệt, vì nghĩa của nó là lợi hành từ bản giác.
Này thiện nam tử!
Thiền định có sự quán chiếu đối với chân như, mới gọi là thiền.

Tôn giả Xá-lợi-phất thưa:
Thật không thể nghĩ bàn! Như lai thường dùng pháp như thực để giáo hóa chúng sanh, nghĩa như thực như vậy là nghĩa rộng, văn nhiều, những chúng sanh có lợi căn mới có thể tu tập. Đối với những chúng sanh độn căn khó dùng tâm ý để thực hành. Phải dùng phương tiện nào để giúp đỡ những hạng độn căn hội nhập được sự thực này?

Đức Phật dạy:
Nên giúp đỡ những hạng độn căn, thọ trì một bài kệ bốn câu là nhập được nghĩa lý chân thực này. Tất cả Phật pháp, đều được tóm thâu trong một bài kệ bốn câu.

Tôn giả Xá-lợi-phất thưa:
Thế nào là một bài kệ bốn câu? Xin nguyện Ngài nói cho con!

Bấy giờ, Đức Thế Tôn, nói bài kệ rằng:
Nghĩa do nhân duyên sanh, nghĩa ấy diệt, không sanh; diệt các nghĩa sinh, diệt là nghĩa sanh, không diệt.
Bấy giờ, Đại chúng nghe Đức Phật nói bài kệ xong, đều rất hoan hỷ, cùng diệt trừ được các pháp liên hệ sanh diệt, sinh khởi biển trí tuệ tánh-không của Bát nhã.
*
Chú giải

Chú Giải

– Chân tánh không: Thực tánh của các pháp vốn rỗng lặng, không có thực ngã cũng không có thực pháp. Tánh không là bản thể của các pháp vốn như như, không sanh diệt, không thường đoạn, không lai khứ, không đồng nhất, không dị biệt, tánh ấy gọi là Chân tánh không.
– Tam tụ giới: Gọi đủ là Tam tụ tịnh giới. Nghĩa là giới luật thanh tịnh do đức Phật chế định, được gom thâu vào trong ba nhóm gồm:
  •  – Nhóm thuộc về nhiếp luật nghi. 
  • – Nhóm thuộc về nhiếp thiện pháp. 
  • – Nhóm thuộc về lợi ích chúng sanh.
    • – Nhóm giới thuộc về Nhiếp luật nghi: Hán gọi là Nhiếp luật nghi giới, Tự tính giới hay Nhất thiết Bồ tát giới. Những giới pháp phòng ngừa những điều ác xảy ra từ thân, miệng, ý, khiến cho thân, miệng, ý, chấm dứt mọi điều xấu ác, luôn luôn ở trong sự thanh tịnh. Nên, nhóm giới này là chính nhân của pháp thân. Thành tựu Nhiếp luật nghi giới là thành tựu Thanh tịnh pháp thân, vì sao? Vì pháp thân vốn thanh tịnh, nhưng do những điều xấu ác làm cho khuất pháp thân. Nay hành trì giới pháp này, điều ác tự diệt mất và pháp thân tự hiển lộ.
    • – Nhóm giới thuộc về Nhiếp thiện pháp: Hán gọi là Nhiếp thiện pháp giới, Thụ thiện pháp giới hay Nhiếp trì nhất thiết Bồ tát đạo giới. Nghĩa là giới pháp này, thúc đẩy thọ giả thực hành hết thảy điều lành. Vị tu tập đem thân, miệng, ý thực hành hết thảy điều lành và hồi hướng về Vô thượng Bồ đề, khiến thành tựu báo thân thanh tịnh.
    • – Nhóm giới thuộc về Nhiêu ích hữu tình: Hán gọi là Nhiêu ích hữu tình giới, Tác chúng sanh ích giới. Nghĩa là giới pháp này từ nơi tâm đại bi mà vận khởi nguyện và hạnh để làm lợi ích cho hết thảy chúng sanh. Thành tựu giới pháp này, hành giả sẽ thành tựu thiên bách ức hóa thân theo nguyện và hạnh để làm lợi ích cho hết thảy chúng sanh.
Ý nghĩa Tam tụ tịnh giới, ở kinh Kim cang Tam muội, đức Phật dạy cho Tôn giả Xá-lợi- phất rằng: “Này thiện nam tử! Các pháp thiện hay bất thiện đều từ nơi tâm mà sanh khởi. Tất cả phân biệt của ý nghĩ và lời nói, đối với các cảnh giới đều phải được hạn chế tại nhất xứ và cắt đứt các duyên. Vì sao? Này thiện nam tử! Một gốc không khởi, thì ba dụng không thể thi thiết, an trú đúng nơi chân như, ngăn cửa ngõ của sáu đường, tùy thuận với chân như ở nơi bổn duyên là đầy đủ cả ba tụ tịnh giới”. (Kim Cang Tam Muội Kinh, Đại Chính 9, tr370c ).

– Tùy thuận với chân như ở nơi bốn duyên đầy đủ cả ba tụ giới. Kinh giải thích như sau:

* Tác trạch diệt lực thủ duyên: Nghĩa là duyên thủ đắc giới, do năng lực tác pháp có lựa chọn. Đây là Nhiếp luật nghi giới.
* Bản lợi tịnh căn lực sở tập khởi duyên: Nghĩa là duyên do chứng đắc bản giác mà khởi lợi hành, cùng duyên với trí lực thanh tịnh căn bản mà được tập khởi. Đây là Nhiếp thiện pháp giới.
* Bản tuệ đại bi lực duyên: Nghĩa là duyên do dựa vào tuệ giải từ bản giác, mà năng lực đại bi phát khởi. Đây là Nhiếp chúng sanh.
* Nhất giác thông trí lực duyên: Nghĩa là do đạt được sự giác ngộ nhất tâm và duyên vào năng lực thông đạt Phật trí, rồi thuận theo tướng của chân như mà an trú. Đây là an trú thuận theo chân như. (Kim Cang Tam Muội Kinh, Đại Chính 9, tr 370c).
– Nhất-xiển-đề: Phạn văn Icchantika, Ecchantika. Hán phiên âm là Nhất-xiển-để- ca, Nhất-xiển-để-kha, A-điên-để-ca, A-xiển- để-ca… và dich là Đoan thiên căn, Tín bất cụ túc, Cực dục, Đại tham, Vô chủng tính, Thiêu chủng… nghĩa là hạng người đoạn tận thiện căn, không có cơ hội thành Phật, vì chủng tử thành Phật đã bị thiêu rụi bởi những điều cực ác.
Các kinh điển xuất hiện trước kinh Đại Bát Niết Bàn, thì nói Nhất-xiển-đề không thể thành Phật, vì đã đoạn tận thiện căn. Nhưng kinh Đại Bát Niết Bàn thì cho rằng, Nhất-xiển-đề cũng có thể thành Phật. Theo Đại Trang Nghiêm Kinh Luận, nêu lên hai loại xiển đề gồm: Hữu tính xiển đề và Vô tính xiển đề. Vô tính xiển đề, thì vĩnh viễn không có điều kiện để thành Phật, nhưng Hữu tính xiển đề, nhờ sức gia trì của Phật, nên cũng có cơ hội để thành Phật.

