VÀI LỜI GIỚI THIỆU VỀ TÁC GIẢ
VÀI LỜI GIỚI THIỆU
Sự hưởng ứng của anh em tín hữu và chư độc giả bốn phương làm chúng tôi vô cùng ngạc nhiên và hoan hỷ. Sau khi Lá Thư Đông Kinh Quyển 1 được phát hành, sau thời gian không lâu chúng tôi liên tục nhận được rất nhiều thơ của các tín hữu gởi về, mà chưa có dịp đăng trong quyển Lá Thư Đông Kinh 1, đủ chứng tỏ trong lúc ngụ tại Đông Kinh, mặc dù bận rất nhiều việc: Việc giảng huấn hằng ngày tại đại học Waseda và việc ông giao tế khắp nơi, ông Thanh Sĩ vẫn không quên dìu dắt anh em tín hữu trên đường đạo nghĩa, bằng việc ông hồi đáp tất cả thơ từ ở quê nhà gởi sang, cho đến khi ông bị bịnh nằm liệt giường, bác sĩ giấu cây viết ông mới chịu ngưng bút.
Đọc qua Lá Thư Đông Kinh Quyển 1, Quyển 2 nầy, chúng ta nhận thấy ông Thanh Sĩ xứng danh là một môn đệ làm sáng tỏ pháp môn Học Phật Tu Nhân của Phật Giáo Hòa Hảo, như ông đã cho thấy trong bài thơ vừa khoán thủ, vừa khoán vĩ, "Thanh Sĩ Hiển Đạo, Phật Giáo Hòa Hảo" như sau:
THANH TÂM KIẾN CHƠN PHẬT
SĨ - KHÍ PHÙNG CHÁNH - GIÁO
HIỂN PHÁP PHẬT NHƠN HÒA
ĐẠO - KHAI - MÔN - TỪ – HẢO
(-- Ghi chú: - Ba cột khoán yêu ở giữa theo chiều dọc là “Mở thông Tâm Khí Pháp Khai sẽ Kiến Phùng Phật Môn và đạt thánh đức Chơn Chánh Nhân Từ”: Khi hành giả đã ly dục, đã cạn tham ái dục thì khí pháp trong tâm được khai thông, chứng bậc hiền “Càn Huệ Địa” (do ái dục khô cạn mà huệ địa phát sinh). Sau đó hành giả tận tường sự diệu dụng các pháp môn của Phật đã dạy (là kiến phùng phật môn). Đã hiểu rành tu pháp môn để điểu phục thân tâm và thành tựu đại đức Chơn Chánh Nhân Từ của bậc thánh nhân. Nói tóm lại bằng mọi phương tiện pháp môn, hành giả phái hướng về tâm sao cho Tâm Khí Pháp Khai để tránh sự lệch lạc -- Hết Ghi chú).
Sau đây là những điểm chánh yếu:
Về Việc Tu:
Ông khuyên tu Huệ (là Học Phật) và tu phước (là Tu Nhân), tu cho mình (là Tu Phật) và tu cho nước (là Tu Nhân).
Trong lá thơ gởi cho Trường, Yến ông đã viết:
"Tu không những phước cho mình,
Mà còn phước nước, phước nghìn muôn dân".
Về sự Chay Lạt:
Ông đã khuyên trong quyển Đường Giải Thoát:
“Tu đâu phải lạt trai không,
Mà còn giới luật và lòng từ bi”.
Về điều này Đức thầy đã dạy:
“Tu hành nào luận mặn chay,
Miễn tâm thanh tịnh gặp ngày an cư”.
Và:
"Chay được tánh chay tâm mới quí".
Để phá chấp về sự ăn chay Ngài có giải bày cho một tín đồ (ghi theo lời ông Huỳnh Hữu Phỉ):"Nếu ăn chay mà đắc đạo thì đời nay không còn con bò, con khỉ tái kiếp".
Về việc ốm đau: Ông luôn khuyên Mẹ (tâm Bà Mười): "Con xin khuyên Má rán thuốc men, rán chịu khó ăn uống tịnh dưỡng và rán dùng tinh thần Phật pháp vô uý vô ngã cứng mạnh để chống chọi đối trị các thứ bịnh tật".
Và ông quan điểm về xác thân trong đoạn thơ gởi Mẹ như sau:
Không tiếc thân nhưng chẳng hủy thân,
Thân là thuyền của cái tinh thần.
Tinh thần muốn được qua sông khổ,
Mạnh khỏe cho thân việc đáng cần.
---
Mạnh khỏe cho thân việc đáng cần,
Điều hòa giấc ngủ với đồ ăn.
Đau vừa cầu Phật vừa thang thuốc,
Hai sức hòa nhau chóng mạnh hơn.
Ông đã đem lại niềm tin Hòa Hảo trong khắp miền đất nước, mà còn quảng bá được khối tình Hòa Hảo đại đồng ra khắp nước ngoài. Ông rất khiêm tốn không hề xưng hô lớn lối như bao nhiêu người khác, vì theo ông hễ có “sưng” là có sọp. Trong Bán Dạ Đông Thiên, Ông đã bày tỏ bổn phận khi Đức Thầy vắng mặt:
Đây nầy bá tánh hỡi ơi!
Ta không hề có một lời xưng hô.
Kiểng nhà buội héo buội khô,
Phải đem nước mắt tưới vô đỡ cành.
Phận ta đạo lý chưa rành,
Khi Thầy vắng mặt đâu đành ngó lơ.
Nói ra hoặc viết giảng cơ,
Khuyên nhau kẻo để lu mờ đạo tâm.
Ví như lời có sai lầm,
Cũng nên tha thứ chớ tâm ngạo cười.
Nhược bằng nhận lẽ tốt tươi,
Đây xin khuyên đó mỗi người rán ghi.
Để đánh tan mối hoài nghi về sự xuyên tạc của thiểu số người, trong Bán Dạ Đông Thiên, Ông đã thổ lộ:
Ta đâu nói việc tầm khào,
Cũng không ép một người nào theo ta.
Ta như đồng đạo trẻ già,
Theo Huỳnh Giáo Chủ tại gia tu hành.
Tu hồi mười sáu tuổi xanh,
Đến năm Mậu Tí xuất hành khuyên dân.
Mặc ai nói quỉ nói thần,
Việc ta ta biết việc trần trần hay.
Ví người chẳng hiểu lòng này,
Đem lời nhạo báng cũng thây mặc người.
Trong Đâu Là Phàm Thánh, ông nguyện cứu thế:
Chừng nào được cứu an vạn vật,
Đây mới là chịu dứt chuyển thân.
Còn khổ đau một kẻ trên trần,
Đây còn phải lao thân khắp chốn.
Trong quyển Tôi Không Quên, ông thệ nguyện thân ông được như một linh dược cứu an cho đời:
Tôi không quên khuyên ai khá nhớ,
Ở quê nhà lớn nhỏ gần xa.
Xác tôi nếu phải nghiền ra,
Cứu đời khỏi bệnh cũng là chịu ngay.
Những lời đại thệ trên chỉ có các hàng tu Bồ Tát hạnh như Đức Địa Tạng Vương Bồ Tát thệ độ hết các tội nhân trong địa ngục Ngài mới vui chịu chứng đạo:
“Chúng sanh độ tận phương chứng Bồ Đề”.
Xưa Phật ra đời khai môn giáo hóa, tế độ quần sanh
trong suốt bốn mươi chín năm, thắp đuốc huệ soi đường tối, rưới mưa hoa rửa bụi trần để cứu độ nhân sanh. Theo chân Phật, ông Thanh Sĩ là một trong những vị hiện còn trên bước đường hoằng dương chánh pháp và mang sứ mạng thiêng liêng cao cả trong thời kỳ hạ nguơn mạt pháp.
Cơ duyên nơi quê nhà không còn thuận tiện nên ông đành cất bước đông du vào năm 1955. Mặc dù gởi thân nơi đất khách nhưng công cuộc hoằng hóa đối với đồng bào và tín hữu trong nước vẫn tiếp tục. Ông luôn viết sám giảng thi văn gởi đều về nước. Trong số tác phẩm ông gởi về có tất cả là 16 quyển, Bộ Hiển Đạo.
Thành kính giới thiệu Lá Thư Đông Kinh 2 này cùng chư độc giả và tín hữu và bốn phương, nghe qua chắc hẵn sẽ đem lại đôi phần lợi ích cho sự tu tập thường ngày và thân tâm luôn được an lạc.
Sài Gòn, Mạnh thu năm 1974,
Vương Kim
Lá Thư số 1: Tokyo, ngày 28-4-1955
Lá Thư số 1: Tokyo, ngày 28-4-1955
Tokyo, ngày 28-4-1955
Anh Ba (Ô. Phan Bá Cầm)
Theo lời anh nói trong thơ, anh muốn sớm trông được thấy Ba Tạng Kinh lắm phải không? Nhưng việc nầy chưa thấy sớm được. Vì chính tôi từ ngày sang đây tới nay cũng chưa gặp 3 tạng kinh ở đâu. Tôi đã dò hỏi thì nó ở xa Tokyo, Vì tôi bận 3 tiếng doto, dotonai nên chưa đi tìm. Và tôi nghĩ gởi kinh về lúc nầy ai xem, nếu anh cứ bận như thế. Vì đó mà việc thỉnh kinh tôi hơi nấn ná để chờ ngày tôi về sẽ thỉnh luôn.
Còn quyển "Đông Du" thì chưa viết được. Vì chưa có gì đáng viết. Hơn nữa độ nầy tôi không có thì giờ nhiều để viết, vì mỗi ngày phải vào trường quốc tế. Nhưng dù sao tôi cũng làm anh hài lòng, nghĩa là tôi sẽ viết quyển "Đông Du" vào lúc tôi thạo tiếng Nhựt đi khắp nước Nhựt.
Việc nước việc nhà có khả quan không anh? Tôi cầu nguyện sớm được "Thượng Hòa Hạ Thuận" để bớt khổ dân gian.
P.B.: Tôi nhờ anh thưa lại ông Bích "Tôi chúc ông Thành Công".
THANH SĨ
Lá Thư số 2: Tokyo, ngày 25-11-1955
Lá Thư số 2: Tokyo, ngày 25-11-1955
Tokyo, ngày 25-11-1955
Anh Ba (Ô. Phan Bá Cầm tự Vương Kim)
Hôm nào tới nay anh ở luôn Sài Gòn? Còn chị Ba và mấy đứa nhỏ vẫn còn ở Định Hòa hay đã cùng anh trở về Sài Gòn? Mỗi ngày ngoài việc làm cho Đảng, anh có dành thì giờ để tham cứu về bên đạo chớ? Tôi rất chú ý vấn đề ấy nhiều hơn. Bởi vì nó là "Trụ Cột". Thoảng như nó hỏng đi tất cả các việc khác cũng hỏng hết.
Các giảng viên, anh nên thường đưa ý kiến cho họ để họ đi sát với trình độ anh em tín đồ, hầu tránh sự chán nản.
Còn chữ "Vạn" cứ từ bên mặt đi qua. Theo nhà Phật cho đó là "Thuận nhiễu". Hơn nữa bên mặt tiêu biểu cho chánh đạo (theo Phật). Nếu từ bên mặt đi ra tức là từ chánh đạo đi ra. Như thế có lẽ hợp lý hơn.
Chúc anh đầy đủ sức khỏe và sáng suốt và nhờ anh chuyển lời tôi thăm ông Toàn.
THANH SĨ
P.B.: Nhớ thường gởi thơ cho tôi. Tôi rất trông thơ anh.
Lá Thư số 3: Tokyo, … năm 1955
Lá Thư số 3: Tokyo, … năm 1955
Tokyo, … năm 1955
Anh Ba (Ông Phan Bá Cầm)
Độ nầy anh có mệt lắm không? Việc làm của Đảng tiến đến đâu? Ông Bích có trợn dộc lúc nầy không? Tờ báo của Đảng có ra chưa? Không thấy anh thơ cho tôi nhé! Việc tôi qua đây, anh cứ hỏi ông Mại thì hiểu tất cả, Tôi còn ở đây lâu, anh rán chuẩn bị để rảnh khi tôi về tiếp tục lớp Huấn luyện Đạo đức và Hán tự.
À! hổm rày anh có về Định Hòa không? Chắc chưa về, Sài Gòn bây giờ có rợn người không? Sao mà báo ngoại quốc đăng chuyện giựt gân ở Việt Nam? Chúc anh và ông Bích thành công.
THANH SĨ
Lá Thư số 4: Tokyo, ngày 25-11-1955
Lá Thư số 4: Tokyo, ngày 25-11-1955
Tokyo, ngày 25-11-1955
Các anh em giảng viên
Đạo là đường vui. Đời là nẻo khổ. Bỏ đạo theo đời tất muốn lánh vui tìm khổ. Hành động ấy là gì? Ấy là mê muội. Các anh em hãy tránh chỗ đó. Thoảng như gặp sự thử thách quá hơn sức nhẫn nại của mình, nên tìm bạn lành nhờ sự giúp sức và càng thấy có sự thử thách nhiều chừng nào, lại phải càng tăng trưởng Đức tin và Giới hạnh nhiều hơn mới tránh khỏi cơn bão tố bất ngờ của Ma Vương. Anh em là rường cột của Phật pháp, không nên mở miệng than khó.
Nếu sợ khó, tất không trợ giúp nỗi đau khổ của người khác được và chính mình cũng không đủ sức kiên chí để theo dõi mục đích. Vậy là, các anh em trước là nhớ ơn Thầy Tổ, sau đó lo cứu tông đường, phải hết sức cố gắng phụng sự Phật pháp: Vững đức tin rèn trí huệ và chưởng phước điền.
Tuy rằng hiện giờ tôi ở cách nước nhà mấy dặm đường trùng dương, song nếu các anh em làm được những việc trên đây, tất nhiên các anh em sẽ được giao cảm với tâm hồn tôi trong nháy mắt, mong rằng các anh em chớ quên lời.
THANH SĨ
Lá Thư số 5 : Tokyo, ngày 20-1-1957
Lá Thư số 5 : Tokyo, ngày 20-1-1957
Tokyo, ngày 20-1-1957
Các anh em giảng viên
Từ ngày tôi đặt chân nơi hải ngoại đến nay kể cũng đã ngót hai năm tròn. Trong hai năm qua, mỗi lần nhớ đến anh em nơi quê nhà, là mỗi lần tôi rơi nước mắt. Tôi càng rơi nước mắt nhiều khi anh em gặp phải khó khăn trên đường phổ thông đạo lý. Và mỗi khi anh em lướt qua khỏi mức khó khăn là mỗi lần đầu não tôi tự thấy nhẹ nhàng, và cũng không xiết cảm động và kính mến tấm lòng hy sinh cương quyết của anh em.
Theo ý tôi, giá trị của lòng hy sinh ấy hơn cả vàng bạc châu báu. Thật sự tôi rất an tâm, trong lúc vắng mặt tôi đã có anh em, đã không kém tôi ở lòng hy sinh vì đạo. Từ đây cho đến ngày tôi trở về nước, các anh em lớn nhỏ rán nỗ lực thêm để lo cho nền đạo ngày ngày được vững vàng sáng tỏ.
Đừng xao xuyến trước cảnh hãi hùng, chớ động tâm nơi danh lợi. Và hãy nén lòng gác bỏ những lời cay tiếng đắng của người đời. Ngọc càng giũa lay lắc bao nhiêu càng được chói tỏ bấy nhiêu. Đạo càng khổ hạnh đức mới cao dày. Tôi khuyên anh em chớ chán nản lúc nào hết. Anh em sớm muộn gì cũng gặp tôi, chẳng những gặp ở thế giới nầy mà còn có thể gặp ở một thế giới khác nữa. Thế giới của chúng ta ước ao. Xin chớ nửa đường bỏ tôi nhé??!!
Trước thềm năm mới, tôi thành tâm cầu nguyện ơn trên hộ độ các anh em được suốt năm lành mạnh sáng suốt. Và nhờ các anh em chuyển lời tôi kính chúc quí quyến được một năm may mắn.
Tạm đôi giả chất xa nhau,
Nhưng hai tâm thức có bao giờ rời.
Đinh ninh chỉ có một lời,
Không vầy cõi thế hẹn nơi Phật Đài.
Tin trời chẳng phụ người ngay,
Nếu không chóng hợp cũng chầy hòa nhau.
THANH SĨ
Lá thư số 6: Tokyo, ngày 10-7-1958
Lá thư số 6: Tokyo, ngày 10-7-1958
Tokyo, ngày 10-7-1958
Xác Khách Hồn Quê
Xác đất khách mà hồn quê nội,
Thân xa nhau tâm nối liền nhau.
Ngày như đêm luống nghẹn ngào,
Những khi nhớ đến đồng bào quê hương.
Nhớ mẹ già trên đường hiu quạnh,
Chỉ một con phải cảnh chia ly.
Vì noi theo chí từ bi,
Đành cho con trẻ ra đi nước ngoài.
Miễn tất cả nhơn loài tỉnh ngộ,
Riêng thân già nào có màng chi.
Gương lành của mẹ đáng ghi,
Phận con thật rất lỗi nghì dường bao.
Chẳng hầu hạ ra vào hôm sớm,
Việc cháo cơm lạnh ấm mỗi ngày.
Nuôi cò cho lớn cò bay,
Cũng nên trách mắng cho cay mới vừa.
Lòng nhớ mẹ khi chưa nguôi dứt,
Liên tưởng luôn đạo đức bên nhà.
Người gần cho đến kẻ xa,
Sự tu nay đã lơ là phần đông.
Nước đóng meo hương nồng vắng khói,
Trai không ăn, giảng gói không xem.
Nhiều ông trở lại say mèm,
Lắm bà trở lại ưa thèm trầu cau.
Nào cờ bạc với nào trộm cắp,
Nổi lên trong làng ấp lung tung.
Biến lần tâm tánh ra hung,
Việc tu đã chẳng còn dùng làm căn.
Có kẻ lại quên phăng chánh giáo,
Vội nghiêng theo tà đạo thính linh.
Chôn lòng dưới lớp u minh,
Nghe đâu cũng cứ tưởng tin bướng càn.
Nhớ đến đây ruột gan như cắt,
Muốn về trong nhứt khắc tới nhà.
Để khuyên khắp cả gần xa,
Rán theo đạo chánh đạo tà đừng theo.
Hương nhớ đốt chung meo khá rửa,
Trai nhớ ăn giảng kệ khá xem.
Lánh trầu cau lánh say mèm,
Bỏ điều cờ bạc chớ thèm gian manh.
Sớm Khuya nhớ thiệt hành chánh đạo,
Giúp đỡ nhau chỉ bảo cho nhau.
Gìn lòng trước cũng như sau,
Quyết tu dù chết cũng nhào ra tu.
Thời cuộc dẫu bao lâu đi nữa,
Xác thân tuy nghiêng ngửa thế nào.
Cũng không buồn chán núng nao,
Cứ tu dù đến chừng nào cũng tu.
Đây vì bởi mắc câu bỉ thái,
Phải tạm nương hải ngoại thời gian.
Chừng nào xuôi gió thuận thoàn,
Quê nhà trở lại vầy đoàn đệ huynh.
Diện tuy cách nhưng tình đừng cách,
Nhớ gìn câu kim thạch keo sơn.
Lòng đây với đó không sờn,
Đó cùng đây chớ phai lờn nghĩa xưa.
Lòng đây chỉ mến mưa đạo đức,
Đó cũng nên rán sức tu hiền.
Gặp nhau trên bước đường Tiên,
Mừng nhau khi được thỏa nguyền từ lâu.
Vài hàng viếng khắp đâu đâu.
THANH SĨ
Lá thư số 7: Tokyo, ngày 26-1-1959
Lá thư số 7: Tokyo, ngày 26-1-1959
Tokyo, ngày 26-1-1959
Hải Ngoại Cảm Xuân
Kẻ Hải Ngoại Cảm Xuân
Chuồng nào heo nấy khó đi,
Chủ cho ăn để dành kỳ xẻ thân.
Tiết xuân mà tuổi chẳng xuân,
Mỗi lần tiết đến mỗi lần già thêm.
Tuồng đời còn rối chưa êm,
Hảo Hòa là phúc thù hiềm là nguy.
Bình tâm rán giữ đạo nghì.
THANH SĨ
Lá thư số 8: Tokyo, ngày 5-5-1959
Lá thư số 8: Tokyo, ngày 5-5-1959
Tokyo, ngày 5-5-1959,
Thưa Má,
Má có được bình an khỏe mạnh không? Mà hơi lâu rồi con không nhận được thơ! Hay là Má đang bận việc ruộng nương. Việc ruộng nương đã làm đến đâu và các anh chị em giúp tay vào việc ruộng có được mạnh khỏe và được sốt sắng không? Con rất biết ơn anh chị em ấy nhiều không kể hết, cũng như con biết ơn những anh chị em xa gần có lòng thành thật giúp đỡ con ở mọi phương tiện khác.
Má có được bình an khỏe mạnh không? Mà hơi lâu rồi con không nhận được thơ! Hay là Má đang bận việc ruộng nương. Việc ruộng nương đã làm đến đâu và các anh chị em giúp tay vào việc ruộng có được mạnh khỏe và được sốt sắng không? Con rất biết ơn anh chị em ấy nhiều không kể hết, cũng như con biết ơn những anh chị em xa gần có lòng thành thật giúp đỡ con ở mọi phương tiện khác.
Thưa Má, quyển "Vạn Niên Huynh Đệ" vẫn chưa được in ra phải không? Tại sao mà lâu thế? Thật là buồn! Ước gì quyển ấy được in gấp để cho anh chị em xem. Thưa má, việc chi cũng có vận mạng thành thử mới có hoàn cảnh ngược xuôi. Nhưng với lòng đã nguyện hy sinh vì đạo thì vẫn phải nỗ lực, không vì hoàn cảnh ngược xuôi mà thối bước được. Cứ đi theo ý nguyện cho đến mức cuối cùng. Thưa má, con vẫn biết những nỗi khó khăn ở bên nhà và chính những nỗi khó khăn ấy là những chướng ngại làm cho con chưa sớm về với Má và những anh chị em xa gần.
Con rất mong rằng anh chị em lớn nhỏ đừng nhút nhát lẽ phải trước một khó khăn nào cả. Nhứt là đừng nghe lời tuyên truyền của kẻ mạnh, của kẻ xảo ngôn làm núng nao tinh thần đạo đức của mình. Hãy lấy trí sáng suốt để tự chủ lấy mình trên con đường tu hành Phật đạo. Rán tiến đến một trình độ hiểu biết rằng: Những gì đã và đang phát minh trên thế giới đều đã có Phật Ngài giảng dạy từ xưa lâu rồi, nên không cho đó là sự lạ đối với người hiểu đạo, mà chỉ cho đó là con thuẫn càng lên cao càng dễ đứt dây, nên lo ngại chớ nên đắm đuối. Những lời nầy xin Má cho anh chị em được hiểu.
Vắn tắt có bấy nhiêu thôi. Con xin ơn trên độ Má được thường khỏe mạnh và xin Má trao lời con thăm tất cả anh chị em xa gần.
Con của Má
Lá thư số 9: Tokyo, ngày 6-9-1959
Lá thư số 9: Tokyo, ngày 6-9-1959
Tokyo, ngày 6-9-1959
Lời Tha Phương
Ngàn vàng gặp một dịp may,
Con người có thể tạo ngay được liền.
Một lời vi diệu Phật Tiên,
Có khi muôn kiếp chưa truyền đến tai.
Đường dài mới biết ngựa hay,
Có lâu mới biết lòng ai chánh tà.
Khi chân người đã mỏi ra,
Ấy là người đã đi xa lắm rồi.
Sanh ra trong cõi thế thời,
Dù ai cũng phải chịu lời đắng cay.
Khó mà làm được mới hay,
Dễ như hốt cát Phật Ngài mất ngôi.
Đời khi mũ áo lột rồi,
Người nào cũng vẫn phản hồi tay không.
Bản thân nếu liệu chưa xong,
Những điều phụ thuộc chớ hòng cầm lâu.
Dù cho sang cả đến đâu,
Chỉ là cặn bả của bầu nước dơ.
Tỉnh rồi nên chán chớ mơ,
Dù mơ có được cũng nhờ không lâu.
Việc qua đã gọi công hầu,
Toàn là việc của cô đào mang thai.
Rán tu chín chắn từ nay,
Mặc cho thế cuộc kéo dài bao lâu.
Vải tuy nhiều miếng mặc dầu,
Gặp người thợ khéo sẽ khâu lại liền.
Hiền nhân thời phải truân chuyên,
Xưa nay vẫn thế chớ phiền làm chi.
Nên hư chỉ phút chung qui,
Chánh thì được thắng tà thì phải thua.
Trời không ghét kẻ làm mùa,
Chớ hờn nắng gắt cày bừa bỏ trôi.
Chưa nên ý nguyện đừng thôi,
Dù rằng phải trả cho đời bao nhiêu.
Tu hành thì phải cho siêu,
Muốn siêu thì phải trừ tiêu nghiệp trần.
Xưa nay vay lắm nợ nần,
Bây giờ đem trả một lần phải hao.
Không vầy nợ cứ chuyền lao,
Đời nầy kéo tới đời sau không cùng…
Khuyên người chớ thở than lung,
Thuận hay nghịch cảnh mặc tình đừng nao.
Chớ vì hoàn cảnh khổ lao,
Để lòng đạo đức lảng xao lu mờ.
Đừng bì với kẻ nhuốc nhơ,
Đem viên ngọc quí ném quơ vào bùn.
Rán tu cho vẹn thủy chung,
Rồi đây lời Phật có không sẽ tường.
Vài lời của kẻ tha phương…
THANH SĨ
Lá thư số 10: Tokyo, ngày 18-9-1960
Lá thư số 10: Tokyo, ngày 18-9-1960
Tokyo, ngày 18-9-1960
Lệ thân mến,
...Vừa mới trở qua ra tới Tokyo và vừa gặp tôi hồi 3 giờ chiều nầy (13-9-60) trước nhứt, trao thơ của Lệ cho tôi và cho tôi hay rằng Lệ và tất cả anh chị em ở quê nhà đều bình an mạnh khỏe cả. Điều nầy khiến tôi mừng hơn hết, vì tôi đã ngóng tin nhà từ lâu. Đành rằng đã độ biết tình nhà ý người ở xứ sở. Nhưng khi đọc đến thơ của Lệ là thêm sự xác nhận làm cho lòng tôi như bầm chặt, như sôi nấu, lấy làm đau tủi không cùng. Nhưng xét lại kẻ đã lọt giữa thời kỳ rocket nầy mà chỉ có trình độ giác ngộ đơn giản, mà đặt tâm ở một giới hạn như thế cố nhiên không tránh khỏi sự mua chuộc của thế tạo bằng phương diện nầy hay phương diện khác, úp mở hay trắng trợn, họ bị mua chuộc riêng họ thì không nói chi, đằng nầy họ lại còn gián tiếp lợi dụng mà bán rẻ anh em thân tín của họ, là mình cảm thấy nhục nhã và đau đớn hơn bao giờ hết.
...Vừa mới trở qua ra tới Tokyo và vừa gặp tôi hồi 3 giờ chiều nầy (13-9-60) trước nhứt, trao thơ của Lệ cho tôi và cho tôi hay rằng Lệ và tất cả anh chị em ở quê nhà đều bình an mạnh khỏe cả. Điều nầy khiến tôi mừng hơn hết, vì tôi đã ngóng tin nhà từ lâu. Đành rằng đã độ biết tình nhà ý người ở xứ sở. Nhưng khi đọc đến thơ của Lệ là thêm sự xác nhận làm cho lòng tôi như bầm chặt, như sôi nấu, lấy làm đau tủi không cùng. Nhưng xét lại kẻ đã lọt giữa thời kỳ rocket nầy mà chỉ có trình độ giác ngộ đơn giản, mà đặt tâm ở một giới hạn như thế cố nhiên không tránh khỏi sự mua chuộc của thế tạo bằng phương diện nầy hay phương diện khác, úp mở hay trắng trợn, họ bị mua chuộc riêng họ thì không nói chi, đằng nầy họ lại còn gián tiếp lợi dụng mà bán rẻ anh em thân tín của họ, là mình cảm thấy nhục nhã và đau đớn hơn bao giờ hết.
Nhưng thôi, cũng nên kể đó là trả lại công mọn của họ hồi mấy năm qua, để tạm giúp cho lòng mình bớt thắc mắc đi. Nhưng nên nhớ rằng: Kẻ đã lên ăn mâm cổ nầy thì không còn mong lên ăn mâm cổ khác được, đó là lề lối hiển nhiên của con người, chưa nói đến luật nhiệm mầu của trời đất gì khác. Thế thì, chỉ nên làm và xử lý lấy bổn phận của chính mình, khỏi cần nhọc công nghĩ đến họ cho mệt. Bổn phận của mình chính là gì? Là cái tự do hay không tự do, no ấm hay không no ấm của mọi người cùng đang chung sống với mình trên mặt đất nầy. Đương nhiên vấn đề nầy cần phải ổn định xong, rồi sẽ giải quyết đến phương diện khác cũng không muộn.
Tuy nhiên, mọi việc làm nào cũng bị ảnh hưởng của hoàn cảnh xa gần mà phải trả giá mắc hay rẻ. Chớ không thể không ngơ mà thâu hoạch được kết quả như ý muốn được. Cho nên hãy vui chịu mọi thử thách trong lúc hành động, có thế mới làm đối tượng cho sự trắng đen và mới có thể đạt nguyện được. Lệ! cũng như tất cả anh chị em chỉ nên trách lấy mình chưa sớm làm xong bổn phận mà tùy tiện cố gắng để làm sao cho xong là tốt hơn, chớ đừng bận tâm buồn nói ai cả, nên giao phó kẻ ấy cho định luật thiên nhiên đào thải là hay nhứt.
Xin Lệ nhớ kỹ rằng: Định luật gọi là thiên nhiên ấy, chính từ trong bản tánh thiên nhiên của con người đề ra, rất hợp với luật chung của con người, mà chớ đem lòng ngờ vực xa xôi. Nơi bức thơ nầy, tôi chỉ có bấy nhiêu lời, chớ hiện không còn thì giờ để viết dài thêm nữa.
Và xin thay vào đoạn muốn viết thêm, tôi xin viết nơi đây bốn câu thơ để Lệ và tất cả anh chị em ở nhà khi buồn nên ngâm lên may ra có giải khuây một phần nào chăng?
Thí dâu để có nuôi tằm,
Rồi tằm cũng thí để làm nên tơ,
Nên tơ cho mọi người nhờ,
Tằm dâu đâu có bao giờ hưởng mong.
Tôi xin chúc cho Lệ và tất cả anh chị em nơi quê nhà được vạn sự lành.
THANH SĨ
Lá thư số 11: Tokyo, ngày 20-9-1960
Lá thư số 11: Tokyo, ngày 20-9-1960
Tokyo, ngày 20-9-1960
Thưa Má,
Được thơ nhà, hay tin Má bịnh con lo quá. Vậy hôm nay Má thật lành bịnh chưa? Má rán thuốc men và ăn ngủ cho đều để giữ sức khỏe, để giúp cho con an lòng cho đến ngày có cơ hội về nước. Nếu Má bịnh càng khiến con thêm bịnh và trong lòng cũng khiến cho thêm buồn bã lo ngại nhiều, sẽ có hại cho xác thân và công việc làm. Con xin Má không những cần phải mạnh mẽ về cơ thể mà còn phải mạnh mẽ về tinh thần nữa mới được. Má phải coi thường tất cả hoàn cảnh trái ngược và phải luôn luôn đặt lòng thương tất cả mọi người trên hơn đứa con của Má. Đứa con của Má đem hy sinh cho tất cả mọi người, chớ nên đem mọi người để hy sinh cho đứa con của Má. Ấy mới là công bằng và bác ái mà lúc nào con cũng hy vọng nơi Má được nhận thức đầy đủ và thực hiện được lý tưởng ấy, chính con lúc nào cũng nhớ đến Má, nhưng càng nhớ đến Má bao nhiêu là càng nhớ đến tất cả mọi người bấy nhiêu mà quên đi những gì đau khổ của riêng con để tìm đủ phương tiện nọ kia, hầu khi trở về giúp được anh chị em lớn nhỏ xa gần ít nhiều về mặt tinh thần hay vật chất.
Được thơ nhà, hay tin Má bịnh con lo quá. Vậy hôm nay Má thật lành bịnh chưa? Má rán thuốc men và ăn ngủ cho đều để giữ sức khỏe, để giúp cho con an lòng cho đến ngày có cơ hội về nước. Nếu Má bịnh càng khiến con thêm bịnh và trong lòng cũng khiến cho thêm buồn bã lo ngại nhiều, sẽ có hại cho xác thân và công việc làm. Con xin Má không những cần phải mạnh mẽ về cơ thể mà còn phải mạnh mẽ về tinh thần nữa mới được. Má phải coi thường tất cả hoàn cảnh trái ngược và phải luôn luôn đặt lòng thương tất cả mọi người trên hơn đứa con của Má. Đứa con của Má đem hy sinh cho tất cả mọi người, chớ nên đem mọi người để hy sinh cho đứa con của Má. Ấy mới là công bằng và bác ái mà lúc nào con cũng hy vọng nơi Má được nhận thức đầy đủ và thực hiện được lý tưởng ấy, chính con lúc nào cũng nhớ đến Má, nhưng càng nhớ đến Má bao nhiêu là càng nhớ đến tất cả mọi người bấy nhiêu mà quên đi những gì đau khổ của riêng con để tìm đủ phương tiện nọ kia, hầu khi trở về giúp được anh chị em lớn nhỏ xa gần ít nhiều về mặt tinh thần hay vật chất.
Con tin rằng: Má đã hiểu rõ ý nguyện của con. Xin Má nhớ lời của con khuyên nơi trên mà đừng buồn rầu việc chi cả. Chỉ nên lo cho cơ thể được thường khỏe mạnh và luôn trau giồi trí huệ cho được sáng suốt để cùng tất cả anh chị em dắt tay nhau qua những lúc khó khăn để giữ vẹn giềng mối đạo đức là quí nhứt và cũng là một điều giúp cho con an lòng và vui vẻ hơn hết.
Con chỉ vắn tắt có bấy nhiêu lời xin Má nhớ cho và cũng nên nói lại cho anh chị em xa gần được biết.
Con của Má
Lá thư số 12: Tokyo, ngày 7-1-1961
Lá thư số 12: Tokyo, ngày 7-1-1961
Tokyo, ngày 7-1-1961
Anh Hoài Ân,
Mặc dù trò đời hết lúc gay cấn nầy đến gay cấn khác, cứ tiếp diễn mãi trên đoạn đường của kẻ tu hành, nhưng tôi cũng lấy làm hài lòng được thấy còn nhiều anh chị em vẫn đủ nhiệt tâm với đạo. Tinh thần ấy không riêng tôi hài lòng mà Thầy Tổ cũng cảm động trước tâm hồn kiên trinh của anh chị em.
Tôi rất hy vọng nơi quê nhà anh chị em lớn nhỏ, kể từ đây trở đi, dù còn phải gặp bão táp hơn nữa cũng chớ nên dừng bước, hãy đem hết gan mật ra để thi đua với thời gian và hãy lấy lòng chung thủy để làm sức mạnh vô biên cho cơ thành tựu. Lúc nào cũng hoàn toàn tự chủ được mình, đừng để hoàn cảnh lung lạc ý chí và hãy thắng mọi thị dục trước mọi thử thách cám dỗ của trường đời. Có được như thế mầm trí huệ mới được phát, vừng trăng đạo mới lên và mới gọi là kẻ giác ngộ.
Mặc dù trò đời hết lúc gay cấn nầy đến gay cấn khác, cứ tiếp diễn mãi trên đoạn đường của kẻ tu hành, nhưng tôi cũng lấy làm hài lòng được thấy còn nhiều anh chị em vẫn đủ nhiệt tâm với đạo. Tinh thần ấy không riêng tôi hài lòng mà Thầy Tổ cũng cảm động trước tâm hồn kiên trinh của anh chị em.
Tôi rất hy vọng nơi quê nhà anh chị em lớn nhỏ, kể từ đây trở đi, dù còn phải gặp bão táp hơn nữa cũng chớ nên dừng bước, hãy đem hết gan mật ra để thi đua với thời gian và hãy lấy lòng chung thủy để làm sức mạnh vô biên cho cơ thành tựu. Lúc nào cũng hoàn toàn tự chủ được mình, đừng để hoàn cảnh lung lạc ý chí và hãy thắng mọi thị dục trước mọi thử thách cám dỗ của trường đời. Có được như thế mầm trí huệ mới được phát, vừng trăng đạo mới lên và mới gọi là kẻ giác ngộ.