Kinh này, đức Phật dạy từ nơi tâm của hạng Nhất xiển đề đến Như lai và thực tướng của Như lai, nên an trú vào năm vị gồm:
* Tín vị: Nghĩa là tin tưởng rằng, chủng tử chân như ở trong thân này, bị vọng tưởng che lấp, buông bỏ tâm vọng tưởng là liền có tâm an tịnh, thanh bạch, nhận biết rõ ràng, các thế giới chỉ là ngôn ngữ của tâm ý.
*Tư vị: Thẩm sát các cảnh giới chỉ là ngôn ngữ của tâm ý.
* Tu vị: Thường phát khởi và có khả năng phát khởi sự tu tập. Biết sử dụng trí tuệ để vượt qua mọi sự che lấp và trói buộc.
* Hành vị: Siêu việt các địa vị tu tập. Tâm
không còn kẹt mắc vào ý niệm thủ hay xả. Biết rõ Niết bàn rộng lớn của Như lai là ở nơi tự tánh rỗng lặng chân thực.
* Xả vị: Xả là không còn mắc kẹt nơi tánh rỗng lặng; không mắc kẹt ở nơi sở đắc, ở nơi ngằn mé biên cương là đến Như lai. (Kinh Kim Cang Tam Muội, Đại Chính 9, tr 371a).

Như vậy, theo kinh Kim Cang Tam Muội, Nhất xiển đề có thể thành Phật, nếu họ an trú và thực hành năm vị đã nêu ra ở trên.
*

Chủ yếu

Ngài Xá-lợi-phất là bậc đại trí tuệ của hàng Thánh giả Thanh văn, xuất hiện ở trong phẩm này là biểu tượng rằng, tuy bên ngoài, Ngài đóng vai Thanh văn, nhưng nội tâm lại là Bồ tát thượng thừa đã liễu nhập chân tánh không, mà thuật ngữ kinh điển thường dùng là “nội bí Bồ tát, ngoại hiện Thanh văn”.
Chân tánh không là từ ngữ sử dụng để diễn tả nội dung của các ý nghĩa như Pháp thân, Phật tính, Niết bàn, Tịch tịnh.
Muốn thể nhập Chân tánh không hay Pháp thân, Phật tính, Niết bàn, Tịch tịnh, các hàng Bồ tát đều phải kinh qua pháp Tứ niệm xứ và không bị mắc kẹt ở nơi pháp này mà vô trú với pháp này.
Nhờ thực hành pháp Tứ niệm xứ với tâm vô trú, nên ngay nơi pháp hành Tứ niệm xứ, Bồ tát chứng nhập được Chân tánh không, chứng nhập được Pháp thân thường trú; chứng nhập được Niết bàn thường lạc; chứng nhập được Phật tính toàn giác thường trú; chứng nhập thể tính tịch tịnh của nội pháp, ngoại pháp, đều vô tự tánh, rỗng lặng, không sanh diệt.
Bồ tát quán chiếu thân với tâm vô trú, nên thấy rõ tánh của thân rỗng lặng, duyên khởi vô ngã, nên chứng nhập được pháp thân thường trú. Pháp thân thường trú chính là Chân tánh không.
Bồ tát quán chiếu các thọ với tâm vô trú, nên thấy rõ tánh của các thọ rỗng lặng, duyên khởi vô ngã, nên chứng nhập được Chân lạc thường trú. Chân lạc thường trú lưu xuất từ không – tuệ. Vì vậy, Bồ tát thấy rõ Chân lạc hay Niết bàn thường trú là Chân tánh không.
Bồ tát quán chiếu tâm với tâm vô trú, nên thấy rõ tự tánh của tâm vốn rỗng lặng. Các chủng tử vận hành trên tâm, chỉ là những ảnh tưởng duyên khởi vô ngã, do các căn trần tương tác với nhau mà lưu hiện, nên Bồ tát chứng nhập được Phật tánh thường trú. Vì vậy, Bồ tát thấy rõ Phật tánh thường trú là Chân tánh không.
Bồ tát quán chiếu nội pháp và ngoại pháp với tâm vô trú, nên thấy rõ tánh của nội pháp và ngoại pháp vốn tịch nhiên rỗng lặng, nhưng do nội pháp và ngoại pháp tương tác với nhau mà hiện khởi, nên Bồ tát chứng nhập thể tính tịch tịnh thường trú của hết thảy pháp. Vì vậy, Bồ tát thấy rõ thể tánh tịch tĩnh thường trú của hết thảy pháp là Chân tánh không.
Thực hành pháp Tứ niệm xứ, hay thực hành các pháp ở trong ba mươi bảy phẩm trợ đạo hay thực hành pháp lục độ, với tâm hữu trú, thì không thể đi vào thực tế, hội nhập với Chân tánh không. Trái lại, thực hành Tứ niệm xứ, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, lục độ với tâm vô trú, thì sẽ chứng nhập thực tế, ngộ nhập Chân tánh không.
Vô trú, nghĩa là Bồ tát hành pháp với tâm không chấp thủ ngã và pháp, nên Bồ tát ở đâu và lúc nào cũng ở trên thực tế và ngộ nhập Chân tánh không.
Chủ yếu ở phẩm này, Tôn giả Xá-lợi-phất là tiêu biểu cho những vị Thánh giả Thanh văn thực hành Tứ niệm xứ hay ba mươi bảy phẩm trợ đạo với tâm vô trú. Chính hành pháp với tâm vô trú, nên ngay đó là thực tế, và ngay đó mà ngộ nhập Chân tánh không.
***

Phẩm thứ bảy: Như Lai Tạng

Bấy giờ Trưởng giả Phạm Hạnh, từ chỗ ngồi đứng dậy bạch Phật rằng:
Bạch đức Thế Tôn!
Nghĩa sanh không diệt, nghĩa diệt không sanh, nghĩa chân như như vậy là tuệ giác của Phật. Bản tánh của tuệ giác là không phân biệt. Trí không phân biệt là biện biệt vô cùng.
Tướng vô cùng là vắng bặt sự biện biệt. Tướng của nghĩa như vậy là không thể nghĩ bàn. Ở trong không thể nghĩ bàn mới là không phân biệt.
Bạch đức Thế Tôn!
Hết thảy pháp số là vô lượng, vô biên. Tướng của pháp vô biên là từ nơi đệ nhất tánh nghĩa chân thực, chỉ có an trú nơi đệ nhất tánh, việc này như thế nào?

Đức Phật dạy:
Này Trưởng giả!
Các pháp do ta giảng dạy là không thể nghĩ bàn. Vì do những người mê lầm, nên mới có những phương tiện dìu dắt. Tất cả tướng của pháp là đều từ nơi trí tuệ đệ nhất nghĩa chân thực. Vì sao? Thí như một phố thị mở ra bốn cửa lớn, nhưng trong bốn cửa lớn này đều qui vào một phố thị. Cũng như các loại chúng sanh kia, tùy theo tâm ý mà nếm vào nhiều loại hương vị của chánh pháp, lại cũng là như vậy.

Trưởng giả Phạm Hạnh thưa:
Pháp nếu như vậy, thì con an trú ở nơi đệ nhất vị, để có thể thâu nhiếp hết thảy các vị.

Đức Phật dạy:
Đúng như vậy, đúng như vậy! Vì sao? Nghĩa chân thực của đệ nhất vị, ví như một biển lớn, tất cả các dòng đều chảy vào.
Này Trưởng giả!
Tất cả pháp vị, cũng giống như những dòng chảy kia, tên gọi, số lượng tuy có khác nhau, nhưng nước của chúng thì không khác. Nếu an trú ở nơi biển lớn, thì bao quát hết thảy sông ngòi. Cũng vậy, an trú ở nơi đệ nhất vị là thâu nhiếp hết thảy các vị.