Hoài Ân, đã rơi trong bể trần có mấy ai không bị sóng trần nhồi nhận, hãy trách mình rơi xuống bể, chớ trách sóng bổ vào người. Phải biết phản tỉnh như thế mới lướt sóng lên bờ được và sẽ chẳng để mình rơi xuống bể nữa, Ấy là đại nghĩa của sự tu đấy. Ghi thêm bốn câu kệ để anh chị em ở quê nhà chiêm nghiệm.
Trời không chiếu Trời tối
Tâm không chiếu tâm mê
Trời tâm luôn được chiếu
Quang đảng cội Bồ Đề.
THANH SĨ
Lá thư số 13: Tokyo, ngày 25-7-1962
Lá thư số 13: Tokyo, ngày 25-7-1962
Tokyo, ngày 25-7-1962,
Thưa Má,
Độ nầy Má có mạnh khỏe chớ? Và anh chị em lớn nhỏ trong nhà và bà con xa gần vẫn được bình an hay có điều gì thay đổi không? Còn phần con bên nầy nhờ trời nóng lên nên có phần mạnh khỏe lắm.
Hiện thời số giảng đã phát được bao nhiêu rồi? Lòng ham mộ kệ cơ của anh chị em còn nhiều hay ít? Nếu tinh thần đạo đức của anh chị em và dân chúng còn nhiều thì mọi nỗi đau khổ sẽ được bớt dần và hòa bình hạnh phúc nhứt định sẽ hưng thịnh.
Độ nầy Má có mạnh khỏe chớ? Và anh chị em lớn nhỏ trong nhà và bà con xa gần vẫn được bình an hay có điều gì thay đổi không? Còn phần con bên nầy nhờ trời nóng lên nên có phần mạnh khỏe lắm.
Hiện thời số giảng đã phát được bao nhiêu rồi? Lòng ham mộ kệ cơ của anh chị em còn nhiều hay ít? Nếu tinh thần đạo đức của anh chị em và dân chúng còn nhiều thì mọi nỗi đau khổ sẽ được bớt dần và hòa bình hạnh phúc nhứt định sẽ hưng thịnh.
Chỉ có tinh thần đạo đức chơn thành mới giúp con người có sự thương yêu tha thứ, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau để xây dựng đời sống an vui no ấm lâu dài được. Thiếu tinh thần đạo đức chẳng khác nào xe thiếu bánh, ngựa không cương và cá không nước sẽ gặp nhiều nguy hiểm chẳng không.
Rất mong nơi quê nhà anh chị em lớn nhỏ xa gần có đủ tinh thần anh dũng, thắng phục mọi chướng ngại, để giữ tròn lòng đạo đức. Tinh thần đạo đức ngày càng thêm chớ cho giảm bớt. Thà chịu bỏ thân chớ không bỏ đạo đức.
Tóm tắt có mấy lời. Con xin ơn trên Trời Phật gia hộ cho Má được luôn mạnh khỏe và con xin Má trao lời con thăm anh chị em lớn nhỏ xa gần.
THANH SĨ
Lá thư số 14: Tokyo, ngày 25-8-1962
Lá thư số 14: Tokyo, ngày 25-8-1962
Tokyo, ngày 25-8-1962
Gởi Huỳnh Phước Huệ
Huỳnh Phước Huệ thân mến,
Huỳnh Phước Huệ thân mến,
Được thơ của Huệ đọc qua, tôi liền lấy bút hồi âm cho Huệ và anh chị em đồng đạo ở quê nhà được an tâm, để vững lòng lo tinh tấn tu hành. Đừng bận tâm với những việc chẳng đáng bận tâm khiến cho trí huệ chậm phát khai. Xin cám ơn Huệ đã có lòng viết thơ thăm tôi và cầu nguyện cho tôi sớm được hồi hương. Được biết Huệ và anh chị em đồng đạo được an lành, tôi rất mừng. Riêng tôi ở bên nầy vẫn được mạnh và công việc vẫn như thường.
Qua sự tường thuật của Huệ là nhờ ông Năm Quyện ở Phú Nhuận cho Huệ quyển Sấm Giảng Thi Văn Giáo Lý. Huệ xem trong đó mà được phát tâm quy y Tam Bảo tu tỉnh tại gia. Được như vậy hẳn Huệ đã có sâu duyên nhiều đời với Phật pháp. Tôi rất mừng cho Huệ.
Huệ ơi! sự tu hành cũng rất cần có được nhiều bạn lành để tương trợ đùm bọc khuyên nhủ lẫn nhau. Bởi đang thời Nguơn Hạ "Phật Nhược Ma Cường", mà Huệ lại ở nhằm vùng rất ít tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, sống chung với đa số tu hành theo lối tụng niệm chuông mỏ trong nhà thiền. Phần giáo lý trong nền đạo Huệ chưa mấy được thông suốt, mà gặp nhà sư cật vấn gắt gao, đả phá nhiều cách, cố lôi cuốn Huệ trở lại tu theo đường chuông mỏ kệ kinh. Do Huệ chưa nắm vững đường hướng mối đạo mình theo. Vì thế nhà sư mới nặng lời chế nhạo phỉ báng. Xét kỹ lại Huệ nên tự trách mình chớ buồn họ không nên. Huệ có nhận thấy như tôi không? Tôi khuyên Huệ một phương pháp hay nhứt là nên nhẫn nhục. Tình trạng nầy không những chỉ một mình Huệ thôi đâu, mà phần đông đồng đạo ở quê nhà thường gởi thơ bày tỏ với tôi rất nhiều về việc ấy. Nhưng tôi rất thông cảm, thường hồi âm khuyên nhủ anh em đồng đạo nên cố nhẫn nhịn. Vì mình là người đã thật tâm tu hành rồi đâu màng chi những tiếng khen chê phỉ báng. Tình cảnh nầy tôi đã biết rất rõ từ khi tôi còn ở nước nhà. Chính tôi cũng đã gặp phải…
Tôi hết sức đau buồn cho thiểu số người trong đạo đối xử không khéo léo, do chỗ hở đó, người ngoài mới nhắm vào nền đạo phỉ báng một cách thậm tệ. Ở bên nầy tôi vẫn thường đau khổ khi gặp các giới, và chỉ mong họ hiểu cho:
"Con sâu làm thảm nồi canh,
Một người làm quấy trăm nghìn người mang.
Mẹ cha sanh đứa con hoang,
Ôm lòng chịu tiếng sớm làng cười chê…"
Cho nên tôi không hề lưu tâm đến những chê trách của kẻ ngoại đạo. Mà tôi chỉ lưu tâm tha thiết với anh em đồng đạo rằng: Tự mình phải cố gắng nghiên cứu tận tường giáo pháp của Tổ Thầy đã chỉ dạy. Lo tu hành, đừng buồn nói ai cả. Nhưng trong hoàn cảnh của Huệ, đang phải đương đầu với thử thách quá sức chịu đựng của Huệ. Cho nên tôi rất lo ngại cho bước đường tu tiến của Huệ.
Vì vậy mà buộc lòng tôi phải giải mỡ cho Huệ được thấy một số ít điều, để cho Huệ và anh chị em đồng đạo ở quê nhà được vững tâm trên bước đường tu hành chớ quá lo ngại.
Đã là một vị Sư thọ giới xuất gia, trong tay có số tín đồ, mà nỡ mở miệng buông lời phỉ báng chê đè nền đạo Phật Giáo Hòa Hảo cho rằng tà giáo, đem dạy đệ tử pháp môn Học Phật Tu Nhân là một pháp môn hạ đẳng. Thời kỳ nầy mà còn ở lo tu nhân đạo, khi bảo vệ đất nước phạm giới sát sanh làm sao mà giải thoát và đắc đạo được. Chẳng biết vị sư tu theo hướng nào? Mà không biết qua tí nào lịch sử của Chư Tổ.
Tiền nhân và Chư Tổ chịu lắm hy sinh và đóng góp rất nhiều công sức, bờ cõi mới yên vững cho việc sinh cư của Sư đến ngày nay. Trải qua nhiều lần Bắc thuộc, chịu dưới ách đô hộ của kẻ xâm lăng ngót gần thế kỷ. Tấm gương sáng chói vua Trần Nhân Tông bình định được nước nhà, lập Trúc Lâm Yên Tử tu hành được chứng đạo hiệu Điều Ngự Giác Hoàng, Sơ Tổ Thiền Tông.
Lập nhiều chiến tích chống trả Nguyên Mông, giữ yên bờ cõi tu hành đạo hiệu Tuệ Trung Thượng Sĩ. Nhập thế cứu đời qua nhiều triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, Đại sư Khuông Việt, Vạn Hạnh Thiền Sư.v.v.. Nhà sư nhận thấy thế nào? Có lẽ nhà Sư thấy nền đạo Phật Giáo Hòa Hảo lắm lúc tham gia chính trường, rồi ông lại vọng sanh những lời phỉ báng.
Bởi vì Phật Giáo Hòa Hảo đứng trong cương vị Học Phật Tu Nhân và đã ăn sâu quan niệm lợi tha trong nhà Phật. Hơn nữa, gặp phải những giai đoạn gay go nước lửa, đang ngập tràn đầy thống khổ nhơn sanh, do sự nhu cầu của đồng bào của tổ quốc, nên đạo Phật Giáo Hòa Hảo thấy mình có bổn phận, nên chỉ phương tiện linh hoạt tạo thời thế, đứng lên đáp ứng lại tiếng gọi của non sông, của tổ quốc. Đôi khi phải buộc mình đóng vai nọ làm tuồng kia, trong những đoạn đường thiết cần ấy, chẳng qua là để hòa quang đồng trần với mục đích: Đem chánh nghĩa cứu lấy giang sơn còn đang bị kẻ kẻ ngoài thống trị. Chỉ muốn đem chánh nghĩa và chánh đạo bình định thiên hạ. cứu cảnh đau khổ lầm than của muôn dân được sớm chừng nào tốt ngày nấy, mà phải tranh đấu. Tranh đấu chỉ có mục đích ấy mà thôi. Ngoài ra, chẳng có ý gì khác. Thể hiện những giai đoạn đã qua, Phật Giáo Hòa Hảo đã được chứng minh một cách cụ thể, mà hầu hết các giới đồng bào trong lẫn ngoài nước đều đã được biết rõ.
Mặc dù tôi ở nước ngoài, nhưng việc nhà tôi biết rất rõ. Tôi đã gặp những phái đoàn các tôn giáo đến dự hội tại Đông Kinh (nhứt là Phật giáo), họ có đến viếng thăm tôi rất là thân thiện, có trao đổi giải bài rất thông cảm. Tôi phải buộc miệng trả lời: “Cây nào chẳng có lá vàng. Đạo nào chẳng có những hàng dối tu”. Nhưng xét lại lịch sử của Phật, khi Đức Phật còn trụ thế, cũng vẫn có những chuyện đáng tiếc xảy ra. Mà hiện tình Phật Giáo Hòa Hảo gần như tương tợ. Cũng có kẻ đứng lên gây phe áp đảo Tăng đoàn. Những kẻ ấy không ngoài ai đâu xa lạ, mà chính là đệ tử của Ngài. Thậm chí, còn nhẫn tâm mưu sát Đức Phật nhiều lần. Phật vẫn khoan hồng và còn cứu độ. Phật còn ôn tồn bảo rằng: “Ta nhờ đối tượng đó giúp ta sớm được chứng quả đẳng giác”. Đã trên hai ngàn năm trăm năm, có ai dám bảo rằng Pháp môn của Phật Thích Ca là tà đạo chăng? Hẳn không vậy. Trái lại, đạo Phật Thích Ca còn tồn tại mãi mãi cho đến ngày nay, cũng là đạo Phật Thích Ca, cũng tôn thờ Ngài làm giáo chủ và vẫn làu làu sáng tỏ, ngày lại ngày càng hưng thịnh, cứu độ rộng khắp nơi nơi.
Thôi, tôi không muốn nói nhiều những chuyện vị sư trong phạm vi lá thơ nầy. Tôi xin ghi lại tám câu thơ mà tôi đã cho hai nhà sư (xin miễn biết tên), Huệ và anh em đồng đạo quê nhà suy biện rộng ra để được lợi ích thêm phần cởi mở.
Đường về cõi Phật rộng mênh mông,
Gặp Phật phải qua cánh cửa lòng.
Nước bỏ, tất không tìm được cá,
Cội lìa, sẽ chẳng kiếm ra bông.
Thánh phàm ai tạo suy thì biết,
Mê ngộ đâu sanh nghiệm sẽ thông.
Đừng có đau Nam mà chữa Bắc,
Chủ tâm được tức vạn môn tòng.
Dưới đây, tôi muốn nói thật nhiều với Huệ và anh em đồng đạo ở quê nhà những điểm then chốt trọng yếu trong nền đạo, đã mang danh một tín đồ có bổn phận phải thật chu đáo, mới không đắc tội với Đức Thầy.
Sau khi Đức Thầy vắng mặt, tôi chẳng ngại mình tài sơ trí siển, đứng ra với cái ngụ ý là để nhắc nhở khuyến khích cho anh em đồng đạo, nam cũng như nữ, hãy nhớ Đức Thầy. Tưởng đạo lý, nghĩ đến cơ nhân quả báo ứng. Lo tu hành theo lời của Đức Thầy đã dạy rành trong kệ cơ sấm giảng. Vì Đức Thầy vắng mặt cả thảy tín đồ như gà đang lạc mẹ, lại thêm đường lối chưa thông. Nội tình trong đạo lại chớm nở sự chia rẽ. Những kẻ không duyên cùng tôi chẳng nói chi, mà lại có những người cùng chung một lối nhưng bị lợi danh câu nhử, khiến họ mờ đi lương thức, nỡ rẽ lối đường. Tôi thấy rõ điều ấy như đứng trước tấm gương. Nên tôi không ngại mình và cũng không quên mình là một đệ tử trung thành của Đức Thầy, xác minh rõ rệt cho chư đồng đạo những ai chưa thấu đáo tường tận sứ mạng trọng đại của Đức Thầy và những mục đích, yếu pháp của đạo PGHH với những pháp môn tu hằng ngày của một tín đồ. Để giúp nhau được rõ thông tường tận mà vững lòng lo công phu tu tập. Đồng thời cũng để cho kẻ ngoại đạo nhìn vào thấy rõ đường hướng chánh chơn, khiến cho họ hết hiểu lầm không còn oán ghét Phật Giáo Hòa Hảo nữa.
Rất tiếc hoàn cảnh của Huệ và một số anh em đồng đạo ở quá xa xôi. Nên chưa xem được quyển Chú Nghĩa, là một quyển tôi đã tóm lược từ hành xử đạo nhân đến phụng hành đạo Phật. Thành thử Huệ và anh em chưa thấu đáo hướng phương của đạo. Nhưng Huệ ơi! Trên đời không có việc gì khó, nếu Huệ đã quyết tâm “Hữu chí cánh thành”, Huệ và anh em nên tin chắc như vậy, sẽ được có Phật Thần gia hộ. Huệ và anh em đừng ngại bước trên đường tu nhé! Nhân tiện đây, tôi xin hướng dẫn Huệ và anh em đồng đạo ở xa đại khái những điểm cốt yếu. Vì nếu mình đã là tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo mà người ngoại đạo chất vấn đường lối tu hành, mà mình trả lời không thông suốt vô tình mình đã làm xấu cho nền đạo. Điều ấy sẽ đắc tội với Tổ Thầy.
Tóm lược đại khái năm điểm sứ mạng trọng đại của Đức Thầy đã thọ ký sắc lệnh Đức Ngọc Đế:
1- Báo tin ngày tận diệt sẽ tới.
2- Đưa các thiện căn đến kỳ đại hội Long Hoa.
3- Đánh thức các linh hồn đã gieo rắc thiện duyên cùng Ngài ở nhiều tiền kiếp.
4- Phò trợ Thánh Vương.
5- Chấn hưng Đạo Phật.
Mục đích của đạo Phật Giáo Hòa Hảo là: Vãng hồi đạo nhân và xướng minh Đạo Phật. Yếu pháp của đạo Phật Giáo Hòa Hảo là thiền tông tịnh độ song tu. Đại khái pháp môn hằng ngày là phước huệ song tu. Bởi phước huệ song tu là gồm trong “Học Phật Tu Nhân”. Vì học Phật là học huệ và tu nhân là tu phước.
Huệ và anh chị em đồng đạo rán ngộ nhập được những điểm cơ bản trọng yếu, nhứt là sứ mạng vĩ đại của Đức Thầy ta mới nhận rõ được chân giá trị của nền đạo mà mình đang tôn thờ. Huệ và anh em mới vững được lòng tin. Chớ chẳng lẽ một vị giáo chủ lâm phàm độ thế, có sắc lệnh Đức Ngọc Đế ban hành, chỉ ra đời một thời gian rất ngắn mà có cả trên mấy triệu tín đồ, lại chẳng quán triệt được căn tánh của chúng sanh sao. Đem giáo pháp Học Phật Tu Nhân ra độ đời mà vị sư cho là tà giáo. Cho nên một lần nữa tôi xin khẳng định với Huệ và tất cả anh chị em đồng đạo rằng Đức Thầy khai thị pháp môn Học Phật Tu Nhân rất thích ứng, vì đó là một pháp môn vừa khế cơ vừa khế lý để điều hòa phù hợp với mọi căn tánh của chúng sanh giữa thời kỳ mạt hạ. Rất dễ tu tập cho đại đa số.
Khi huệ và anh chị em đồng đạo đã nhận rõ được giáo lý cao siêu trong nền đạo rồi, thì dù Huệ có gặp bao nhiêu vị sư, hoặc họ vô tình hay cố ý cứ mãi phỉ báng nền đạo Phật Giáo Hòa Hảo, Huệ và anh em đồng đạo vẫn thấy lòng mình rất an nhiên, rất tự tại và vô ngại. Lại còn thêm khởi lòng thương xót họ nữa.
Huệ và đồng đạo ơi! Tình thương đã ngắm, nói chẳng biết sao cho cùng, bút tả không biết sao cho cạn. Tôi nói cũng khá dài, nhưng vì chí nguyện, nên cõi lòng vẫn thấy còn nặng mang nhiều buồn tủi. Lúc nào tâm trí tôi cũng vẫn nhớ đến mọi cảnh đau thương nhục nhã diễn biến nơi xứ nhà. Rồi nghĩ đến hiện tình, tôi còn dấn thân nơi đất khách chẳng biết bao ngày mới được thuận gió trương buồm! Buồn cho nước nhà đang chịu cảnh chiến tranh tang tóc. Buồn nhớ đến nghĩa nặng với Tổ Thầy lo đền đáp vẫn chưa kham. Buồn nhớ đến tình đồng đạo còn xa cách. Và buồn nhứt khi nhớ đến mẫu từ đang đau khổ ngóng trông. Huệ ơi! tôi càng buồn nhớ bao nhiêu thì tim gan của tôi như bị bầm chặt đau nhói bấy nhiêu, rồi cõi lòng tôi tự thấy nó dần dần khô héo lại như cây lá giữa Thu Đông.
Thôi, xin ngừng bút nơi đây. Tôi thành tâm cầu nguyện với ơn trên Tổ Thầy và các đấng thiêng liêng hộ độ cho Huệ và anh em được sáng suốt. Sau khi nhận rõ thông sứ mạng trọng đại của Đức Thầy và giáo lý cao siêu của nền đạo, tôi rất ước mong hãy cố gắng, dù phải đương đầu với nhiều thử thách cam go, cũng vẫn quyết tâm tinh tấn lo công phu thật thành cho sớm được như nguyện. Và tôi cũng ước mong tất cả anh chị em đồng đạo nam cũng như nữ trẻ già trong nền đạo hầu hết đều quyết tâm tinh tấn công phu tu hành cho phước huệ được rộng khai, đạo quả Bồ Đề sớm được viên mãn. Được tròn bổn phận đối với Đức Thầy để sứ mạng trọng đại của Đức Thầy đã thọ ký sớm được hoàn mãn với Đức Phật Tổ, Đức Di Đà, Đức Quan Âm và Đức Minh Chúa.
Được như vậy, ta mới đáp vẹn ân Thầy và cũng không hổ danh là một tín đồ đang ở trong nền đạo Phật Giáo Hòa Hảo rất chân chánh.
Vắn tắt mấy lời. Xin chúc Huệ, quý quyến, tất cả anh chị em đồng đạo đều được vạn sự an lành.
Thanh Sĩ
P.B.: Hãy nhớ nhẫn nhịn khi đối cảnh nhé. Dù họ cố ý, mình phải hoài hoài làm phải với họ. Và tuyệt đối không được chê mối đạo của người là tà. Vì nếu mình chê đạo của họ là tà, thì chính mình đã là tà rồi. Mặc dù mình ở trong đạo chơn chánh. (Nhớ mục “Đối với các Tăng sư” Đức Thầy đã dạy) Huệ vào Sài Gòn xin ông Năm Quyện tập Chú Nghĩa.
THANH SĨ
Lá thư số 15: Tokyo, ngày 11-9-1962
Lá thư số 15: Tokyo, ngày 11-9-1962
Tokyo, ngày 11-9-1962,
Thưa Má,
Được tin Má vẫn mạnh, anh chị em trong nhà và đồng đạo xa gần vẫn được bình an con rất yên tâm. Riêng con ở bên nầy cũng vẫn mạnh và vẫn lo công việc như thường không có gì thay đổi. Công việc phát giảng vẫn tiếp tục in phát ra cho anh chị em gần xa có dịp đọc tới để hiểu thêm lời lẽ phải trái, hầu chọn cái tốt đẹp để làm theo ít nhiều, ấy cũng là một cách tô điểm thêm sự sáng sủa trong đạo. Má nên khuyên anh chị em đi phát giảng, nên tăng sức nhẫn nại, và nên giải thích rõ giá trị của quyển giảng để cho người chưa hiểu được hiểu tới.
Thảng như giải thích mới một lần họ chưa nhận thức được, thì hai lần, ba lần... Và cứ tìm cách trình bày mãi cho đến khi nào họ được biết. Đừng thấy họ quá không hiểu mà chán nản và cũng không nên buồn giận họ có những câu lỗ mãn gay gắt. Cần phải tha thứ và thương yêu, không nên cố chấp ghét bỏ: Giảng kệ càng phát ra được nhiều là càng quí, anh chị em đảm trách việc nầy nên thêm nhiều sự cố gắng.
Quyển “Ánh Sáng Từ Bi” sau khi in xong, con sẽ gởi thêm quyển “Đường Giải Thoát” để tiếp tục in cho anh chị em khắp nơi được biết.
Vắn tắt có bấy nhiêu lời, con xin cầu chúc Má được thân thể khương kiện và Má trao lời con thăm tất cả đồng đạo xa gần.
Con của Má
Lá thư số 16: Tokyo, ngày 25-8-1962
Lá thư số 16: Tokyo, ngày 25-8-1962
Tokyo, ngày 25-8-1962
Năm Nam thân mến,
Thành thật cám ơn Anh và tất cả anh chị em đã viết thơ thăm tôi. Đọc thơ, tôi rất cảm động ở tinh thần chấn hưng Phật giáo của Anh và anh chị em đã và đang cố gắng hoạt động trong giai đoạn Thầy lạc tớ, kẻ thật tu thì ít, người giả đạo thì nhiều, mà anh chị em còn đủ nhiệt tâm lo việc đạo đức, không những lo cho mình mà còn lo cho kẻ khác, thật là một hành vi phúc lợi hiếm có. Tôi rất hoan nghênh tinh thần ấy và rất hy vọng nơi anh chị em được xúc tiến mãi cho đến khi nào được thỏa nguyện.
Thành thật cám ơn Anh và tất cả anh chị em đã viết thơ thăm tôi. Đọc thơ, tôi rất cảm động ở tinh thần chấn hưng Phật giáo của Anh và anh chị em đã và đang cố gắng hoạt động trong giai đoạn Thầy lạc tớ, kẻ thật tu thì ít, người giả đạo thì nhiều, mà anh chị em còn đủ nhiệt tâm lo việc đạo đức, không những lo cho mình mà còn lo cho kẻ khác, thật là một hành vi phúc lợi hiếm có. Tôi rất hoan nghênh tinh thần ấy và rất hy vọng nơi anh chị em được xúc tiến mãi cho đến khi nào được thỏa nguyện.
Công cuộc đạo đức cần phải nhiều hợp tác và cần phải có tổ chức hoàn bị để tránh mọi mặt và để giúp cho sự hoạt động được mạnh mẽ và sớm được thâu nhập nhiều kết quả mỹ mãn. Mục đích hoạt động đạo đức cần phổ biến rộng trong quảng đại quần chúng, bằng mọi phương tiện hợp pháp. Trước nhứt là chính mình phải treo gương một tín đồ trung thành đạo đức thật tốt. Kế đó là luôn luôn giữ sự tín nhiệm trên lời nói và hoạt động của mình đối với mọi người. Đó là hai vấn đề tối quan trọng không thể thiếu, xin Anh và anh chị em nên chú ý. Cố nhiên trên con đường dài không thể tránh khỏi sành sỏi, công cuộc khuyến khích đạo đức trong địa hạt rộng lớn và lâu ngày, thế nào cũng gặp ít nhiều sự khó khăn. Chính mình phải có đủ sức chịu đựng và lướt qua cho kỳ được.
Đức dũng cảm và chơn giá trị của con nhà truyền giáo là chỗ đó Anh và anh chị em chớ nên lùi bước trước cảnh ấy. Sau hết, đồng thời với sự kêu gọi đạo đức, Anh và anh chị em nhớ thúc giục việc cày cấy trồng trọt để tránh việc đói rách chung cho đồng bào, hơn nữa, bụng có no mới khỏe mạnh, có khỏe mạnh thì tinh thần mới sáng suốt, mới hành đạo đúng chơn lý. Còn nhớ chuyện Phật Thích Ca nhịn đói đến ngã xỉu mà không tỏ ngộ. Ngài bèn cho đó là hành sai, liền ăn uống trở lại và cũng tham thiền như trước. liền được đắc đạo. Định luật của xác thân tứ đại là phải ăn uống, ăn uống không phải là sự tội lỗi thì không nên đi ngược lại. Nếu để cho đói khát chỉ làm cho xác thân thêm đau khổ gầy mòn và cũng làm cho tinh thần hổn loạn yếu đuối chớ không có ích chi cho sự hành đạo. Vả lại trong sự hành đạo của chúng ta, hầu hết là hạn tại gia cư sĩ, mỗi người đều có gia đình, cha mẹ, vợ con, anh em, bè bạn thì càng phải lo cho đâu đó được no ấm. Đó là mục đích quan trọng trong việc Học Phật Tu Nhân. Chúng ta cần phải xử sự đâu đó cho chu đáo không nên xem thường.
Tóm tắt, Anh và anh chị em nên vừa lo khuyến tu và vừa chuyên lo cày cấy trồng trọt để nuôi sống cho mình và cho người khác. Bức thơ nầy tôi nói đơn giản có thế thôi. Xin chúc Anh và anh chị em lớn nhỏ được tăng gia phước huệ.
THANH SĨ
Lá thư số 17: Xuân Quí Mão - 1963
Lá thư số 17: Xuân Quí Mão - 1963
Xuân Quí Mão - 1963
Trông qua một lượt mấy tràng Xuân,
Ý vị chi năm Tý, Sửu, Dần!
Trăm họ lăn vùi trong biển lửa,
Ngàn nhà lụi đụi giữa hoang rừng.
Đi đâu vắng vẻ màu mai cúc,
Để lại đầy vơi những ớt gừng.
Thế ấy mà sao mi chẳng chán?
Nay còn léo hánh Mão Tân Xuân.
Xuân ôi! Xuân đến để mà chi?
Mỗi lúc đầu năm cũng thế thì.
Nam nữ đoán chờ xem xấu tốt?
Trẻ già cung chúc được quang huy.
Năm rồi cũng có Xuân Xuân khổ!
Giờ lại tới đây Tết Tết gì?
Nếu phải hòa bình thì ở mãi,
Bằng mà tranh chiến hãy mau đi.
Xuân ở người ra hay ở trời?
Hình thù sặc sỡ thế Xuân ơi!
Bày trưng đủ thứ trò ca múa,
Đặc để thêm nhiều những thức xôi.
Xuân đến thị thành người rộn rịp,
Xuân về thôn dã kẻ đua bơi.
Riêng ta chẳng phụ tình Xuân nhé!
Nhưng quá nghi xuân ngắn của đời.
Ngày xuân kích thích trẻ đương Xuân,
Gẫm có chi vui kẻ lục tuần.
Mỗi Tết mỗi lo mình trọng kỷ,
Càng xuân càng sợ kiếp mòn lần.
Tiền nhiều cũng khó mua thêm sống,
Thế mạnh nào đâu để bảo thân.
Nếu biết van cầu nơi Phật lực,
Nương mình chốn ấy hưởng trường Xuân.
THANH SĨ
Lá thư số 18: Tokyo, ngày 7-3-1963
Lá thư số 18: Tokyo, ngày 7-3-1963
Tokyo, ngày 7-3-1963,
Hoài Ân thân mến,
Về sức khỏe của tôi cũng như thường và công việc nọ kia chưa có sự gì thay đổi, còn lòng dạ và tai mắt tôi lúc nào cũng theo dõi tình hình quốc tế, thời sự quốc gia và tinh thần đạo đức của anh chị em trong nước, khiến lòng tôi có lúc thì vui, có lúc thì buồn. Cố nhiên ở giai đoạn hiện thời trong lòng người xa quê hương ngó về nước nhà, có thể nói là cảm thấy buồn nhiều hơn vui. Chính riêng tôi cũng không ngớt tha thiết ngày về và lúc nào cũng hy vọng ngày về sớm đến, để tay bắt mặt kề với tất cả anh chị em nơi quê nhà, cho thỏa lòng nhớ thương mong đợi! Đồng thời cũng để chia sớt bớt nỗi đau khổ cho nhau một phần nào trong trường hợp lâm cơ hữu sự. Và vượt trên hơn tình cảm tầm thường và mục đích đê mạc của con người, chúng ta còn có sứ mạng thiêng liêng cao cả phải dìu dắt lẫn nhau qua khúc mê mờ tội lỗi và dạy dỗ cho nhau để đạt đến mức toàn giác toàn chơn, không thẹn danh nhà Phật giáo và chẳng hổ mặt làm người. Sở dĩ lúc nào tôi cũng muốn sớm về với anh chị em nơi quê nhà đại khái là vì lý do ấy.
Về sức khỏe của tôi cũng như thường và công việc nọ kia chưa có sự gì thay đổi, còn lòng dạ và tai mắt tôi lúc nào cũng theo dõi tình hình quốc tế, thời sự quốc gia và tinh thần đạo đức của anh chị em trong nước, khiến lòng tôi có lúc thì vui, có lúc thì buồn. Cố nhiên ở giai đoạn hiện thời trong lòng người xa quê hương ngó về nước nhà, có thể nói là cảm thấy buồn nhiều hơn vui. Chính riêng tôi cũng không ngớt tha thiết ngày về và lúc nào cũng hy vọng ngày về sớm đến, để tay bắt mặt kề với tất cả anh chị em nơi quê nhà, cho thỏa lòng nhớ thương mong đợi! Đồng thời cũng để chia sớt bớt nỗi đau khổ cho nhau một phần nào trong trường hợp lâm cơ hữu sự. Và vượt trên hơn tình cảm tầm thường và mục đích đê mạc của con người, chúng ta còn có sứ mạng thiêng liêng cao cả phải dìu dắt lẫn nhau qua khúc mê mờ tội lỗi và dạy dỗ cho nhau để đạt đến mức toàn giác toàn chơn, không thẹn danh nhà Phật giáo và chẳng hổ mặt làm người. Sở dĩ lúc nào tôi cũng muốn sớm về với anh chị em nơi quê nhà đại khái là vì lý do ấy.
Mặc dù thời cuộc có kéo dài bao đoạn, tình thế có trắc trở đến đâu, nhưng lòng chờ đợi thương yêu của chúng ta không một giờ khắc nào thay đổi, nhứt định phải một ngày giờ kia được hội ngộ. Tôi xin anh chị em nơi quê nhà hãy cùng tôi đồng tin tưởng như thế. Đồng thời anh chị em cần phải cố gắng phụng sự đạo đức, theo dõi chơn lý và chánh nghĩa. Ấy là cầu nối liền cuộc gặp gỡ giữa chúng ta ở ngày mai.
Vắn tắt có mấy dòng, tôi xin chúc Ân và anh chị em xa gần được nhiều phúc lợi và may mắn.
THANH SĨ
Lá thư số 19: Tokyo, ngày 8-7-1963
Lá thư số 19: Tokyo, ngày 8-7-1963
Tokyo, ngày 8-7-1963
Thưa Má,
Lúc nầy Má vẫn được mạnh giỏi chớ? Anh chị em trong nhà và anh chị em đồng đạo lớn nhỏ xa gần vẫn được bình an hay có sự gì thay đổi không? Con ở bên nầy, nhờ khí trời trở nên nóng ấm nên thấy trong người thêm khỏe mạnh nhiều lắm. Xin Má an tâm khỏi cần lo đến việc ương yếu của con nữa. Má nên lo cho Má luôn luôn cường tráng là ở bên nầy con vui mừng và an lòng hơn hết.
Thưa Má quyển “Thần Cơ Thật Luận” con đã gởi về Sài Gòn lâu rồi, ở nhà Má đã được anh chị em cho hay và đã nghe đọc đến chưa? Nếu được phép thì nên in phát cho thật rộng ra khắp nơi trong từng lớp nông dân, để cho hầu hết mọi người có dịp đọc đến để suy nghiệm thêm chơn lý của đạo Phật, may ra có thể giúp cho người mộ đạo được tinh tấn thêm và những kẻ chưa biết tu hành có dịp hồi tâm hướng thiện.
Vấn đề truyền bá đạo đức hiện đang cần thiết hơn lúc nào hết, cho nên con xin khuyên Má nên hợp lực với anh chị em đồng đạo xa gần tích cực phổ biến giảng kinh giục thúc nhơn gian. Nhơn gian càng mê ngủ trong ác mộng bao nhiêu thì tiếng chuông đạo đức càng phải đánh lên bấy nhiêu, để làm cho càng nhiều người tỉnh thức, là sự đau khổ tội ác trong đời (trong xã hội) càng bớt được nhiều. Có được như thế mối đạo mới phát triển và quang minh được. Việc nầy kẻ tu hành phải làm cho có kết quả viên mãn. Xin Má nhớ cho anh chị em xa gần được biết đến.
Vắn tắt có thế thôi. Con xin ơn trên hộ độ Má được sống lâu và khỏe mạnh. Xin Má trao lời con thăm tất cả đồng đạo lớn nhỏ xa gần.
Con của Má
Lá thư số 20: Tokyo, ngày 8-8-1963
Lá thư số 20: Tokyo, ngày 8-8-1963
Tokyo, ngày 8-8-1963
Thưa Má,
Con đọc thơ thấy nói cuộc lễ kỷ niệm 18 tháng 5 vừa rồi đã được anh chị em đồng đạo xa gần đến tham dự đông đảo và được an toàn và Má cùng anh chị em lớn nhỏ đều được bình yên khỏe mạnh cả thì con rất mừng lắm. Bên nầy con vẫn được mạnh lành và hiện thời thấy mập nhiều hơn mấy tháng qua rồi. Con không ngớt cầu nguyện ơn trên gia hộ cho Má và anh chị em đồng đạo nơi quê nhà được xuôi thuận trong việc tu hành và sanh hoạt hằng ngày. Và nhờ ơn trên Tổ Thầy xui khiến cho anh chị em có đủ phương tiện để tô điểm thêm đạo đức, mở rộng lối tu hành và đẩy mạnh phong trào truyền bá chơn lý đạo Phật trong các giới trí thức và nông dân, để cho mọi người có dịp nhận rõ chân giá trị của sự tu, hầu có cải hối ăn năn, làm lành lánh dữ, để cùng trở nên một nhà Phật tử chơn thành và một nhân vật đáng kính.
Con đọc thơ thấy nói cuộc lễ kỷ niệm 18 tháng 5 vừa rồi đã được anh chị em đồng đạo xa gần đến tham dự đông đảo và được an toàn và Má cùng anh chị em lớn nhỏ đều được bình yên khỏe mạnh cả thì con rất mừng lắm. Bên nầy con vẫn được mạnh lành và hiện thời thấy mập nhiều hơn mấy tháng qua rồi. Con không ngớt cầu nguyện ơn trên gia hộ cho Má và anh chị em đồng đạo nơi quê nhà được xuôi thuận trong việc tu hành và sanh hoạt hằng ngày. Và nhờ ơn trên Tổ Thầy xui khiến cho anh chị em có đủ phương tiện để tô điểm thêm đạo đức, mở rộng lối tu hành và đẩy mạnh phong trào truyền bá chơn lý đạo Phật trong các giới trí thức và nông dân, để cho mọi người có dịp nhận rõ chân giá trị của sự tu, hầu có cải hối ăn năn, làm lành lánh dữ, để cùng trở nên một nhà Phật tử chơn thành và một nhân vật đáng kính.