Trưởng giả Phạm Hạnh thưa:
Hết thảy pháp chỉ có một vị, tại sao có con đường của ba thừa và trí tuệ ở nơi mỗi thừa lại có khác nhau?

Đức Phật dạy:
Này Trưởng giả!
Ví như các sông Giang, Hà, Hoài và biển, lớn nhỏ không giống nhau, cạn sâu khác biệt, vì vậy mà tên gọi của chúng không đồng. Nước ở trong sông Giang, gọi là Giang thủy; nước ở trong sông Hoài, gọi là Hoài thủy; nước ở trong sông Hà, gọi là Hà thủy, nhưng tất cả đều chảy về biển, thì gọi là nước biển. Các pháp ở trong ba thừa cũng lại như vậy, đều là ở nơi chân như, nên gọi là Phật đạo.
Này Trưởng giả!
An trú duy nhất nơi Phật đạo là chứng đạt ba hành.

Trưởng giả Phạm Hạnh thưa:
Thế nào là ba hành?

Đức Phật dạy:

1- Tùy sự thủ hành (Các sự tướng hiện tiền đều tuân thủ và thuận hành theo giác tánh).
2- Tùy thức thủ hành (Các thức uẩn đều tuân thủ và thuận hành theo giác tánh).
3- Tùy như thủ hành (Tuân thủ và thuận hành theo chân như).
Này Trưởng giả! Ba hành như vậy, là thâu nhiếp hết thảy pháp môn. Hết thảy pháp môn đều hội nhập vào ba hành này. Người nào chứng nhập ba hành này, người ấy ở nơi tướng rỗng lặng không sinh khởi. Người nào chứng nhập được như vậy, có thể bảo rằng, người ấy chứng nhập kho tàng của Như lai. Người nào chứng nhập kho tàng của Như lai, người ấy chứng nhập mà không có chứng nhập gì cả.

Trưởng giả Phạm Hạnh thưa:

Chứng nhập kho tàng của Như lai, thật không thể nghĩ bàn! Ví như mầm thành tựu quả chân thực, không có chỗ hội nhập. Năng lực lợi ích là từ nguồn giác. Chứng được nguồn giác là lợi ích thành tựu. Biên cương chân thực là chứng đắc nguồn giác. Vậy trí tuệ chứng đắc ấy là như thế nào?

Đức Phật dạy:
Trí tuệ chứng đắc ấy là vô cùng. Nhưng tóm lược mà nói, thì trí tuệ ấy có bốn. Những gì là bốn?
– Trí quyết định (Định trí): Nghĩa là trí ấy tùy thuận theo chân như.
– Trí không nhất định (Bất định trí): Nghĩa là trí phương tiện, sử dụng để phá trừ các bệnh cố chấp.
– Trí Niết bàn (Niết bàn trí): Nghĩa là trí tuệ loại trừ những cái biết thoáng chốc đối với lằn mức chân thực.
– Trí tuyệt đối (Cứu cánh trí): Nghĩa là trí tuệ chứng nhập Phật đạo toàn vẹn, như thực.
Này Trưởng giả! Tác dụng của bốn việc lớn như vậy, chư Phật quá khứ đã nói rằng, đó là chiếc cầu lớn, là bờ bến lớn, nếu hóa độ chúng sanh, nên dùng bốn trí ấy.

Này Trưởng giả! Nếu sử dụng bốn trí ấy là có đại dụng. Lại nữa, có ba việc lớn:
– Ở nơi ba loại thiền định (Tam tam muội): Trong ngoài không có xâm đoạt lẫn nhau.
– Đại, nghĩa và khoa (Đại nghĩa khoa): Đối với đại, nghĩa và khoa là tùy theo con đường mà có sự chọn lựa và quyết định.
– Tuệ định ở nơi chân như (Như tuệ định):Đối với tuệ định này đều sử dụng từ bi cùng làm lợi ích.
Thực hành ba việc như vậy, sẽ thành tựu bồ đề. Không thực hành ba việc như vậy, thì không thể nhập vào biển cả của bốn trí ấy và sẽ bị đại ma tùy tiện sai khiến.
Này Trưởng giả! Đại chúng của các ông, từ nay cho đến khi thành Phật, phải thường tinh cần tu tập, đừng để ngừng nghỉ, quên mất.

Trưởng giả Phạm Hạnh thưa:

Thế nào là ba loại thiền định?

Đức Phật dạy:
Ba loại thiền định gồm: – Thiền định ở nơi Không (Không tam muội). – Thiền định ở nơi Vô tướng (Vô tướng tam muội). – Thiền định ở nơi Vô tác (Vô tác tam muội). Đó là ba loại thiền định.

Trưởng giả Phạm Hạnh thưa:
Thế nào là đại, nghĩa và khoa?

Đức Phật dạy:
Đại là bốn đại chủng; Nghĩa là ấm (năm ấm hay năm uẩn), giới (18 giới), nhập (sáu nhập),… Khoa là căn bản thức. Ấy là đại, nghĩa và khoa.

Trưởng giả Phạm Hạnh thưa:
Sự nghiệp trí tuệ như vậy, thật không thể nghĩ bàn! Lợi mình, lợi người siêu việt ba cõi, không an trú Niết-bàn, dấn thân hành Bồ tát đạo. Hành tướng của pháp như vậy, là pháp sanh diệt, vì do có phân biệt. Nếu xa lìa phân biệt, là pháp không bị hoại diệt.

Bấy giờ, đức Như lai, muốn nhắc lại nghĩa này, liền nói bài kệ:
Pháp từ phân biệt sanh
lại từ phân biệt diệt
bặt dứt pháp phân biệt
là pháp không sinh diệt.
Bấy giờ, Trưởng giả Phạm Hạnh, nghe đức Phật nói bài kệ, tâm rất vui mừng, muốn diễn lại nghĩa ấy, liền nói bài kệ rằng:
Các pháp vốn tĩnh lặng
tĩnh lặng cũng không sanh
là các pháp sanh diệt
pháp ấy không vô sanh.
Kia không cùng với đây
vì còn có đoạn, thường
pháp này lìa cả hai
nhưng chẳng kẹt nơi một.
Nếu nói pháp có một
tướng ấy như mao luân
như lửa nước đảo lộn
do bị các hư vọng.
Nếu thấy không nơi pháp
pháp ấy đồng nơi không
như mù không ánh sáng
nói pháp như lông rùa.
Con nay nghe Phật nói
biết pháp chẳng hai bên
cũng chẳng mắc ở giữa
vì vậy, không vướng mắc.
Pháp được Như lai dạy
đều ở nơi vô trú
con từ chỗ vô trú
chốn ấy lễ Như lai.
Kính lễ tướng Như lai
trí như không, bất động
không kẹt, không xứ sở
kính lễ thân vô trú.
Con ở khắp nơi chốn
thường thấy các Như lai
nguyện xin các Như lai
vì con nói pháp thường.

Bấy giờ, đức Như lai dạy như thế này:
Này các thiện nam tử!
Quý vị hãy lắng nghe! Tôi sẽ vì quý vị mà nói pháp thường trú.
Này thiện nam tử!
Pháp thường là pháp phi thường, không ngôn thuyết, cũng không chữ nghĩa, không phải thực, không phải giải thoát, không phải không, không phải cảnh giới, lìa hẳn các lằn mức hư vọng, đoạn diệt. Pháp ấy là thường, vì nó xa lìa các kiến chấp thường, đoạn. Thấy rõ thức là thường, vì liễu chứng tự tánh của thức thường vắng lặng. Vắng lặng ngay cả sự vắng lặng.
Này các thiện nam tử! Người nào biết pháp vắng lặng, mà tâm không vắng lặng, thì hãy nên thường vắng lặng nơi tâm. Người nào chứng đắc pháp vắng lặng, tâm của người ấy thường ở trong chân như mà quán chiếu, biết rõ các loại danh và sắc chỉ là do tâm si mê. Do tâm si mê mà có phân biệt. Sự phân biệt đối với các pháp lại không có gì khác biệt đối với việc xuất hiện của danh và sắc. Biết rõ các pháp như vậy, nên không chạy theo ngôn ngữ, văn tự. Nghĩa của tâm là ở nơi tâm không phân biệt ngã. Biết ngã chỉ là tên gọi giả định là chứng đắc Niết-bàn. Chứng đắc Niết-bàn là chứng đắc Tuệ giác Vô thượng.

Bấy giờ, Trưởng giả Phạm Hạnh, nghe lời đức Phật dạy như vậy, liền nói bài kệ:
Việc phân biệt danh, tướng
và pháp gọi là ba
chánh diệu trí, chân như
tất cả chúng thành năm.
Con nay biết pháp ấy
bị trói bởi đoạn, thường
vào nơi đường sanh diệt
là đoạn, không phải thường.
Như lai dạy pháp-không
lìa xa nơi thường, đoạn
nhân duyên pháp có sanh
không sanh, nên không diệt.
Chấp nhân duyên là có
như hoa đốm không trung
ví như con thạch nữ
hoàn toàn không thể có.
Lìa chấp các nhân duyên
không từ cái khác diệt
nghĩa, đại nơi tự thân
thực chứng dựa chân như.
Do đó, pháp chân như
thường như như, tự tại
vạn pháp hết cả thảy
biểu hiện không như thức.
Lìa thức, pháp tức không
nên nói từ không-xứ
dứt các pháp sanh diệt
an trú nơi Niết-bàn.
Đấng đạt được Đại bi
Niết bàn tĩnh, không trú
chuyển chấp thủ mình, người
vào ở Như lai tạng.

Bấy giờ, Đại chúng nghe nói nghĩa ấy rồi, đều được chánh mạng, nhập vào biển cả Như lai tạng ngay ở nơi Như lai.
*
Chú giải

Chú Giải

– Như lai tạng: Phạn văn Tathāgata-garbha.
Tathāgata, có nghĩa là Như lai. Như là tự tánh thanh tịnh. Lai là từ nơi tự tánh thanh tịnh mà biểu hiện. Như lai là từ nơi tự tánh thanh tịnh mà biểu hiện, nên lúc nào và ở đâu cũng Như, nên gọi là Như lai. Garbha, có nghĩa kho tàng. 
Kho tàng ở đây có ba nghĩa.
  • – Ân tàng, nghĩa là hàm tàng bản tánh chân thật. 
  • – Hàm nhiếp, nghĩa là thâu nhiếp hết thảy công đức. 
  • – Xuất sanh, nghĩa là nơi phát khởi của chánh trí. 
Như vậy, Tathàgata – garbha hay Như lai tạng là kho tàng Như lai chứa đựng tự tánh thanh tịnh, thâu nhiếp, lưu trữ hết thảy công đức và là nơi chánh trí xuất khởi.
Kho tàng ấy, xưa nay vốn ẩn tàng ở trong thân tâm của hết thảy chúng sanh, dù bị phiền não che khuất, nhưng không bị phiền não làm cho ô nhiễm. Bản tánh của Như lai tạng là thanh tịnh tuyết đối, không sanh, không diệt.
Nên, Như lai tạng cũng có nghĩa là pháp thân Như lai hay tự tánh thanh tịnh nơi hết thảy chúng sanh.
Lục Tổ Huệ Năng dạy: “Nào có ngờ đâu, tự tánh xưa nay vốn thanh tịnh; tự tánh vốn không sanh diệt; tự tánh vốn đầy đủ hết thảy công đức; tự tánh vốn không lay động; tự tánh năng sanh vạn pháp!”. (Pháp Bảo Đàn Kinh, tr 349a, Đại Chính 48). Ấy là Tổ nói về Tự tánh của Như lai tạng vậy.
Như lai tạng có hai loại. Như lai tạng tính và Như lai tạng tướng. Như lai tạng tính thì lúc nào và ở đâu cũng thanh tịnh. Như lai tạng tướng thì tùy duyên sanh khởi, nên có đủ cả nhiễm và tịnh, có đủ cả Bồ đề và phiền não, sanh tử và Niết bàn.

– Ba hành: Ba hành là ba phương pháp thực hành để thể nhập Như lai tạng tánh. Ba phương pháp ấy gồm:
  • 1- Tùy sự thủ hành: Các sự tướng hiện tiền đều tuân thủ và thuận hành theo giác tánh. Nghĩa là hành giả tâm luôn luôn ở trong trạng thái bất động và tỉnh giác, biết rõ muôn sự, muôn vật trước mặt không ra ngoài giác tánh. Nghĩa là không ra ngoài Như lai tạng tánh. Tất cả chúng đều từ Như lai tạng mà biểu hiện. Duyên theo sự tướng huyễn hoặc trước mắt mà chuyển hóa cái thấy biết, trở lại với giác tánh, nên gọi là Tùy sự thủ hành.
  • 2- Tùy thức thủ hành: Các thức uẩn đều tuân thủ và thuận hành theo giác tánh. Nghĩa là bảy chuyển thức gồm: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỷ thức, Thiệt thức, Thân thức, Ý thức và Mạt- na thức từ nơi A-lại-da thức mà hiện hành, tiếp nhận ảnh tượng của các đối tượng sắc trần, đưa vào A-lại-da thức, huân tập thành chủng tử và lưu giữ tại A-lại-da thức, khiến A lại da thức bị ô nhiễm. Nên, hành giả trú tâm bất động và tỉnh giác đối với các chuyển thức ấy, biết rõ ba cõi chỉ do tâm tác thành, muôn pháp là từ nơi A- lại-da thức tùy duyên mà biểu hiện. Chúng hiện hữu, nhưng không chân thật. Bản tánh của nó rỗng không, hoàn toàn không có thực thể. Tùy thuận giác tánh mà chuyển hành các thức như vậy, sẽ chứng nhập Như lai tạng tánh, nên gọi là Tùy thức thủ hành.
  • 3- Tùy như thủ hành: Tuân thủ và thuận hành theo chân như. Nghĩa là hành giả không duyên theo vọng tưởng, khởi các niệm tương tục sanh diệt mà thuận theo chân như, niệm niệm tương tục thanh tịnh, tỉnh giác bất động, ngay nơi các hành mà động tịnh đều ly, ngay nơi duyên sanh mà bất sanh, ngay nơi duyên diệt mà bất diệt, tĩnh tại thường nhiên ở trong Như lai tạng tánh, gọi là Tùy như thủ hành.
Trong kinh này, đức Phật dạy Trưởng giả Phạm Hạnh rằng: “Ba pháp hành như vậy là thâu nhiếp hết thảy pháp môn. Hết thảy pháp môn đều thâu nhiếp vào ba pháp hành này.
Người nào chứng nhập ba hành này, người ấy ở nơi tướng rỗng lặng không sanh khởi. Người nào chứng nhập được như vậy, có thể bảo rằng, người ấy chứng nhập kho tàng của Như lai. Người nào chứng nhập kho tàng của Như lai, người ấy chứng nhập mà không chứng nhập gì cả (Kim Cang Tam Muội Kinh, Đại Chính 9, tr 372a).
*