Theo con xét nghĩ nếu ai cũng biết tu hành, biết đạo đức và biết lo tội phước như nhau thì non nước hết sầu, nhơn dân hết khổ, cảnh thái bình thạnh vượng lạc nghiệp an cư sẽ trở lại ngay. Cho nên, con rất thiết tha mong mỏi, nếu nói hẹp tất cả anh chị em trong nước càng được nhứt trí tu hành, nếu nói rộng tất cả loài người trên thế giới cùng được một lòng đạo đức càng sớm, khiến cho bốn biển được hòa bình và tất cả nhơn loại được hạnh phúc.
Con người càng thiếu tu hành, thiếu đạo đức, thì càng nhiều thêm cảnh khổ, sát hại, lường gạt, trộm cướp một cách hèn hạ không tài nào làm cho hết được. Vì lẽ ấy, bất cứ lúc nào sự tu hành và đạo đức đối với con người cũng rất cần thiết và càng cần thiết hơn nữa là trong lúc nước nhà còn đang bị tang tóc, lòng người còn đang trong cảnh hoang mang.
Vậy con xin Má nên trao lời trên đây cho anh chị em suy xét hầu có nỗ lực thêm hơn trong việc tu hành và truyền bá đạo đức cho được hoàn mỹ và quảng đại như ý nguyện.
Vắn tắt có mấy điều, con kính chúc Má được vạn an và xin thăm tất cả anh chị em xa gần.
Con của Má
Lá thư số 21: Tokyo, ngày 5-9-1963
Lá thư số 21: Tokyo, ngày 5-9-1963
Tokyo, ngày 5-9-1963
Kính thưa Má,
Lúc nầy Má vẫn được khỏe mạnh hay có sự ươn yếu gì không? Và anh chị em lớn nhỏ xa gần vẫn được bình yên như thường chớ? Ở bên nầy con vẫn được mạnh. Nhờ có báo chí ngoại quốc nên tình hình trong nước con vẫn biết tin luôn. Khi có sự gì xảy ra thì ở bên nầy con không ngớt lo ngại cho Má và anh chị em xa gần. Con thường âm thầm cầu nguyện cho Má và anh chị em lớn nhỏ được luôn thuận tiện trên đường tu hành và phổ thông đạo lý trong lúc gây ra nước lửa. Cơ tạo và tình đời vẫn còn nhiều sự khắt khe thử thách, kẻ tu hiền thường bị đụng chạm nhiều việc khó khăn, nếu như thiếu đức tin, kém nhận xét dễ bị thối chí ngã lòng.
Lúc nầy Má vẫn được khỏe mạnh hay có sự ươn yếu gì không? Và anh chị em lớn nhỏ xa gần vẫn được bình yên như thường chớ? Ở bên nầy con vẫn được mạnh. Nhờ có báo chí ngoại quốc nên tình hình trong nước con vẫn biết tin luôn. Khi có sự gì xảy ra thì ở bên nầy con không ngớt lo ngại cho Má và anh chị em xa gần. Con thường âm thầm cầu nguyện cho Má và anh chị em lớn nhỏ được luôn thuận tiện trên đường tu hành và phổ thông đạo lý trong lúc gây ra nước lửa. Cơ tạo và tình đời vẫn còn nhiều sự khắt khe thử thách, kẻ tu hiền thường bị đụng chạm nhiều việc khó khăn, nếu như thiếu đức tin, kém nhận xét dễ bị thối chí ngã lòng.
Anh chị em lớn nhỏ ở quê nhà về phương diện đạo đức cần phải có sự đoàn kết chặt chẽ và nung nấu tinh thần Phật pháp lẫn nhau một cách đại hùng, đại lực, đại từ bi, để cùng tiến tới mạnh mẽ, vững chắc và sâu rộng trên đường cứu mình độ thế đúng như lời Thầy Tổ đã dạy. Gặp lúc hỗn độn dễ làm lòng người rối rắm, anh chị em phải luôn luôn bình tĩnh sáng suốt để phân tách rõ từ việc một, hầu tránh sự lạc lầm đáng tiếc. Lầm lạc thường gây tai hại. Tai hại ấy hoặc cho mình hoặc cho thiên hạ, tất cả đều trái đạo từ bi. Cần phải chọn lọc kỹ lưỡng.
Trong lúc vắng Thầy, xa bạn và đầy dẫy khó khăn mà vẫn sốt sắng thì sự tu hành ấy mới có giá trị và thật là kẻ chơn tu. Xin anh chị em rán cố gắng tu hành và rán lo chung lưng đâu cật nhau lại để củng cố nền đạo. Hãy bỏ tánh ích kỷ, hãy bỏ lối tu riêng, nên kêu gọi và dìu dắt nhau cùng được hăng hái lo việc nhân nghĩa đạo đức. Đó là tình đồng đạo, đó là nghĩa đồng bào, xin anh chị em lớn nhỏ nơi quê nhà nên ghi nhớ. Những lời trên đây, xin Má trao lại cho anh chị em xa gần được biết.
Vắn tắt có bấy nhiêu điều. Con cầu xin ơn Thầy Tổ hộ độ cho Má được luôn luôn mạnh khỏe sáng suốt và xin Má trao lời con thăm tất cả anh chị em đồng đạo khắp nơi.
Con của Má
Lá thư số 22 : Tokyo, ngày 26-9-1963
Lá thư số 22 : Tokyo, ngày 26-9-1963
Tokyo, ngày 26-9-1963
Thưa Má,
Bức thơ đề ngày 14 tháng 9 con đã nhận được, đọc thấy Má vẫn mạnh như thường và anh chị em xa gần vẫn được bình an thì con rất mừng. Ở bên nầy con cũng vẫn được mạnh luôn, xin Má và anh chị em nên an lòng. Chỉ có một điều là bánh đã hết rồi mà chưa thấy ở Sài Gòn gởi qua và cũng chưa có thơ cho hay tin ra sao? Khiến nơi lòng con bắt lo ngại nhiều và mỗi ngày ngóng tin luôn. Nếu may ra bánh trái gởi gấp qua được thì khỏi nguy, còn nếu trễ lâu thì chắc bị khổ nhiều. Tóm tắt có mấy điều, con xin thành tâm kính chúc Má được luôn luôn an toàn khỏe mạnh và xin Má chuyển lời con thăm tất cả anh chị em lớn nhỏ xa gần.
Bức thơ đề ngày 14 tháng 9 con đã nhận được, đọc thấy Má vẫn mạnh như thường và anh chị em xa gần vẫn được bình an thì con rất mừng. Ở bên nầy con cũng vẫn được mạnh luôn, xin Má và anh chị em nên an lòng. Chỉ có một điều là bánh đã hết rồi mà chưa thấy ở Sài Gòn gởi qua và cũng chưa có thơ cho hay tin ra sao? Khiến nơi lòng con bắt lo ngại nhiều và mỗi ngày ngóng tin luôn. Nếu may ra bánh trái gởi gấp qua được thì khỏi nguy, còn nếu trễ lâu thì chắc bị khổ nhiều. Tóm tắt có mấy điều, con xin thành tâm kính chúc Má được luôn luôn an toàn khỏe mạnh và xin Má chuyển lời con thăm tất cả anh chị em lớn nhỏ xa gần.
Con của Má
P.B: Có kèm tám câu thơ xin Má trao lại cho tất cả anh chị em được biết:
Xin nhắn vài lời
Chung thủy lòng kia ra hãy rán cầm,
Đừng cho hoàn cảnh đổi lương tâm.
Đạo là cứu khổ lo phăng tới,
Phật vốn từ bi cố gắng tầm.
Chánh nghĩa thế nào rồi cũng thắng,
Chơn tu nhứt định kiến huyền thâm.
Anh em hãy rán lo nâng đỡ,
Qua bước chông gai khỏi lạc lầm.
THANH SĨ
Lá thư số 23: Tokyo, ngày 1-10-1963
Lá thư số 23: Tokyo, ngày 1-10-1963
Tokyo, ngày 1-10-1963
Hoài ân thân mến,
Tôi vừa nhận được thơ của anh, được biết Ân và anh chị em vẫn được bình yên khỏe mạnh thì tôi đã được an tâm nhiều lắm đấy. Tôi cũng có nhận được mấy cái thơ ở Định Hòa, thấy nói Bà Mười và anh chị em dưới ấy vẫn được an lành… thì tôi càng mừng hơn. Chỉ còn vấn đề bánh trái, nếu gặp chỗ gởi gấp qua được thì đỡ cho tôi nhiều lắm, vì lẽ tôi đã hết bánh từ đầu tháng trước. Tôi rất biết Ân và anh chị em ở quê nhà đã chẳng tiếc công lo chạy cho tôi nhiều lắm, nhưng vì hoàn cảnh khó khăn thành ra phải bị trễ nải, Đó là tại hoàn cảnh chớ không phải tại Anh và anh chị em gây ra đâu.
Tôi vừa nhận được thơ của anh, được biết Ân và anh chị em vẫn được bình yên khỏe mạnh thì tôi đã được an tâm nhiều lắm đấy. Tôi cũng có nhận được mấy cái thơ ở Định Hòa, thấy nói Bà Mười và anh chị em dưới ấy vẫn được an lành… thì tôi càng mừng hơn. Chỉ còn vấn đề bánh trái, nếu gặp chỗ gởi gấp qua được thì đỡ cho tôi nhiều lắm, vì lẽ tôi đã hết bánh từ đầu tháng trước. Tôi rất biết Ân và anh chị em ở quê nhà đã chẳng tiếc công lo chạy cho tôi nhiều lắm, nhưng vì hoàn cảnh khó khăn thành ra phải bị trễ nải, Đó là tại hoàn cảnh chớ không phải tại Anh và anh chị em gây ra đâu.
Tôi không bao giờ trách Anh và anh chị em ở điểm ấy, xin Ân và anh chị em thông cảm cho và vui lòng tiếp tục lo giúp cho tôi được sớm ngày nào là càng hay ngày nấy. Tôi rất cám ơn Anh và anh chị em đã nhiệt tâm với tôi về việc nầy.
Còn quyển “Thần Cơ Thật Luận” đã được phép hay chưa? Nếu trường hợp chưa được phép thì nên sao ra gởi về Hậu Giang cho anh chị em được đọc biết và nếu cần tôi sẽ gởi tiếp quyển “Con Thuyền Đại Đạo” về, để phương tiện phổ biến thêm. Đã gặp nhiều sự kiện xảy ra, tinh thần đạo đức của anh chị em xa gần vẫn còn được giữ vững hay là có phần nào bị giảm thối chăng? Tôi rất hy vọng anh chị em xa gần có đủ đức tánh cương nghị về Phật pháp để thắng qua mọi chướng ngại trên đường tiến của đạo hạnh.
Lòng tin tưởng là thành trì là nhựa sống của con người, nhất là của kẻ tu hành, Anh và anh chị em ở quê nhà cần phải củng cố lòng tin cho thật lành mạnh vững chắc để an ủi mình lúc đau khổ và đưa chân mình tiến đến bờ bến ước nguyện.
Vắn tắt có mấy hàng, tôi xin chúc Anh và anh chị em lớn nhỏ xa gần được luôn luôn khỏe mạnh và may mắn.
THANH SĨ
Lá thư số 24: Tokyo, ngày 28-10-1963
Lá thư số 24: Tokyo, ngày 28-10-1963
Tokyo, ngày 28-10-1963
Thưa Má,
Má và anh chị em xa gần vẫn được bình an mạnh giỏi như thường chớ? Bên nầy con cũng vẫn khỏe mạnh luôn mặc dầu khí hậu tuy hơn tuần lễ nay đã bắt đầu lạnh lần. Như con đã có nhiều lần nói trong thơ cho Má hay là: thường niên, đến mùa nóng thì con vẫn được mạnh nhiều, nhưng đến mùa lạnh thì con thường dễ bị cảm, nên chi hễ mỗi lần sắp sang mùa đông là con lo sắm một ít đồ mặc ấm.... Và rất cẩn thận sức khỏe. Mùa đông ở Nhựt lạnh hơn nước đá, mỗi buổi sáng nước hồ, nước vũng, đều đông đặc như nước đá cả.
Má và anh chị em xa gần vẫn được bình an mạnh giỏi như thường chớ? Bên nầy con cũng vẫn khỏe mạnh luôn mặc dầu khí hậu tuy hơn tuần lễ nay đã bắt đầu lạnh lần. Như con đã có nhiều lần nói trong thơ cho Má hay là: thường niên, đến mùa nóng thì con vẫn được mạnh nhiều, nhưng đến mùa lạnh thì con thường dễ bị cảm, nên chi hễ mỗi lần sắp sang mùa đông là con lo sắm một ít đồ mặc ấm.... Và rất cẩn thận sức khỏe. Mùa đông ở Nhựt lạnh hơn nước đá, mỗi buổi sáng nước hồ, nước vũng, đều đông đặc như nước đá cả.
Nói thế, Má và anh chị em bên nhà đủ biết sức lạnh đến mức nào, nhưng cơ thể của con cũng đã chịu quen rồi, thành thử không có điều gì đáng lo ngại lắm. Xin Má và anh chị em nên an tâm và nên giữ gìn sức khỏe để chịu đựng mọi khó khăn trên đường tu hành.
Thưa Má, có thể nói việc tu hành là điều khó khăn nhứt, nếu không đủ sức chịu đựng và không đủ can đảm thì không thể tu hành cho đến nơi đến chốn được, nhứt là trong thời nầy, trong giai đoạn nầy, sự tu hành lại còn khó khăn gấp muôn ngàn lần hơn lúc bình thường, nếu không đủ sức chịu đựng gấp đôi, sự can đảm gấp đôi, thì dễ bị lùi bước trước các sóng gió thời cuộc và tình đời.
Sự tu hành rất khó khăn nhưng rất cao quí không chi sánh kịp, vì nó đem lại mọi việc an vui tốt lành cả tinh thần lẫn vật chất cho tất cả nhân loại. Mục đích của sự tu hành là mưu toan giải thoát mọi sự thống khổ trên thế gian cho chính mình và cho mọi người khác. Việc nầy rất lớn lao vô cùng và khó khăn hơn việc nào hết, cho nên kẻ tu hành cần phải có đủ sức chịu đựng và đủ can đảm.
Xin Má đem lời nầy trao lại cho anh chị em đồng đạo xa gần được biết để suy nghiệm kỹ và cố gắng tu hành cho sớm đắc đạo quả. Vắn tắt có mấy lời, con xin chúc Má được luôn luôn khương kiện và xin Má chuyển hộ lời con thăm tất cả các anh chị em lớn nhỏ xa gần.
Con của Má
Lá thư số 25: Tokyo, ngày 11-11-1963
Lá thư số 25: Tokyo, ngày 11-11-1963
Tokyo, ngày 11-11-1963
Thưa Má,
Được tin Má mạnh khỏe như thường và anh chị em đồng đạo xa gần vẫn được bình yên con rất an tâm nhiều lắm. Và nghe nói ngày giỗ vừa rồi có anh chị em đến thăm đông đảo càng khiến lòng con rất mừng thêm. Sự viếng thăm của các anh chị em đồng đạo là chứng tỏ lòng yêu mến đạo đức và sốt sắng tu hành của anh chị em còn nhiều. Đó là việc con rất chú ý và cảm động nhứt.
Thưa Má, đạo đức là trên hết, về mặt thực tế có thể nói đạo đức là tim óc, là mặt trời của con người. Con người thiếu đạo đức sẽ trở nên chai lạnh như hình đồng tượng gỗ, hay nói một cách khác là cũng như một con vật chỉ biết lo ăn, lo ngủ, lo thú dục, không có tình cảm đạo lý gì cả. Hành động của những con người ấy, thường gây tai hại khổ sở cho kẻ khác mà họ vẫn thản nhiên không chút hối hận. Thứ người ấy càng nhiều thì trên thế gian càng thêm khốn khổ. Cho nên con người cần phải có đạo đức thì con người mới có giá trị. Người càng sớm có đạo đức thì đời sống càng sớm được hòa bình. Hòa bình do đạo đức sinh ra, hạnh phúc do đạo đức có ra, lên thiên đường về cực lạc cũng là do Đạo Đức. Chính vì lẽ đó mà việc đạo đức rất cần, người đạo đức rất quí, nhứt là thời đại hiện tại nầy.
Đạo đức là chung tất cả môn phái. Đạo đức là chung tất cả nhơn loại. Tiếng nói của giống người Đông, Tây, Nam, Bắc có khác nhau, nhưng việc đạo đức cũng giống nhau. Đạo đức không khó, tại người khó, ai cũng có thể làm đạo đức được cả nếu người thật tâm mong muốn. Đạo đức tốt đẹp vô cùng, cao siêu vô tận, rất ước ao mọi người đều hướng về đạo đức. Trong khi thi hành đạo đức, nếu mỗi lần gặp chướng ngại nên nghĩ như đó là mỗi lần được mài giũa càng làm cho tinh thần thêm sắc bén chói chang, tất là giữ thỉ chung việc đạo đức và chắc chắn sẽ được đạt đến mức cao siêu như ý nguyện.
Sự quí ích và cần thiết của đạo đức chỉ nói sơ như trên, chớ không tả hết được trong bức thơ ngắn nầy, xin Má trao cho anh chị em được biết và nên suy rộng ra và cố gắng chuyển mình trở thành con người đạo đức xứng đáng, hầu trên được làm đẹp lòng Đức Thầy, dưới được làm tròn phận trò và giữa được làm xong bổn phận thiêng liêng của con người đối với tất cả nhơn loại.
Vắn tắt có mấy lời, con xin chúc Má và anh chị em lớn nhỏ được an khương. Kính thưa Má, con dâng Má xâu chuỗi nầy, mỗi tối Má lần nó và niệm Phật, tất bớt sự phiền não trong lòng.