Chủ yếu

Chủ yếu phẩm này, đức Phật khai thị Tự tánh thanh tịnh, ngay trong phiền não ô nhiễm hay Bồ đề ngay trong phiền não, Niết bàn ngay trong sanh tử cho Đại chúng, mà đương cơ là Trưởng giả Phạm Hạnh. Muốn nhập Như lai tạng phải có trí tuệ chân thật mới ngộ nhập. Trí tuệ chân thật là trí tuệ có khả năng chuyển hóa phiền não thành Bồ đề; chuyển hóa sanh tử thành Niết bàn và thấy rõ Bồ đề hay Niết bàn là Tự tánh thanh tịnh và thấy rõ Tự tánh thanh tịnh ngay nơi bản tánh ô nhiễm của chúng sanh.
Như lai tạng vắng lặng tịch nhiên là do bảy chuyển thức vắng bặt không còn nhân duyên khởi hiện. Năm thức đầu đã chuyển hóa thành những thành phần của trí tuệ. Duy thức học gọi trí này là Thành sở tác trí. Thức thứ sáu chuyển thành trí tuệ quán sát đến chỗ tinh tế, thấy rõ ngã pháp vốn rỗng không, không có tự ngã trong hiện tiền. Duy thức gọi trí này là Diệu quán sát trí. Thức thứ bảy chuyển thành trí tuệ, thấy rõ tánh tướng của thức A-lại-da, vốn bình đẳng rỗng không, không có thực ngã và không có thực pháp, ngã và pháp, tánh và tướng vốn bình đẳng tịch lặng rỗng không. Duy thức học gọi trí này là Bình đẳng tánh trí. Thức thứ tám, tức là A-lại-da thức không còn bị bảy thức khuấy động, mà bảy thức đã chuyển hóa thành Thành sở tác trí, Diệu quán sát trí và Bình đẳng tánh trí, thì mọi hạt giống nhiễm tịnh ở A-lại- da thức đều tự chuyển và hoàn toàn tuyệt bặt. A-lại-da thức bấy giờ như một tấm gương sáng tròn đầy, bất động, vô nhiễm, tự tỏa sáng và soi chiếu cùng khắp tức thì, mà không đến không đi. Duy thức gọi trí này là Đại viên cảnh trí.
Tướng phần của thức A-lại-da do bị thức thứ bảy chấp thủ làm tự ngã, khiến cho tướng phần của thức này bị ô nhiễm. Tuy, tướng phần của thức A-lại-da bị ô nhiễm, nhưng tự tánh của thức này không bị ô nhiễm. Tự tánh không ô nhiễm của thức này, gọi là Như lai tạng, còn gọi là Bạch tịnh thức, Vô cấu thức hay Yêm- ma-la thức.
Trưởng giả Phạm Hạnh xuất hiện ở phẩm này là tiêu biểu cho đương cơ, thể chứng tự tánh thanh tịnh, rỗng lặng ngay trong trần lao ô nhiễm. Nghĩa là biểu tượng rằng, tuy ở trong thế gian mà vẫn sống Phạm Hạnh, tức là vẫn hằng sống với tự tánh thanh tịnh của Như lai. Nghĩa là Như lai tạng tánh, bị bao phủ bởi vô biên phiền não, nhưng vẫn thanh tịnh và tuy bị khuấy động bởi các sóng thức ở biển cả A- lại-da, nhưng tự tánh Như lai vẫn bất động. Nên, trong Cư trần lạc đạo phú, Phật hoàng Trần Nhân Tông nói: “Cư trần lạc đạo thả tùy duyên”, là nội hàm nghĩa lý sâu xa này vậy.
Vì vậy, chủ yếu phẩm này, đức Phật khai thị cho Đại chúng về Tự tánh thanh tịnh hay Như lai tạng tánh ngay trong tâm ô nhiễm của hết thảy chúng sanh và chỉ dạy ba pháp hành để thể nhập Như lai tạng tánh.
***

Phẩm thứ tám: Tổng Trì

Bấy giờ, Bồ tát Địa Tạng từ trong hội chúng đứng dậy, đến trước đức Phật, quỳ gối chắp tay mà bạch đức Phật rằng:
Bạch đức Thế Tôn!
Con quán chiếu thấy tâm của đại chúng có những việc nghi ngờ, chưa có dứt khoát. Nay, Như lai muốn loại trừ những nghi ngờ, và nay con sẽ vì đại chúng, tùy theo những điều nghi ngờ ấy mà thưa hỏi, nguyện xin Ngài từ bi, xót thương chấp nhận.

Đức Phật dạy:
Này Đại sĩ Bồ tát! Ông có khả năng cứu độ chúng sanh như vậy, tâm lân mẫn đại bi của ông là không thể nghĩ bàn, ông nên hỏi rộng rãi, Như lai sẽ vì ông mà giảng dạy.

Bồ tát Địa Tạng thưa:
Vì sao hết thảy mọi pháp không là duyên sanh? Bấy giờ, đức Như lai, muốn nhắc lại nghĩa này, nên nói bài kệ rằng:

Nếu pháp sanh bởi duyên
ngoài duyên không có pháp
thế nào pháp tánh không
mà duyên sanh khởi pháp?

Bấy giờ, Bồ tát Địa Tạng thưa:

Pháp, nếu không sanh, tại sao nói từ nơi tâm sinh khởi mọi pháp?

Bấy giờ, đức Thế Tôn, liền nói bài kệ rằng:

Pháp được sanh từ tâm
pháp kẹt ta và người
mắt lòa thấy hoa đốm
pháp như nhiên không vậy.

Bấy giờ, Bồ tát Địa Tạng thưa:
Pháp, nếu là như vậy, thì pháp không có đối đãi. Pháp không có đối đãi là pháp tự nhiên thành.

Bấy giờ, đức Thế Tôn, liền nói bài kệ rằng:

Pháp vốn không hữu, vô
tự, tha cũng như vậy
không đầu, cũng không cuối
thành, bại đều không kẹt.

Bấy giờ, Bồ tát Địa Tạng thưa:
Hết thảy tướng của các pháp vốn là Niết bàn. Niết bàn và tướng rỗng lặng cũng là như vậy. Mọi pháp không có thực thể là pháp thích ứng với chân như.

Đức Phật dạy:
Không có pháp nào như vậy, chính pháp là chân như.

Bồ tát Địa Tạng thưa:
Thật không thể nghĩ bàn! Tướng của chân như như vậy, không phải là cùng hay không cùng với nắm bắt của ý hay nắm bắt của nghiệp mà chính nó là rỗng lặng. Tâm và pháp đều là rỗng lặng, đều là không thể nắm bắt, thì ý hay nghiệp cũng đều nên rỗng lặng.

Bấy giờ, đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Hết thảy pháp rỗng lặng
pháp lặng, nhưng chẳng rỗng
khi nào tâm chẳng rỗng
thì được tâm chẳng có.

Bấy giờ, Bồ tát Địa Tạng thưa:
Pháp ấy không phải là ba sự thực, sắc, không và tâm cả ba đều vắng lặng. Pháp vốn vắng lặng là pháp vắng lặng.

Bấy giờ, đức Thế Tôn liền nói bài kệ rằng:

Pháp vốn không tự tánh
do diệt mà có sanh
nếu không có chỗ sanh
như vậy diệt chỗ nào.

Bấy giờ, Bồ tát Địa Tạng thưa:
Hết thảy pháp không sanh, không diệt, vì sao chúng không phải là một?

Bấy giờ, đức Thế Tôn, liền nói bài kệ rằng:

Pháp trú xứ không xứ
tướng thường rỗng, nên không
nêu tên pháp làm hai
liền kẹt ta và người.

Bấy giờ, Bồ tát Địa Tạng thưa:
Hết thảy tướng của các pháp, không kẹt ở hai bờ, cũng không kẹt ở giữa dòng, tâm thức cũng như vậy. Tại sao các cảnh giới được biểu hiện từ thức? Nếu thức có thể sanh, thì các thức cũng từ đó mà sanh, tại sao lại bảo rằng, thức không sanh mà lại có chủ thể sanh và đối tượng được sanh?

Bấy giờ, đức Thế Tôn liền nói bài kệ rằng:

Hai pháp năng và sở
cùng hai duyên năng, sở
mỗi loại đều vốn không
chấp có, không đều huyễn.
Khi thức chưa khởi sanh
thì cảnh cũng không sanh
vào lúc cảnh chưa sanh
lúc ấy thức cũng diệt.
Cảnh và thức vốn không
cũng không có hữu, vô
thức vô sanh cũng không
cảnh lấy đâu mà có.

Bấy giờ, Bồ tát Địa Tạng thưa:
Pháp tướng như vậy, trong ngoài đều rỗng lặng, hai chúng cảnh và trí xưa nay thường vắng lặng. Thực tướng được nói bởi Như lai là pháp chân không như thế không phải là tập khởi?

Đức Phật dạy:
Đúng như vậy. Pháp như thực không phải là sắc, không phải là trú, không phải là đối tượng tập khởi, không phải là chủ thể tập khởi, không phải là văn, không phải là nghĩa, chỉ một pháp loại bản nhiên, tích tụ công đức sâu xa.

Bồ tát Địa Tạng thưa:
Thật không thể nghĩ bàn! Tích tụ thật không thể nghĩ bàn! Thức thứ bảy và năm thức trước không sanh; thức thứ tám và thức thứ sáu vắng lặng; tướng của thức thứ chín rỗng lặng đối với vô, đối với hữu, rỗng lặng đối với vô hữu, rỗng lặng đối với vô không hay đối với vô hữu. Như đức Thế Tôn dạy, nghĩa và pháp đều rỗng lặng, chứng nhập vô hành nơi rỗng lặng, các nghiệp không mất, không có ngã và liên hệ ngã. Thân kiến gồm cả chủ thể và đối tượng, các phiền não trong hay ngoài đều vắng lặng, các ước muốn đều dứt, quán chiếu lý tính như vậy, định và tuệ đều ở nơi chân như. Đức Thế Tôn thường dạy, pháp như thực, rỗng lặng là lương dược.

Đức Phật dạy:
Đúng như vậy. Vì sao? Vì pháp tánh rỗng lặng. Tánh rỗng lặng không sanh, nên tâm thường không sanh. Tánh rỗng lặng không diệt, nên tâm thường không diệt. Tánh rỗng lặng không trú, nên tâm cũng không trú. Tánh rỗng lặng vô vi, nên tâm cũng vô vi. Rỗng lặng, nên không có ra hay vào, lìa hẳn các thứ được, mất. Các uẩn, nhập và giới,… cũng đều là không, tâm không kẹt ở nơi chân như cũng lại như vậy.
Này Bồ tát! Tôi nói pháp không, là vì để phá trừ các loại chấp có.

Bồ tát Địa Tạng thưa:
Bạch đức Thế Tôn!
Biết có, nhưng không phải là thực, vì chúng như sóng nắng. Biết thực, nhưng không phải là không, vì chúng như tánh lửa sinh.
Người nào quán chiếu được như vậy là người có trí tuệ.

Đức Phật dạy:
Đúng như vậy. Vì sao? Vì người ấy là người có sự quán chiếu chân thực. Quán chiếu tướng cùng với chẳng phải tướng, đều là nhất như bình đẳng, vắng lặng. Vì rỗng lặng sự chấp thủ nơi không và do tu pháp rỗng lặng, nên được thấy Phật. Do thấy được Phật, nên không có chảy theo ba dòng. Ba con đường giải thoát ở trong Đại thừa, đều nhất thể không có tự tánh. Vì không có tự tánh, nên không; vì không, nên vô tướng; vì vô tướng, nên vô tác; vì vô tác, nên vô cầu; vì vô cầu, nên vô nguyện; vì vô nguyện, nên biết rõ nghiệp, cần phải tịnh tâm; vì tâm thanh tịnh, nên thấy được Phật; do thấy được Phật, liền sanh tịnh đô.
Này Bồ tát! Ở nơi pháp thâm diệu này, tinh cần tu tập đối với ba pháp chuyển hóa, định và tuệ viên thành là siêu việt ba cõi.

Bồ tát Địa Tạng thưa:
Như đức Phật dạy, không phải sinh, không phải diệt là không phải thường. Diệt là sanh và diệt, sanh và diệt đã diệt, thì vắng lặng là thường, vì thường, nên không đoạn, gọi là pháp bất đoạn. Xa lìa các pháp biến động và bất biến động nơi ba cõi. Đối với pháp hữu vi tránh xa như hầm lửa, thì dựa vào pháp nào để tự trách mình, để chứng nhập một pháp môn ấy?

Đức Phật dạy:
Này Bồ tát! Đối với ba việc lớn, thì hãy tự soi xét tâm mình; đối với ba sự thực rộng lớn, thì nên nhất hành mà chứng nhập.

Bồ tát Địa Tạng thưa:
Thế nào là ba sự kiện mà tự soi xét tâm mình? Và thế nào là ba sự thực, một hành mà chứng nhập?

Đức Phật dạy:
Ba sự kiện lớn gồm: 
  • 1- Nhân, 
  • 2- Quả, 
  • 3- Thức. 
Ba sự kiện lớn như vậy, vốn tự rỗng lặng, không thực thể, không phải là ngã hay chân ngã, tại sao đối với chúng lại sanh tâm ái nhiễm? Quán chiếu ba sự kiện ấy đều là do phiền não trói buộc, khiến luân chuyển ở trong biển khổ. Vì sự kiện như vậy, nên phải thường tự soi xét tâm mình.
Ba sự thực lớn gồm:
  • – Đạo bồ đề: Đó là sự thực bình đẳng, chứ không phải là không bình đẳng.
  • – Sự thực được chứng đắc do chánh trí của bậc Đại giác: Không phải tà trí mà chứng đắc được sự thực.
  • – Chứng nhập sự thực là do thực hành định và tuệ thuần nhất: Chứng nhập sự thực không phải là tạp hạnh.
Người nào dùng ba sự thực này mà tu tập Phật đạo, người ấy ngay nơi pháp này đều được Chánh giác, được trí tuệ của bậc Chánh giác, tâm từ bi cùng tột lưu chảy, mình và người đều lợi lạc, thành tựu tuệ giác của Phật.