THANH SĨ
Lá thư số 26: Tokyo, ngày 24-12-1963
Lá thư số 26: Tokyo, ngày 24-12-1963
Tokyo, ngày 24-12-1963
Hoài Ân thân mến,
Xin báo tin cho Anh hay hồi trưa hôm qua (23/12/1963) tôi đã nhận được 500 quà do hãng Maruka chuyển giao còn chỗ khác thì chưa thấy tin tức. Tôi được thơ ở Định Hòa cho hay là quyển “Thần Cơ Thật Luận” đã in được chút 3.000 quyển và đã chở về Định Hòa, hiện thời đã phát ra hơn phân nửa rồi phải không? Còn quyển “Con Thuyền Đại Đạo” nếu xin phép được thì cũng nên ấn hành nhanh chóng cho anh chị em gần xa được xem tiếp. Quyển nầy in xong tôi sẽ gởi thêm quyển “Đời Mạt Pháp” để tích cực truyền bá. Tiếng chuông Phật pháp cần phải đánh luôn để cho những ai đã tỉnh khỏi ngủ trở lại và những ai còn mê được có dịp thức ra. Công việc nầy ở nhà anh chị em phải cố gắng thực hiện sự truyền bá cho thật rộng trong các giới quần chúng. Còn vấn đề hồi hương của tôi. Xin anh với nôn nao lắm. Rồi đây, tôi sẽ về với anh và tất cả anh chị em. Nhưng ngày về ấy tôi còn đang chọn lựa cho thích hợp hơn về hoàn cảnh của đạo, của nước.
Xin báo tin cho Anh hay hồi trưa hôm qua (23/12/1963) tôi đã nhận được 500 quà do hãng Maruka chuyển giao còn chỗ khác thì chưa thấy tin tức. Tôi được thơ ở Định Hòa cho hay là quyển “Thần Cơ Thật Luận” đã in được chút 3.000 quyển và đã chở về Định Hòa, hiện thời đã phát ra hơn phân nửa rồi phải không? Còn quyển “Con Thuyền Đại Đạo” nếu xin phép được thì cũng nên ấn hành nhanh chóng cho anh chị em gần xa được xem tiếp. Quyển nầy in xong tôi sẽ gởi thêm quyển “Đời Mạt Pháp” để tích cực truyền bá. Tiếng chuông Phật pháp cần phải đánh luôn để cho những ai đã tỉnh khỏi ngủ trở lại và những ai còn mê được có dịp thức ra. Công việc nầy ở nhà anh chị em phải cố gắng thực hiện sự truyền bá cho thật rộng trong các giới quần chúng. Còn vấn đề hồi hương của tôi. Xin anh với nôn nao lắm. Rồi đây, tôi sẽ về với anh và tất cả anh chị em. Nhưng ngày về ấy tôi còn đang chọn lựa cho thích hợp hơn về hoàn cảnh của đạo, của nước.
Xin Anh và anh chị em vui lòng nán đợi đến ngày đó. Hiện nay trong đoàn thể, vấn đề quan trọng nhứt là phải lo làm sao cho được thống nhứt, để củng cố nội bộ và tổ chức lại các cơ quan đạo đức cho có hệ thống. Các việc ấy khi được giải quyết xong đâu đấy rồi mới có thể nói đến vấn đề khác.
Anh em nếu được một lòng,
Cửa nhà chẳng sập, ruộng đồng không hoang.
Muốn cho đạo thạnh nước an,
Tín đồ hầu hết nên đoàn kết nhau.
Mau lo thống nhứt một màu,
Phân ly tất bị phong trào bỏ rơi.
Bấy lâu yếu tại bời rời,
Ngày nay muốn mạnh tức thời hợp nhau.
Sức đoàn kết phải tăng cao,
Mới là cứu được đồng bào nhơn sanh.
Vắn tắt có bấy nhiêu, tôi xin chúc Anh và anh chị em lớn nhỏ quê nhà được nhiều phước huệ.
THANH SĨ
Lá thư số 27: Tokyo, ngày 26-12-1963
Lá thư số 27: Tokyo, ngày 26-12-1963
Tokyo, ngày 26-12-1963
Hoài Ân thân mến,
Thơ anh kể từ 12 và 19/12/1963 tôi đã nhận được hết. Xin báo tin Anh hay là số 500 tôi đã nhận được rồi còn số 1.000 cũng vừa nhận được tin của ngân hàng cho hay là đã có người bỏ vào compte tôi 340.000 tiền Nhựt tức là độ 956 Mỹ Kim (một mỹ kim là 360 tiền Nhựt), nếu 1000 Mỹ Kim thì phải là 360.000 tiền Nhựt như thế là họ bỏ vào trong compte tôi chưa đủ 1000 Mỹ kim, vậy Anh và anh Chín Thân hỏi lại họ xem. Còn số 200 thì tôi chưa nhận được. Còn vấn đề in ra 12 quyển giảng làm một cuốn thì nên lấy tên là “Hiển Đạo” ngoài bìa in bài thơ nầy:
Thơ anh kể từ 12 và 19/12/1963 tôi đã nhận được hết. Xin báo tin Anh hay là số 500 tôi đã nhận được rồi còn số 1.000 cũng vừa nhận được tin của ngân hàng cho hay là đã có người bỏ vào compte tôi 340.000 tiền Nhựt tức là độ 956 Mỹ Kim (một mỹ kim là 360 tiền Nhựt), nếu 1000 Mỹ Kim thì phải là 360.000 tiền Nhựt như thế là họ bỏ vào trong compte tôi chưa đủ 1000 Mỹ kim, vậy Anh và anh Chín Thân hỏi lại họ xem. Còn số 200 thì tôi chưa nhận được. Còn vấn đề in ra 12 quyển giảng làm một cuốn thì nên lấy tên là “Hiển Đạo” ngoài bìa in bài thơ nầy:
THANH TÂM KIẾN CHƠN PHẬT
SĨ -- KHÍ-PHÙNG CHÁNH GIÁO
HIỂN PHÁP PHẬT NHƠN HÒA
ĐẠO -KHAI -MÔN -- TỪ - HẢO.
Bài thơ nầy đọc qua có nghĩa, mà đọc xuống mỗi hàng cũng đều có nghĩa. Nghĩa ấy cạn hay sâu là do trình độ của người đọc. Bài thơ nầy riêng bốn chữ đầu và bốn chữ cuối ráp lại tức là câu: “Thanh Sĩ Hiển Đạo, Phật Giáo Hòa Hảo”. Còn nội dung của bài thơ là tôn chỉ của Phật Giáo Hòa Hảo và sự tỏ ngộ người viết ra.
Nếu được anh em in 12 quyển làm một quyển cho chắc chắn, đẹp đẽ, sạch sẽ, đàng hoàng để cho ai liếc qua cũng muốn đọc đến là hay lắm. Công đức truyền bá giảng kinh cao quí hơn châu báu, xin Anh và anh chị em ở nhà rán góp sức nhau để phổ biến cho thật sâu rộng trong các giới quần chúng
------------- *** --------------
Kinh kệ cần lo tiếp tục truyền,
Tỉnh hồn bá tánh giấc sầu miên,
Bỏ đi lối sống theo ma quỉ,
Tìm đến đường sanh cõi Phật Tiên.
Công lớn ngọc vàng đâu dám sánh,
Đức cao tước lộc khó so duyên.
Hỡi ai nối chí theo Thầy Tổ.
Kinh kệ cần lo tiếp tục truyền.
Vắn tắt có mấy điều, tôi xin chúc Anh và anh chị em ở quê nhà đều được mạnh lành sáng suốt luôn.
THANH SĨ
Lá thư số 28: Tokyo, ngày 17-2-1964
Lá thư số 28: Tokyo, ngày 17-2-1964
Tokyo, ngày 17-2-1964
Hoài Ân thân mến,
Tết nhứt như thế nào? Ăn Tết có vui không? Anh và tất cả anh chị em đều được mạnh khỏe như thường chớ? Và vẫn có sự đi lại và liên lạc với nhau luôn chớ? Công việc đời đạo hiện nay tới đâu? Có phát triển tốt về phương diện nào không? Từ hôm đầu tháng 2 tới nay tình hình trong nước có sự gì thay đổi đáng kể hơn mấy tháng trước không?
Còn quyển Hiển Đạo đã in ra chưa? Khi in xong Anh nhớ gởi cho tôi một quyển để xem lại, nếu có chỗ sai tôi sẽ biên thơ về đính chánh. Và quyển “Thần Cơ Thật Luận” và “Con Thuyền Đại Đạo” cũng nhớ gởi qua cho tôi. Vấn đề đạo đức và việc truyền bá kinh giảng có được khả quan không? Nghĩa là có được đa số anh chị em chú tâm một cách nhiệt thành hay không? Ví dụ vấn đề nầy chưa được đa số người chú tâm đến cũng vậy, sự truyền bá kinh giảng vẫn tiếp tục như thường. Ánh sáng phổ thông đạo đức cứ chiếu luôn, nhứt định phải có một ngày phá tan được lớp tối đen trong lòng thiên hạ.
Ngày ấy thiên hạ sẽ trở nên thái bình nhứt, hiền lành nhứt và sáng sủa nhứt. Để đạt tới mục đích ấy, ở nhà anh và tất cả anh chị em phải đầy đủ tin tưởng, đầy đủ chí khí và đầy đủ tinh thần đoàn kết. Có tin tưởng mới có sức bảo tồn, có chí khí mới có sức thắng phục và có đoàn kết mới có sức mạnh lớn lao. Muốn làm việc lớn mà không có ba điều ấy rất khó thành tựu. Xin Anh và anh chị em ở nhà rán cố gắng.
Vắn tắt có bấy nhiêu, tôi thành thật cầu chúc Anh và anh chị em nơi quê nhà được dồi dào sức khỏe và sáng suốt để phụng sự đạo nghĩa.
THANH SĨ
Lá thư số 29: Tokyo, ngày 28-2-1964
Lá thư số 29: Tokyo, ngày 28-2-1964
Tokyo, ngày 28-2-1964
Hoài Ân thân mến,
Ở bên nầy tình hình Việt Nam cũng như đồng hướng quốc tế hiện thời, tôi đều được biết tin tức mỗi ngày. Tôi rất lấy làm lo nhiều. Xin Anh và anh chị em ở bên nhà nên bình tĩnh thận trọng, chọn lấy con đường chánh nghĩa an toàn và sáng sủa cho tương lai. Nhứt là phải tìm cách tăng cường tinh thần đoàn kết trong nội bộ để bảo vệ và làm phát triển đạo đức. Bất cứ công việc lớn nhỏ nào cũng phải có tổ chức chu đáo và cần phải có sự cộng tác của nhiều anh em. Nếu là công tác việc lớn lao quan trọng thì càng phải cùng nhau thảo luận kỹ lưỡng và phải được nhất trí.
Ở bên nầy tình hình Việt Nam cũng như đồng hướng quốc tế hiện thời, tôi đều được biết tin tức mỗi ngày. Tôi rất lấy làm lo nhiều. Xin Anh và anh chị em ở bên nhà nên bình tĩnh thận trọng, chọn lấy con đường chánh nghĩa an toàn và sáng sủa cho tương lai. Nhứt là phải tìm cách tăng cường tinh thần đoàn kết trong nội bộ để bảo vệ và làm phát triển đạo đức. Bất cứ công việc lớn nhỏ nào cũng phải có tổ chức chu đáo và cần phải có sự cộng tác của nhiều anh em. Nếu là công tác việc lớn lao quan trọng thì càng phải cùng nhau thảo luận kỹ lưỡng và phải được nhất trí.
Được như thế mới tránh khỏi những chỗ sơ sót và công việc mới tiến hành mau lẹ và có hiệu quả. Bất luận là việc đời hay việc đạo, nếu thiếu sức đoàn kết, thiếu cách tổ chức, thiếu sự thảo luận và thiếu người cộng tác là cái khuyết điểm lớn, dễ khiến cho công việc bị gãy đổ thất bại. Quan điểm ấy đáng luôn luôn chú trọng đến. Tôi xin Anh và anh chị em ở nhà nên nhớ.
Nhìn sâu khi thế khối Tây Đông,
Khá chọn con đường hợp lẽ công,
Đoàn thể bảo tồn cùng nhứt trí,
Quốc gia bình định phải chung lòng.
Trẻ già rán lập công cao cả,
Nam nữ cần trau chí đại đồng,
Tin tưởng đủ đầy đoàn kết mạnh,
Đạo mầu non nước quyết khai thông.
Vắn tắt có bấy nhiêu lời, tôi xin chúc anh và tất cả anh chị em ở nơi quê nhà đều được dồi dào phước huệ.
Thanh Sĩ
P.B.: Xin anh cho hay là tôi đã nhận được gói quà hồi trưa hôm qua 27-2-1964 và hai quyển giảng tôi cũng nhận được. Khi có thì giờ tôi sẽ đọc lại, những đoạn bị kiểm duyệt nên phương tiện thông tri cho anh em được biết, để cho mọi người có thể tự tiện ghi vào.
THANH SĨ
Lá thư số 30: Tokyo, ngày 3-3-1964
Lá thư số 30: Tokyo, ngày 3-3-1964
Tokyo, ngày 3-3-1964
Quảng thân mến,
Tôi vừa mới nhận được thơ của Quảng hồi trưa nầy, vội vã hồi âm cho anh chị em quê nhà được biết. Vấn đề tham học Phật pháp để mở mang trí đạo là việc tốt, tôi rất tán đồng ý kiến của Quảng và các anh em. Nhưng với điều kiện là khi dự học anh em cần phải có đủ sức tự chủ và tự tin. Tự chủ là đừng để cho biện thuyết nào dẫn dắt mình đi sai mục đích đã nhất định. Tự tin là đừng để cho hoàn cảnh nào khiến mình phản lại bổn nguyện đã phát tâm. Lúc nào cũng tin mình nỗ lực sẽ có thể tiến kịp người khác.
Nói tóm lại, học Phật pháp để mở rộng kiến thức, chớ để bị chi phối kiến thức, mở rộng kiến thức để có đủ khả năng đạt mục đích và bổn nguyện. Đó là điểm chánh trong việc đi học. Tôi khuyên Quảng và anh em ở nhà cần phải luôn luôn nhớ đến. Con người cần có trí thức, xã hội cần có đạo đức và Phật pháp cần được mở rộng để cứu giúp nhân loại bớt cảnh đau khổ tội ác là những điều đáng chú trọng và đề cập đến luôn trong hiện tại ở nước nhà cũng như các nơi trên thế giới.
Là tín đồ Phật giáo trong đạo của chúng ta, mỗi người đều cảm thấy mình có trách nhiệm sâu xa trong việc cứu giúp nhơn loại. Tôi khuyên Quảng và các anh em ở nhà nên đoàn kết chặt chẽ và tùy tiện tài sức của mình để giúp đỡ người đời về tinh thần cũng như vật chất được những ích lợi thiết thực hợp với đạo lý.
Vắn tắt có bấy nhiêu lời, tôi xin chúc cho Quảng và tất cả anh chị em được khỏe mạnh và tiến bộ nhiều trên đường tu học Phật pháp.
Thanh Sĩ
P.B.: Lời của tôi thâu trong cuộn máy ghi âm (Tape recorder) để tôi hỏi lại sở bưu điện, nếu gởi đi không có gì trở ngại thì tôi sẽ gởi về ngay để cho anh em nghe lại tiếng nói của tôi trong ấy. Tôi có nhận được thơ của Ưởng nhưng vì chưa có thời giờ nên tôi chưa trả lời được. Tuy nhiên, thay vì thơ trả lời tôi có gởi cho anh em một bài thi, Ưởng và anh em giảng viên đã được Bà Mười trao cho xem chưa?
Tặng bạn đồng đạo
Thanh tịnh là người trí huệ khai,
Sĩ từ Nhụt Bổn nhắn ai ai,
Vài câu đạo hạnh cần tô điểm,
Lời lẽ từ bi rán miệt mài.
Tặng hết cuộc đời cho Đức Phật,
Bạn đem trọn kiếp gởi Chơn Thầy,
Đồng tâm chánh giáo lo tu học,
Đạo đắc do lòng được dẻo dai.
THANH SĨ
Lá thư số 31: Tokyo, ngày 7-4-1964
Lá thư số 31: Tokyo, ngày 7-4-1964
Tokyo, ngày 7-4-1964,
Khối Tình Nhơn Loại
Khối tình nhơn loại chẳng hề tan,
Tìm cách đưa cho tới Niết Bàn,
Sanh tử thế gian không vướng nữa,
Khổ đau trần tục chẳng còn mang.
Sen Vàng đỡ gót đi mau chóng,
Mình Ngọc làm thân thấy vững vàng,
Tự tại tự do vô quái ngại,
Hoàn toàn siêu thoát cõi nhơn gian.
THANH SĨ
Lá thư số 32: Tokyo, ngày 7-12-1964
Lá thư số 32: Tokyo, ngày 7-12-1964
Tokyo, ngày 7-12-1964
Ông Sự thân mến,
Tôi thành thật cám ơn ông có lời thăm và tỏ cho biết ý chí. Tôi tin rằng ông đã hiểu rõ tư tưởng và chủ trương của tôi, lúc nào cũng muốn các tôn giáo ở Việt Nam đều được thành thật liên minh chặt chẽ với nhau để có đủ điều kiện, phương tiện thích hợp với trào lưu để cứu nhơn sanh trong giai đoạn đảo lộn không ngừng từ quốc gia nầy đến quốc gia khác trên thế giới.
Tôi thành thật cám ơn ông có lời thăm và tỏ cho biết ý chí. Tôi tin rằng ông đã hiểu rõ tư tưởng và chủ trương của tôi, lúc nào cũng muốn các tôn giáo ở Việt Nam đều được thành thật liên minh chặt chẽ với nhau để có đủ điều kiện, phương tiện thích hợp với trào lưu để cứu nhơn sanh trong giai đoạn đảo lộn không ngừng từ quốc gia nầy đến quốc gia khác trên thế giới.
Tôi thiết tưởng bất cứ tôn giáo nào nếu có thật lòng muốn tế độ người đời thì sẽ không bao giờ muốn chia rẽ với các tôn giáo khác, mà lúc nào cũng muốn liên kết với nhau thành một khối để giải cứu mọi sự đau khổ của thế gian. Các tôn giáo chia rẽ nhau tất không đủ tài đức để tự độ thì không phương gì làm việc độ tha một cách quảng đại viên mãn được.
Huống nữa, các tôn giáo cần phải liên minh để có đủ sức đương ngăn mọi trở lực trên đường hoằng sanh hóa chúng, kế đó là cũng để bảo tồn sự nghiệp tinh thần cao cả của đạo. Điều nầy có lẽ Ông cũng như những ai có thiện chí đều nhìn nhận như thế và sẽ liên tưởng ngay câu tục ngữ Việt Nam:
Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
Đúng như thế, ở giai đoạn nầy, bất luận một chi phái nào, một đoàn thể nào mà thiếu sự đoàn kết giữa nhau thì dễ bị người ta lợi dụng vào chỗ bất thiện. Thế cho nên, ý nguyện của tôi có thể nói tóm vào bài thơ như sau đây:
Rất mong tôn giáo nước non mình.