Bồ tát Địa Tạng thưa:
Bạch đức Thế Tôn!
Pháp như vậy, không phải là nhân duyên. Nếu pháp không có duyên, thời nhân không thể khởi. Vậy, pháp bất động làm sao nhập vào Như lai?

Bấy giờ, Như lai muốn nhắc lại nghĩa này, liền nói bài kệ rằng:

Hết thảy tướng các pháp
tánh rỗng, không, bất động
pháp ấy ngay lúc ấy
ngay đó không khởi sinh.
Pháp không có dị thời
dị thời không có khởi
pháp không động, bất động
tánh rỗng, nên vắng lặng.
Tánh rỗng, khi vắng lặng
lúc ấy pháp tự hiện
lìa tướng, nên lặng yên
yên lặng, nên không duyên.
Các pháp do duyên khởi
pháp ấy duyên không sanh
không nhân duyên sanh diệt
sanh diệt tánh rỗng lặng.
Tánh duyên, duyên năng, sở
duyên ấy vốn duyên khởi
pháp khởi chẳng do duyên
duyên không khởi cũng vậy.
Pháp sanh do nhân duyên
pháp ấy là nhân duyên
tướng nhân duyên sanh diệt
pháp thì không sanh diệt.
Pháp thực tướng chân như
vốn không có sinh diệt
các pháp ấy đúng thời
nơi sanh diệt tự sanh.
Nên, bản thể rất tịnh
thể không do các lực
ngay chỗ được tiếp theo
được cái vốn đã được. 

Bấy giờ, Bồ tát Địa Tạng nghe đức Phật chỉ dạy, tâm rất vui mừng, và bấy giờ các thính chúng không còn có nghi ngờ gì nữa, biết rõ tâm của thính chúng như vậy, 
Bồ tát liền nói bài kệ rằng:

Con biết tâm chúng nghi
nên cố hỏi nhiều lần
Như lai bậc Đại Từ
biện biệt đều đầy đủ.
Cả hai thính chúng thảy
đều hiểu được rõ ràng
con nay nơi chỗ hiểu
giáo hóa khắp chúng sanh.
Theo Đại bi Như lai
không hề rời bản nguyện
địa ngục còn mọi người
vẫn ở nơi phiền não.

Bấy giờ, đức Như lai bảo đại chúng rằng: Vị Bồ tát này là không thể nghĩ bàn, hằng dùng tâm đại Từ, nhổ sạch khổ báo cho chúng sanh. Nếu có chúng sanh nào, thọ trì theo pháp ở trong kinh này và thọ trì danh hiệu của vị Bồ tát này, thì không đọa vào những sinh thú xấu ác, hết thảy tai nạn, nghiệp chướng đều được trừ diệt.
Nếu có chúng sanh nào, chuyên niệm kinh này, đúng như pháp tu tập, thì không còn tạp niệm.
Bấy giờ, liền được Bồ tát hóa thân thuyết pháp, ủng hộ cho người ấy trọn vẹn không buông bỏ, ngừng nghỉ, khiến họ mau chứng đắc Tuệ giác Vô thượng.
Hỡi quý vị Bồ tát! Nếu quý vị giáo hóa chúng sanh, thì nên khiến cho họ tu tập, pháp quyết định, nghĩa lý rốt ráo ở nơi Đại thừa như vậy.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước đức Phật bạch rằng:
Như lai dạy nhóm phước đức thuộc Đại thừa, quyết định chặt đứt phiền não, lợi hành từ bản giác vô sinh là không thể nghĩ bàn. Pháp như vậy, tên kinh gọi là gì? Thọ trì kinh này, công đức như thế nào? Nguyện xin đức Phật từ bi chỉ dạy cho con!

Đức Phật dạy:
Này thiện nam tử! Tên gọi của kinh này là Không thể nghĩ bàn, được sự hộ niệm của chư Phật quá khứ, có khả năng chứng nhập biển cả trí tuệ toàn giác của Như lai. Nếu có chúng sanh nào thọ trì kinh này, thì người ấy ở trong các kinh khác không còn có lòng mong cầu, vì pháp ở trong kinh này là nắm giữ toàn bộ hết kinh pháp, là thâu nhiếp tinh yếu của tất cả kinh, là tông chỉ của pháp ở nơi pháp của các kinh. Kinh tên là Kinh Nhiếp Đại Thừa; lại còn có tên là Kim Cang Tam Muội; còn gọi là Vô Lượng Nghĩa Tông. Nếu có người nào thọ trì kinh này, là chính người đó đang thọ trì công đức như thị của trăm ngàn chư Phật, ví như hư không không có ngằn mé, không thể nghĩ bàn. Chỉ có kinh điển này được ta phó chúc.

Tôn giả A-nan thưa:
Thế nào là tâm hành? Hạng người nào có thể thọ trì kinh này?

Đức Phật dạy:
Này thiện nam tử!
Người thọ trì kinh này là người tâm không còn được hay mất, thường tu tập hạnh thanh tịnh. Nếu ở nơi chỗ hý luận, thì thường ưa tĩnh tâm. Nếu đi vào xóm làng, thì tâm luôn luôn ở trong thiền định. Nếu ở tại nhà, thì không đắm chìm ba cõi. Người ấy trong đời hiện tại, có năm loại phước đức:
1- Được mọi người tôn kính.
2- Thân không bị chết yểu.
3- Giỏi đối đáp và biện luận với các tà luận.
4- Thích hóa độ chúng sanh.
5- Có khả năng chứng nhập Thánh đạo.
Người có năm phước đức như vậy, là do thọ trì kinh này.

Tôn giả A-nan thưa:
Người như vậy, hóa độ chúng sanh có được nhận sự cúng dường không?

Đức Phật dạy:
Người như vậy, có thể làm ruộng phước lớn cho các chúng sanh, thường thực hành đại trí, pháp môn phương tiện và pháp môn cứu cánh đều có thể diễn bày. Đối với những loại cúng dường, có thể y cứ vào bốn thánh chủng của Tăng, cho đến đầu, mắt, tủy, não cũng đều có thể thọ nhận, huống gì là những thứ y phục, thực phẩm sao lại không thể thọ nhận.
Này thiện nam tử!
Những người như vậy là thiện tri thức của ông, là chiếc cầu của ông, huống gì là những hạng phàm phu mà không cúng dường.

Tôn giả A-nan thưa:
Đối với những người thọ trì kinh này mà cúng dường cho họ thì phước đức như thế nào?

Đức Phật dạy:
Nếu có người đem vàng bạc chứa đầy cả thành phố mà bố thí, cũng không bằng người thọ trì một bài kệ bốn câu của kinh này. Cúng dường người thọ trì này, là không thể nghĩ bàn.
Này thiện nam tử!
Người nào khiến cho chúng sanh thọ trì kinh này, tâm của họ thường ở trong thiền định, không để quên mất bản tâm. Nếu quên mất bản tâm là họ liền sám hối. Pháp sám hối là dòng nước mát.

Tôn giả A-nan thưa:

Sám hối các tội từ trước, là không còn hội nhập với quá khứ.