Sớm được hợp hòa một đức tin,
Khốn khổ chung tâm trừ khốn khổ,
Đao binh góp sức dẹp đao binh.
Từ bi cứu thế cho an lạc,
Bác ái độ dân được thái bình,
Giải thoát chúng sanh là mục đích,
Rất mong tôn giáo nước non mình.
Vắn tắt có mấy lời, tôi thành thật chúc ông và bửu quyến và thân hữu được vạn sự khương an.
THANH SĨ
Lá thư số 33: Tokyo, ngày 9-4-1964
Lá thư số 33: Tokyo, ngày 9-4-1964
Tokyo, ngày 9-4-1964,
Hoài Ân thân mến,
Tôi đã gởi quyển “Đời Mạt Pháp” về hồi cuối tháng rồi anh đã nhận được chưa? Và quyển Hiển Đạo đã in xong chưa? Mà mọi việc chưa thấy anh cho biết. Quyển “Đời Mạt Pháp” nếu được phép in và không có gì trở ngại trong việc phát ra thì tôi sẽ gởi thêm quyển “Là Phật Tử” về, để tiếp tục truyền bá.
Muốn cho người ta hiểu được mình còn là việc khó, huống hồ muốn cho người ta hiểu cả việc sâu xa chơn lý của Phật pháp lại càng khó hơn. Xin Anh và anh chị em ở nhà thoảng như có gặp trở ngại cũng rán kiên nhẫn lướt qua, chớ nản lòng và cũng chớ trách hận. Nên tìm cách phát triển đạo lý, phổ thông kinh giảng, nên tin tưởng giảng kinh là chìa khóa của cửa đạo và cũng là thuốc để chữa bịnh đời, cần phải tiếp tục truyền bá cho thật mạnh trong dân chúng.
Tôi đã gởi quyển “Đời Mạt Pháp” về hồi cuối tháng rồi anh đã nhận được chưa? Và quyển Hiển Đạo đã in xong chưa? Mà mọi việc chưa thấy anh cho biết. Quyển “Đời Mạt Pháp” nếu được phép in và không có gì trở ngại trong việc phát ra thì tôi sẽ gởi thêm quyển “Là Phật Tử” về, để tiếp tục truyền bá.
Muốn cho người ta hiểu được mình còn là việc khó, huống hồ muốn cho người ta hiểu cả việc sâu xa chơn lý của Phật pháp lại càng khó hơn. Xin Anh và anh chị em ở nhà thoảng như có gặp trở ngại cũng rán kiên nhẫn lướt qua, chớ nản lòng và cũng chớ trách hận. Nên tìm cách phát triển đạo lý, phổ thông kinh giảng, nên tin tưởng giảng kinh là chìa khóa của cửa đạo và cũng là thuốc để chữa bịnh đời, cần phải tiếp tục truyền bá cho thật mạnh trong dân chúng.
Còn riêng Anh và anh chị em ở quê nhà cần phải thấm nhuần chơn lý của đạo cho thật đầy đủ để làm kiểu mẫu cho người ta thấy cái “Chánh Tín” trong đạo Phật Giáo Hòa Hảo, khác hơn lời đồn rằng Phật Giáo Hòa Hảo là mê tín, như thế cũng là giúp cho người khác mạnh dạn tin tưởng theo và tu hành theo.
Vắn tắt có thế thôi, tôi xin chúc Anh và anh chị em ở quê nhà được vạn sự an lành.
THANH SĨ
P.B.: Xin giao cái bài thơ kèm theo đây cho Út Lẹ
Lá thư số 34: Tokyo, ngày 10-4-1964
Lá thư số 34: Tokyo, ngày 10-4-1964
Tokyo, ngày 10-4-1964
Thân tặng Thái Hòa
Từ khi cất cánh vượt trùng dương,
Nhựt Việt xa nhau lắm đoạn trường,
Thanh nhã lời về thay nỗi nhớ,
Sĩ hiền thơ gởi thế niềm thương.
Thân cầu đạo pháp mau khai ngộ,
Tặng chút huyền cơ sớm lãm tường,
Thái lạc cảnh mầu đưa khách đến,
Hòa cùng Phật hết chuyển luân phương.
THANH SĨ
Lá thư số 35: Tokyo, ngày 12-11-1965
Lá thư số 35: Tokyo, ngày 12-11-1965
Tokyo, ngày 12-11-1965
Gởi Lê Quang Tàu
Lê Quang Tàu thân mến,
Lê Quang Tàu thân mến,
Tôi đã tiếp được thơ của Tàu. Tuy đã hơn 10 năm qua Tàu không có viết thơ cho tôi, nhưng Tàu vẫn còn có lòng nhớ tưởng tôi, ấy cũng là quí lắm rồi và chính tôi cũng rất lấy làm cảm kích. Riêng tôi, dù đã xa nhau rất lâu và ở cách nhau muôn dặm trùng dương, nhưng trong lòng tôi không bao giờ quên Tàu và tất cả anh chị em đồng đạo ở quê nhà. Đặc biệt là vấn đề đạo lý, tôi luôn luôn lưu tâm đến Tàu và tất cả anh chị em đồng đạo ở khắp nơi.
Tôi rất muốn cho Tàu và cũng như hầu hết anh chị em trong đạo đều được vững mạnh Đức tin, hăng hái tu hành mở rộng tình thương yêu, đoàn kết giữa nhau như buổi ban đầu. Tôi thiết tưởng đã cùng thờ một Đạo nên coi nhau như anh em ruột thịt, sẵn sàng thứ lỗi cho nhau những khi hối ngộ, vui vẻ chỉ bảo cho nhau những điều thiếu sót và thành thật cứu giúp cho nhau những lúc hữu sự.
Đừng ngược đãi, đừng hiểm ác, đừng lạnh lùng với nhau, nhứt là đừng xem nhau như kẻ thù. Đó là mới thật là tình đồng đạo. Người trong đạo, ít nhứt cũng phải có những tâm tình và cách đối xử như vậy, mới không hổ thẹn là tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo. Đã sanh vào đời mạt pháp mà gặp được đạo lý cao siêu chơn chánh như Phật Giáo Hòa Hảo là phước bảy mươi đời, có thể nói đó là cái cơ hội duy nhứt giúp cho con người tu đến chỗ giải thoát, nếu người bỏ qua, hoặc vả làm trái ngược giáo lý thì không còn có sự mê muội vô phước nào hơn.
Bởi thế cho nên, từ khi đặt chơn ra nước ngoài cũng như lúc còn ở tại quê hương tôi vẫn không ngớt nhắc nhở anh chị em đồng đạo gần xa nơi xứ nhà: Dù có cảnh gian khổ đến đâu, thời cuộc có kéo dài đến bao xa cũng rán nhẫn nại và cố gắng theo đuổi việc tu hành, không nên nản lòng thối chí. Đời vốn là gian khổ, dẫu có gặp gian khổ cũng là thường. Và chính mình vì sự gian khổ ấy mà người ta cần phải lo tu. Tu để giải thoát mọi sự gian khổ. Nếu người đời không chịu lo tu thì những sự gian khổ còn kéo dài đến muôn kiếp cũng chưa thôi. Như vậy há không lấy làm lo sợ hay sao!
Chắc điều ấy, Tàu và anh chị em đồng đạo đã hiểu rõ lắm rồi. Bây giờ chỉ còn có cương quyết tu. Tu không chỉ ngồi yên niệm Phật mà nên lo làm những việc có lợi cho đời để bồi bổ công đức. Mỗi việc làm ấy là mỗi nấc thang cho bước chân giải thoát kiếp mê si thống khổ ở cõi hồng trần. Xin Tàu và anh chị em nên nhiệt huyết thực hiện.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc Tàu và tất cả anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được thân thể khương an và đạo quả viên thành.
THANH SĨ
Lá thư số 36: Tokyo, ngày 1-5-1964
Lá thư số 36: Tokyo, ngày 1-5-1964
Tokyo, ngày 1-5-1964
Ông Ký thân mến,
Nước để làm dân sanh cư, Đảng để làm cho nước tồn tại và đạo để làm cho đời khai thông. Nước không làm cho dân sanh cư là nước mất. Đảng không làm cho nước tồn tại là đảng vong, và đạo không làm cho đời khai thông là đạo hoại. Nước phải nhắm vào dân và đạo phải nhắm vào đời. Nước không dân thì nước không thành nước, Đảng không nước thì không thành Đảng và đạo không đời thì không thành đạo. Nước cho dân thì thật là nước, Đảng cho nuớc mới thật là đảng và Đạo cho đời mới thật là đạo. Không nên lấy nước làm của tư, không nên lấy Đảng làm của riêng và không nên lấy đạo làm của mình. Nếu không lấy nước làm của tư thì nước không rối loạn, nếu không lấy Đảng làm của riêng thì Đảng không chia rẽ và nếu không lấy đạo làm của mình thì đạo không lu mờ. Lấy nước làm của tư là phá hoại nước. Lấy Đảng làm của riêng là phá hoại Đảng, và lấy đạo là làm của mình là phá hoại đạo. Phá hoại nước tức là hại dân, phá hoại Đảng tức là hại nước và phá hoại đạo tức là hại đời. Nếu hại dân, hại nước và hại đời, thì đâu ý nghĩa gì gọi là Nước, là Đảng là Đạo nữa. Cho nên ý tôi muốn nói là Nước không làm hại dân, Đảng không làm hại nước, và Đạo không làm hại đời. Trái lại chỉ làm lợi dân, ích nước, và cứu đời, ấy là chánh nghĩa đấy.
Nước để làm dân sanh cư, Đảng để làm cho nước tồn tại và đạo để làm cho đời khai thông. Nước không làm cho dân sanh cư là nước mất. Đảng không làm cho nước tồn tại là đảng vong, và đạo không làm cho đời khai thông là đạo hoại. Nước phải nhắm vào dân và đạo phải nhắm vào đời. Nước không dân thì nước không thành nước, Đảng không nước thì không thành Đảng và đạo không đời thì không thành đạo. Nước cho dân thì thật là nước, Đảng cho nuớc mới thật là đảng và Đạo cho đời mới thật là đạo. Không nên lấy nước làm của tư, không nên lấy Đảng làm của riêng và không nên lấy đạo làm của mình. Nếu không lấy nước làm của tư thì nước không rối loạn, nếu không lấy Đảng làm của riêng thì Đảng không chia rẽ và nếu không lấy đạo làm của mình thì đạo không lu mờ. Lấy nước làm của tư là phá hoại nước. Lấy Đảng làm của riêng là phá hoại Đảng, và lấy đạo là làm của mình là phá hoại đạo. Phá hoại nước tức là hại dân, phá hoại Đảng tức là hại nước và phá hoại đạo tức là hại đời. Nếu hại dân, hại nước và hại đời, thì đâu ý nghĩa gì gọi là Nước, là Đảng là Đạo nữa. Cho nên ý tôi muốn nói là Nước không làm hại dân, Đảng không làm hại nước, và Đạo không làm hại đời. Trái lại chỉ làm lợi dân, ích nước, và cứu đời, ấy là chánh nghĩa đấy.
Tôi rất hy vọng anh em trong đoàn thể chúng ta nên nghiên cứu và định nghĩa rõ danh từ như thế nào là nước, là đảng, là đạo để phụng sự cho đúng cách, hầu tránh việc hại dân, hại nước và hại đời bằng cách trực tiếp hay gián tiếp. Tóm tắt là anh em ở quê nhà nên nghỉ đến quyền lợi chung của quốc gia và của đoàn thể mà dẹp bỏ đi lòng cá nhân, tính ích kỷ, để chung lo đoàn kết với nhau tích cực điều chỉnh nội bộ đoàn thể cho được tiến triển mạnh mẽ, cả hai phương diện chính trị lẫn tôn giáo.
Chia rẽ nhau tức là đi lùi vào ngõ bí và dễ thúc thủ trước cơ biến chuyển của quốc nội và quốc ngoại. Như thế là tai hại vô cùng. Nếu anh em trong đoàn thể vì quyền lợi cá nhân mà nỡ chia rẻ nhau là mù quáng, là sự rút cầu, chính cái quyền lợi ấy không thể lâu dài và sẽ không tránh khỏi cái họa to tát ở ngày mai, từ ở trong đi ra, hoặc từ ở ngoài đi vào. Chia rẽ chỉ là có hại, nhứt là nó có hại cho mối Đạo của Đức Thầy. Cho nên kẻ thật là trung thành với Đức Thầy và biết trách nhiệm đối với đoàn thể, nhứt định không thể làm cho đoàn thể chia rẽ.
Luôn luôn chủ trương đoàn kết và thống nhứt đoàn thể. Và nhứt định phải làm cho đoàn thể đoàn kết và thống nhứt thật sự. Có như thế mới vững mạnh, mới phát triển và mới tiến kịp trào lưu. Ông Ký, trên đây là ý kiến và là những điều tha thiết nhứt của tôi trong giai đoạn nầy, tôi rất mong rằng tôi được hân hạnh sớm thấy lại tinh thần đoàn kết và thống nhứt trong nội bộ đoàn thể chúng ta được khôi phục như xưa kia.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc ông và tất cả anh chị em ở quê nhà được dồi dào sức khỏe và sáng suốt.
THANH SĨ
Lá thư số 37: Tokyo, ngày 21-5-1964
Lá thư số 37: Tokyo, ngày 21-5-1964
Tokyo, ngày 21-5-1964
Thái Hòa thân mến,
Tôi rất cám ơn Thái Hòa đã viết thơ thăm tôi và báo tin cho tôi biết rất nhiều về nội tình đoàn thể. Tuy ở hải ngoại nhưng tôi luôn luôn theo dõi tin tức nước nhà qua các tin điện, phim ảnh, báo chí ngoại quốc (do các đặc phái viên ngoại quốc ở Việt Nam đưa ra) rất nhanh chóng, có thể nói là những việc gì đã xảy ra ở Việt Nam trong giờ trước thì ít giờ sau ở bên này tôi được biết tin ngay, cả đến câu chuyện nội bộ đoàn thể đã và đang động hướng như thế nào tôi cũng có tin và được cảm biết rất nhiều như là đứng trước mặt. Chưa có điều nào khiến tôi vui cả!
Tôi rất cám ơn Thái Hòa đã viết thơ thăm tôi và báo tin cho tôi biết rất nhiều về nội tình đoàn thể. Tuy ở hải ngoại nhưng tôi luôn luôn theo dõi tin tức nước nhà qua các tin điện, phim ảnh, báo chí ngoại quốc (do các đặc phái viên ngoại quốc ở Việt Nam đưa ra) rất nhanh chóng, có thể nói là những việc gì đã xảy ra ở Việt Nam trong giờ trước thì ít giờ sau ở bên này tôi được biết tin ngay, cả đến câu chuyện nội bộ đoàn thể đã và đang động hướng như thế nào tôi cũng có tin và được cảm biết rất nhiều như là đứng trước mặt. Chưa có điều nào khiến tôi vui cả!
Đoàn thể Phật Giáo Hòa Hảo sắp đúng 25 tuổi, từ lúc sơ sanh đến lúc trưởng thành đều sống trong gian lao (trong thời kỳ Pháp thuộc) khói lửa (trong thời kỳ cách mạng và nội chiến). Mà đến giờ phút nầy tinh thần giác ngộ, quyền lợi quốc gia và tình đoàn thể ruột thịt đạo đức của anh chị em vẫn chưa tiến bộ được chút nào, trái lại còn đi lùi là khác. Là một tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo có sứ mạng thiêng liêng đối với đoàn thể, nhìn vào cảnh đoàn thể chia rẽ huynh đệ tương tàn, tôi thấy lòng đau đớn và hổ thẹn hơn việc nào hết.
Đức Thầy vắng mặt, đoàn thể ở trong tình thế rắn không đầu, gà lạc mẹ, đường lối không thông, vận mạng không rõ, lúc nào cũng dễ có thể rơi vào chỗ nguy hiểm. Tại sao anh em không lo chung lưng đâu cật, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau từ việc lớn đến việc nhỏ cho qua phút gay go khỏi đường tăm tối, để cùng được an toàn vui vẻ? Tại sao anh em không thấy cảnh chim lồng cá chậu, tranh mồi ngon, giành lợi lớn chi ở trong thành của tấm song sắt, sao cứ lo cắn mổ nhau, không lo đoàn kết cho thành sức mạnh làm chim được ra khỏi lồng, cá được ra khỏi chậu để cùng nhau được hưởng cảnh sống tự do?
Chia rẽ tức là tự chặt lấy tay chơn của mình, chỉ giúp cho đối phương đắc sách, thiên hạ chê cười, chớ mình không được một tí ti phúc lợi nào đâu. Mình hại người mình chớ tưởng là được trọn hưởng mà nên nhớ rằng có kẻ khác chẳng để cho mình ngồi yên “Bạng duật tương trị ngư ông đắc lợi” chính là ở chỗ ấy. Đứng trước tình thế nghiêm trọng nầy, kẻ nào chủ trương chia rẽ nội bộ là mù quáng, là phá hoại. Chính họ là kẻ nhẫn tâm chà đạp tinh thần cao siêu của đoàn thể Phật Giáo Hòa Hảo và làm chán nản lòng yêu nước của người Việt Nam. Tôi tuyệt đối không tán thành cái chủ trương ấy.
Còn riêng tôi, từ địa vực quốc gia đến phạm vi quốc tế tôi đã được ý thức nhiều rồi, nếu ai tưởng rằng quan niệm của tôi trong khuôn khổ nhỏ hẹp hoặc là bị hạn chế ở một hình thức nào đó là đại lầm. Tôi chỉ lo cho đoàn thể Phật Giáo Hòa Hảo, lo chung cho nước Việt Nam và lo chung cho nhân loại. Đó là bổn phận và sứ mạng của tôi phải tùy theo trường hợp và hoàn cảnh để phục vụ cho đến mãn nguyện. Những thứ công danh lợi lộc của người ta tranh giành chụp giựt đó tôi chỉ thấy là trò cười, là tội nghiệp, ngoài ra không có ý nghĩ gì khác.
Ví dụ ngai vàng điện ngọc đối với tôi cũng là thứ tạm giả, như bao nhiêu thứ tạm giả khác trong đời, huống là những danh lợi nào khác, tôi không hề bận tâm đến. Tôi chỉ lo tìm kiếm mọi phương pháp phương tiện để cứu thoát nhơn sanh khỏi vòng hắc ám của đời sống xác thịt và linh hồn, nếu xác thịt con người còn đau khổ là tôi còn phải lo giải cứu, linh hồn con người còn mê muội là tôi còn phải lo đánh thức với bất cứ phương châm nào. Thoảng như tôi có đóng vai nọ, làm tuồng kia cũng chỉ là phương tiện hòa quang đồng trần để tế độ nhân sanh chớ không có dục vọng gì khác cả.