Đức Phật dạy:
Đúng như vậy. Ví như ngôi nhà tối, nếu gặp được ánh đèn sáng là bóng tối liền diệt.
Này thiện nam tử!
Có bao nhiêu tội lỗi từ trước không nói những lời hối hận, ăn năn mà còn cho rằng, chúng thuộc vào quá khứ!

Tôn giả A-nan thưa:
Thế nào gọi là sám hối?

Đức Phật dạy:
Y vào giáo nghĩa của kinh này mà nhập vào pháp quán chiếu chân thực. Khi quán chiếu hội nhập với nhất tâm là các tội liền tiêu diệt, xa lìa mọi ác thú, sẽ sanh về cõi Tịnh độ, chóng thành Tuệ giác Vô thượng.
Đức Phật dạy kinh này xong. Bấy giờ, Tôn giả A-nan, các chúng Bồ tát, đại chúng bốn bộ đều rất vui mừng, tâm được quyết định, đảnh lễ chân Phật, hoan hỷ phụng hành.
*
Chú giải

Chú Giải

– Tổng trì: Tổng là thâu nhiếp. Trì là giữ gìn. Tổng trì là thâu nhiếp và giữ gìn hết thảy thiện pháp không để rơi mất. Tổng trì, tiếng Phạn là dhārani. Trong phẩm này, tổng trì có nghĩa thâu nhiếp hết thảy giáo lý hạnh quả từ phẩm Vô tướng cho đến phẩm Như lai tạng, tất cả đều được thâu nhiếp và duy trì ở trong phẩm này, nên phẩm này gọi là phẩm Tổng trì.
– Thức thứ bảy và thức thứ sáu đều có hai loại chấp là Câu sanh ngã chấp và Câu sanh pháp chấp. Chúng đều duyên vào hai loại tướng phần và kiến phần của tâm hữu lậu. Tướng phần và kiến phần đều từ thức thứ tám mà biểu hiện. Tướng phần là từ nơi kiến phần mà sanh khởi. Năm sắc căn ở trước cũng là tướng phần của thức thứ tám. Thức thứ bảy chỉ chấp thủ kiến phần của thức thứ tám làm tự ngã, nên thức thứ tám cùng dẫn sanh với thức thứ sáu. Tướng phần của thức thứ bảy và thức thứ sáu là sanh diệt liên tục, nhưng mà sở tri và sở kiến của thức thứ bảy và thứ sáu, chính là kiến phần của thức thứ tám. Vạn pháp thuộc thế gian và xuất thế gian không ra ngoài hai loại kiến phần và tướng phần của thức thứ tám này. Chỗ tột cùng của kiến phần và tướng phần của thức này là thể tánh của chân thức, nên nói thức thứ bảy và thứ sáu không sanh là vậy. (Tham khảo, Kim Cang Tam Muội Thông Tông Ký 8, tr 303b9, Tục Tạng Kinh 35).
– Theo Kim Cang Tam Muội Kinh Thông Tông Ký 11, Sa môn Tịch Chấn giải thích Thức thứ bảy và thức thứ sáu và cho rằng, Kim Cang Tam Muội Kinh ở Đại Chính, khắc lầm thức thứ sáu bằng tiền ngũ thức. Sa môn Tịch Chấn giải thích, thức thứ bảy và thức thứ sáu cùng một tỷ lượng, đều nhiếp vào pháp hữu vi. Pháp hữu vi vốn là sanh diệt. Nay trú ở vô vi, thì không có sanh diệt.
– Cũng theo Sa môn Tịch Chấn thức thứ tám và tiền ngũ thức, Kim Cang Tam Muội ở Đại Chính khắc lầm, thức thứ tám và thức thứ sáu. Và giải thích rằng, Thức thứ tám với năm thức trước đồng nhất hiện lượng, nhiếp vào tánh vô vi. Tự tánh vô vi vốn vắng lặng. Nên nói thức thứ tám và năm thức trước là tịch diệt.
– Thức thứ chín là Vô cấu thức hay Bạch tịnh thức, bản thể của thức này, tự nó vô tướng và rỗng lặng. (Tham khảo, Kim Cang Tam Muội Kinh Thông Tông Ký 11, tr 321bl8, Tục Tạng Kinh 35).
*

Chủ yếu

Phẩm này là nói quả vị giác hạnh viên mãn của Phật mà Bồ tát Địa Tạng là vị Bồ tát đương cơ, đã thể chứng Như lai tạng tánh. Bồ tát Địa Tạng là vị Bồ tát hàm tàng bản tánh chân thật, thâu nhiếp hết thảy công đức và nơi phát khởi của chánh trí. Từ nơi Như lai tạng tánh mà Bồ tát Địa Tạng phát khởi nguyện và hạnh cứu độ hết thảy chúng sanh, khiến cho tâm của chúng sanh trống rỗng mọi hạt giống chấp thủ ngã và pháp. Bồ tát Địa Tạng xuất hiện ở kinh này đóng vai trò là vị Bồ tát đã thành tựu địa vị Đẳng giác và có thể chứng nhập địa vị Diệu giác. Phẩm này đức Phật chỉ bày về địa vị Phật cho Đại chúng, mà Bồ tát Địa Tạng là vị Bồ tát đương cơ.
Quả vị Vô sở đắc là chủ yếu của phẩm này. Phật quả là quả vị Vô sở đắc, vì bản tánh toàn giác là bản tánh rỗng lặng tuyệt đối vốn có nơi hết thảy chúng sanh, nhưng do vô minh vọng tưởng mà khuấy động, khiến Như lai tạng tánh hay bản tánh toàn giác chìm trong vô minh, vọng tưởng, biến Như lai tạng tánh, hay bản tánh toàn giác thành thức A-lại-da. Bây giờ do tu tập các hạnh, khiến vô minh tuyệt bặt, Như lai tạng tánh hay bản tánh toàn giác hiện bày.
Nên, Thỉ giác là tên gọi khác của Bản giác về mặt thời gian, nhưng về mặt không gian thì Thỉ giác cũng chính là Bản giác. Thỉ giác và Bản giác không phải là hai, nên kinh gọi là Nhất giác, Nhất vị.
Do đó, Thỉ giác là mới chứng đắc giác ngộ, nhưng thực ra chẳng có Thỉ giác nào để chứng đắc cả. Bản giác là bản tánh giác ngộ rỗng lặng thường tịch, thường chiếu nơi hết thảy chúng sanh.
Thông qua các pháp hành, hành giả vén và quét sạch hết thảy vô minh, phiền não nơi tâm, tánh bản giác hiện ra, chẳng có gì được hay mất, có hay không ở nơi tánh bản giác. Được hay mất, có hay không thuộc về vô minh, phiền não chứ không thuộc về tánh bản giác. Cũng vậy, giữa không gian mây tan, trăng hiện ra tỏa chiếu vô cùng. Trăng và không gian chẳng có gì được hay mất. Được hay mất là ở nơi mây che hay không che vậy.
(Dịch xong, ngày 22, tháng 7, năm Mậu Tý, tức là ngày 22-8-2008, tại Phương trượng chùa Phước Huệ, thị xã Bảo Lộc, Lâm Đồng.)

Đăng nhận xét

Cảm ơn Đạo Hữu đã đóng góp. Chúc Đạo Hữu một ngày an lạc! A Di Đà Phật