Còn vấn đề hồi hương, tôi đã gạn hỏi lòng tôi và tôi đã suy nghĩ rất nhiều thấy tình cảnh đối nội cũng như đối ngoại rất có nhiều lý do chưa tiện cho tôi trở về trong lúc nầy, nên có nhiều anh em liên tiếp sang đây muốn cho tôi về, nhưng tôi rất đau lòng mà trả lời với anh em rằng: Xin rán chờ tôi một lúc nữa.
Đối với cá nhân tôi anh em muốn nói sao, muốn nghĩ sao tôi cũng không chấp, nhưng đối với đoàn thể và quốc gia thì tôi rất hy vọng nơi anh em, về mặt tranh đấu, thì nên nghĩ đến quyền lợi chung, còn về mặt tu hành thì nên nghĩ đến chơn lý, nếu nghĩ đến quyền lợi chung thì không chia rẽ, nghĩ đến chơn lý thì không mê tín, không chia rẽ tất không đổ máu, không mê tín tất không lầm lạc, yêu đoàn thể cứu nước nhà và tự tỏ ngộ là căn bổn đó.
Các điều ấy tôi xin anh em nên nhận xét kỹ lưỡng.
THANH SĨ
Lá thư số 38: Tokyo, ngày 30-6-1964
Lá thư số 38: Tokyo, ngày 30-6-1964
Tokyo, ngày 30-6-1964,
Khuyên Kẻ Quê Nhà
Tu hành giá ngọc khó đem so,
Khuyên kẻ quê nhà hãy rán lo.
Hiền đức tất nhiên Trời Phật độ,
Chánh chơn sẽ được quới nhơn phò.
Ác gian chỉ khiến thân danh mỏng,
Tà mị càng làm số mạng co.
Bá tánh nên tin nơi quả báo,
Hành vi tội phước khá lường đo.
—
Hai Đôi Liễn tại Tây An Cổ Tự (xã Long Kiến)
Phật Giáo Tây An
Môn Pháp Phương Dưỡng
Dục Cầu Chi Chi
Nhập Tu Lộ Quốc
Tiên Yếu Tại Do
Khai Ngộ Ư Lai
Tâm Tánh Nhơn Đạo
Môn Pháp Phương Dưỡng
Tức Kỳ Chi Chi
Phật Giáo Kim Gia
Hòa Hảo Cổ Tự
Hai đôi liễn nầy đọc theo chiều dọc là:
Phật môn dục nhập tiên khai tâm môn tức Phật Hòa
Giáo Pháp cầu tu yếu ngộ tánh pháp kỳ giáo Hảo
Và:
Tây phương chi lộ tại ư nhơn phương chi kim Cổ
An dưỡng chi quốc do lai đạo dưỡng chi gia Tự
Mỗi chữ cuối và mỗi chữ đầu của hai câu liễn nầy đem ráp lại thành câu:
"Phật Giáo Hòa Hảo - Tây An Cổ Tự"
Ý nghĩa của hai đôi liễn nầy hiển thị chân lý của Đạo Phật. Rất mong người nào khi đọc đến đều cũng được lãnh hội.
THANH SĨ
Lá thư số 39: Tokyo, ngày 9-7-1964
Lá thư số 39: Tokyo, ngày 9-7-1964
Tokyo, ngày 9-7-1964
Hà Khê thân mến,
Tôi đã được hai bức thơ của Khê. Tôi xin cám ơn Khê. Được tin Khê đi Ấn Độ vẽ các di tích của Đức Thích Ca tôi rất mừng. Tôi xin chúc cho Khê được thành công các bức họa ấy, để mang về xứ nhà làm kỷ niệm hy hữu. Với tấm lòng mộ đạo, Khê không quên cố gắng tìm cách lập công trên đường tu hành bằng cách lo vẽ các thắng tích của Thầy Tổ để cho mọi người đến xem có thể nhớ lại cuộc đời của đức từ bi mà hồi tâm hướng thiện. Ngoài ra, đó cũng là để tô điểm thêm nghệ thuật văn hóa của nước nhà. Nói tóm lại, việc làm ấy rất ích lợi chung. Tôi rất hy vọng Khê rán trau giồi nghề nghiệp cho đến chỗ tuyệt đích và rán lo phát triển thiện chí hơn nữa trên đường đạo.
Vắn tắt có mấy lời như trên, tôi xin dừng bút và tôi xin chúc cho Khê luôn luôn được mạnh giỏi và thành công.
Tặng Họa Sĩ Hà Khê
Chớ để lòng xa đạo chút nào
Lúc nào đạo hạnh cũng giồi trau
Ai lay chẳng chuyển tâm từ thiện
Kẻ đổ không xiêu chí đạo mầu
Luyện được quang minh dù khổ nhọc
Tu cho đắc đạo mặc dài lâu
Tử sanh còn vướng còn tu mãi
Ví phải tu ngàn vạn kiếp sau
Lúc nào cũng từ bi
Lúc nào cũng tế độ
Đức Bồ Tát Quan Âm
Đã thành từ vạn cổ.
THANH SĨ
Lá thư số 40: Tokyo, ngày 18-7-1964
Lá thư số 40: Tokyo, ngày 18-7-1964
Tokyo, ngày 18-7-1964
Vài Lời Mong Ước
Kính chào nam nữ ở Quê hương,
Cầu chúc bình an mạnh giỏi thường,
Yêu nước, yêu dân, yêu Đạo nghĩa.
Khối tình yêu ấy rán phô trương.
---
Việc Đạo nghĩa từ đây cố gắng,
Kẻ ở xa xin nhắn lời về,
Rèn tâm hồn chớ để u mê,
Giữ thân phận đừng cho tội lỗi.
Việc chánh nghĩa nên làm chớ thối,
Tình yêu dân đừng đổi tấm lòng,
Hiệp lực nhau bảo vệ giống dòng,
Đồng tâm chí khai thông đất nước.
Nạn chia rẽ lo cho dứt được,
Họa thù hềm rán dẹp chớ gây,
Nền hòa bình góp sức nhau xây,
Cảnh khói lửa nắm tay nhau tắt.
Lo cho nước khỏi cơn nghèo ngặt,
Lo cho dân hết cuộc khốn nàn,
Yêu nước thì cứu nước cho an,
Yêu dân phải cứu dân hết khổ.
Nước loạn mãi thì nhà cửa đổ,
Dân nghèo luôn thì Tổ quốc nguy,
Sự an ninh phải được thiệt thi.
Cảnh no ấm cần lo thực hiện.
Tiến cho kịp quốc gia tiền tiến,
Tiến cho bằng dân chúng văn minh,
Nước Việt Nam cần được hòa bình,
Giống Hồng Lạc phải nên giàu mạnh.
Được lòng các quốc gia bên cạnh,
Được tình thân thiện đến Năm Châu,
Nước Việt Nam tiếng dội hoàn cầu,
Dân Hồng Lạc khiến đâu cũng biết.
Đối các sắc dân không khác biệt,
So tinh thần các nước không xa.
Đủ sức tài kiết thiết quốc gia,
Đủ tín nhiệm giao hòa thế giới.
Chánh trị chẳng ngược trào lưu mới,
Kinh tế không bước thối thời kỳ.
Mở mang nền văn hóa tinh vi,
Trình độ quốc dân đi đều đặn.
Quyền dân được nhận nhìn bình đẳng,
Tiếng nói dân tôn trọng cực kỳ.
Không thẹn cùng các nước Á, Phi,
Và cũng chẳng kém gì Âu, Mỹ.
Nước Việt chính là người Việt trị,
Dân Việt Nam làm chủ Việt Nam.
Nô lệ không còn kẻ nào ham,
Thực dân chẳng ai đem tình cảm.
Lòng ái quốc toàn dân ghi chạm,
Tình đồng bào khắp chúng thắm nhuần.
Ai cũng đều yêu nước thương dân,
Ai cũng muốn chủ quyền độc lập.
Nông dân cũng đầy lòng ái quốc,
Trí thức càng yêu nước nhiều hơn.
Ơn Nhà ai cũng muốn đền ơn,
Nghĩa Nước chẳng ai quên đáp nghĩa.
Nhơn cách mọi người đều trau trỉa,
Tinh thần ai cũng nhớ điểm tô.
Xã hội không còn lũ côn đồ,
Dân chúng có qui mô Đạo Lý.
Chẳng còn thấy hạng người thô bỉ,
Cũng hết nghe những thứ lưu manh.
Tánh nết ai cũng được hiền lành,
Cách ăn ở toàn dân ngay thẳng.
Nền giáo dục của dân bình đẳng,
Sanh hoạt dân đều đặn như nhau.
Không còn người bệ vệ trên cao,
Không còn kẻ bào hao dưới thấp.
Chung lo nước có nhiều sản xuất,
Chung lo dân có nghiệp nghề làm.
Sau phố không còn kẻ lủ lam,
Bên đường chẳng ăn xin vất vả.
Tật nguyền được có nơi bảo tá,
Mồ côi đều có chỗ dưỡng nuôi.
Lão thành thì có viện nghỉ ngơi,
Thiếu niên có đủ nơi học hỏi.
Dân được bảo đảm trong xã hội.
Có quyền tin, quyền nói, quyền làm,
Được đồng quyền tất cả nữ nam,
Nhân quyền được hoàn toàn tôn trọng.
Xúc tiến việc hỗ tương đời sống,
Giúp đỡ nhau áo ấm cơm no.
Mọi người đều hạnh phúc tự do,
Trong xã hội hết lo chinh lịch.
Ấy những điểm cần làm trước hết,
Để trưởng thành đất nước Việt Nam.
Nếu như đời sống chẳng lo kham,
Thì đạo đức khó làm xong được.
Hỡi những kẻ đầy lòng yêu nước,
Hỡi những người rất mực thương dân,
Rán làm cho nước được bình hưng,
Rán giải cứu cho dân hết khổ,
Làm cho nước vững đừng làm đổ,
Làm cho dân an chớ làm nguy.
Đó chính là công việc từ bi,
Đó mới thật hành vi chánh nghĩa.
Nhà chính trị há không triệt để,
Kẻ tu hành bao nỡ ngó lơ.
Mau làm cho nước thạnh dân nhờ,
Đời hay Đạo đều chờ mong đấy./.
THANH SĨ
Lá thư số 41: Tokyo, ngày 30-7-1964
Lá thư số 41: Tokyo, ngày 30-7-1964
Tokyo, ngày 30-7-1964
Thưa Má,
Trong lúc nầy Má và anh chị em ở nhà có được bình yên mạnh khỏe không? Riêng con ở bên nầy hiện đang là mùa hạ, khí trời nóng nực như là bên nhà, nên trong người con vẫn được mạnh luôn. Con xin Má nên an lòng. Và con xin khuyên Má nên giữ gìn sức khỏe cho được bình thường để con bớt sự lo ngại trong lúc còn phải nương náo ở ngoại quốc.
Trong lúc nầy Má và anh chị em ở nhà có được bình yên mạnh khỏe không? Riêng con ở bên nầy hiện đang là mùa hạ, khí trời nóng nực như là bên nhà, nên trong người con vẫn được mạnh luôn. Con xin Má nên an lòng. Và con xin khuyên Má nên giữ gìn sức khỏe cho được bình thường để con bớt sự lo ngại trong lúc còn phải nương náo ở ngoại quốc.
Còn quyển Hiển Đạo đã phát ra chưa? Quyển “Đời Mạt Pháp” đã ấn hành chưa? Bữa nay con đến sở bưu điện gởi quyển “Là Phật Tử” về cho Hoài Ân rồi. Quyển nầy cũng cần phải tiếp tục in ra và truyền bá thật rộng trong các tầng lớp dân chúng để giúp cho mọi người có dịp nghiên cứu thêm việc Phật pháp.
Suối nguồn kinh giảng cứ tuôn hoài,
Rửa tấm lòng người hết nghiệt cay,
Nhơn loại bát cơm vui sớt nửa,
Đồng bào hột muối biết chia hai.
Hòa bình hạnh phúc lo xây dựng,
Tranh chiến đau thương chẳng tạo bày.
Đều được ấm no đều đạo đức,
Thiên đường thật hiện tại trần ai.
Vắn tắt có mấy lời, con thành tâm cầu nguyện các đấng siêu hình gia hộ Má được luôn luôn tráng kiện và tu hành sáng suốt. Và con xin Má trao lời con thăm tất cả anh chị em đồng đạo gần xa ở quê nhà.
Con của Má
P.B.: Sắp hết bánh, con xin Má lo tráng gởi qua cho con một số để xây dựng.
Lá thư sô 42: Tokyo, ngày 14-8-1964
Lá thư sô 42: Tokyo, ngày 14-8-1964
Tokyo, ngày 14-8-1964
Hoài Ân thân mến,
Đọc thơ Ân cho biết quyển Hiển Đạo và Đời Mạt Pháp đã được in xong và đã được phát hành, tôi rất mừng lắm. Vấn đề truyền bá đạo đức cần phải tiếp tục vô hạn kỳ để đánh thức người đời từ bước lầm lạc tội lỗi được trở nên chơn chánh lương thiện, hầu giúp cho cõi đời tan dần mọi sự đau khổ xấu xa để lần lượt chuyển mình đến bước siêu nhiên giải thoát. Vấn đề nầy tôi xin Ân và tất cả anh chị em ở quê nhà rán cố gắng xúc tiến cho hoàn mỹ.
Đọc thơ Ân cho biết quyển Hiển Đạo và Đời Mạt Pháp đã được in xong và đã được phát hành, tôi rất mừng lắm. Vấn đề truyền bá đạo đức cần phải tiếp tục vô hạn kỳ để đánh thức người đời từ bước lầm lạc tội lỗi được trở nên chơn chánh lương thiện, hầu giúp cho cõi đời tan dần mọi sự đau khổ xấu xa để lần lượt chuyển mình đến bước siêu nhiên giải thoát. Vấn đề nầy tôi xin Ân và tất cả anh chị em ở quê nhà rán cố gắng xúc tiến cho hoàn mỹ.
Thời cuộc còn nhiều đoạn khó khăn,
Tu hành thiện tín rán cần năng,
Di Đà nhớ niệm đừng suy giảm,
Công đức cần lo được tiến tăng.
Phật vốn tại tâm tìm chớ bỏ,
Phước trong thế sự khá nên phăng,
Người mau toại nguyện nhờ trì chí,
Từ cổ chí kim một lẽ hằng.
Còn quyển “Là Phật Tử” cũng nên lo ấn loát phát gấp cho mọi người đọc đến luôn. Đó là giọt nước cam lộ để rửa bụi đời đấy. Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Ân và tất cả anh chị em ở quê nhà đều được vạn sự an lành tu hành sáng suốt.
THANH SĨ
Lá thư số 43: Tokyo, ngày 3-9-1964
Lá thư số 43: Tokyo, ngày 3-9-1964
Tokyo, ngày 3-9-1964
Khuyên Đồng Đạo
Đồng đạo quê nhà đạo khá âu,
Y lời Thầy Tổ dạy từ lâu,
Độ mình độ kẻ qua bờ giác,
Cứu nước cứu dân khỏi nạn sầu.
Hai chữ từ bi ôm giữ chặt,
Một niềm đạo đức khá in sâu,
Rán tu cho tới ngôi Tiên Phật,
Đồng đạo quê nhà đạo khá âu.
THANH SĨ
Lá thư số 44: Tokyo, ngày 18-9-1964
Lá thư số 44: Tokyo, ngày 18-9-1964
Tokyo, ngày 18-9-1964
Gởi Võ Ngọc Tông
Võ Ngọc Tông thân mến,
Võ Ngọc Tông thân mến,
Quyết tu đạt đạo chớ đâu không,
Thành bại đều do ở tại lòng,
Diệu pháp y hành thì đắc đạo,
Chơn truyền thật tập ắt tâm thông.
Vọng tâm rán diệt cho thanh tịnh,
Tà niệm lo trừ đến sạch trong,
Ma Phật tự thân nên chọn lọc,
Hồng gian nhưng chớ để mê hồng.
---
Tặng người căn đạo đức
Võ tâm trần cắt đứt
Ngọc màl giũa cho minh
Tông gia đều sáng rực.
THANH SĨ
Lá thư số 45: Tokyo, ngày 1-10-1964
Lá thư số 45: Tokyo, ngày 1-10-1964
Tokyo, ngày 1-10-1964
Tho thân mến,
Rất hân hạnh được thơ của Tho. Tôi thành thật cám ơn Tho, được tin Tho, gia quyến và anh chị em lớn nhỏ nơi quê nhà đều được bình an khỏe mạnh tôi lấy làm mừng lắm. Riêng tôi ở bên, hiện giờ vẫn được sức khỏe như thường. Xin Tho và anh chị em ở nhà nên an tâm. Tình trạng quốc gia tương đối hỗn độn, hoàn cảnh đoàn thể đương chia ly, sự sống của đồng bào dân chúng đương bấp bênh khổ sở. Tôi xin khuyên Tho và tất cả anh chị em ở nơi quê nhà nên trau giồi đạo đức, đoàn kết lẫn nhau và thương yêu giúp đỡ, để cho cùng nhau được qua khỏi lúc gian truân nguy hiểm.
Rất hân hạnh được thơ của Tho. Tôi thành thật cám ơn Tho, được tin Tho, gia quyến và anh chị em lớn nhỏ nơi quê nhà đều được bình an khỏe mạnh tôi lấy làm mừng lắm. Riêng tôi ở bên, hiện giờ vẫn được sức khỏe như thường. Xin Tho và anh chị em ở nhà nên an tâm. Tình trạng quốc gia tương đối hỗn độn, hoàn cảnh đoàn thể đương chia ly, sự sống của đồng bào dân chúng đương bấp bênh khổ sở. Tôi xin khuyên Tho và tất cả anh chị em ở nơi quê nhà nên trau giồi đạo đức, đoàn kết lẫn nhau và thương yêu giúp đỡ, để cho cùng nhau được qua khỏi lúc gian truân nguy hiểm.
Đạo đức là yếng sáng(*), đoàn kết là sức mạnh, và thương yêu là nhựa sống. Ba điều ấy cần phải có đủ mới có thể ổn định được kiếp sống và cứu cánh linh hồn. Giờ phút nào tôi cũng hết sức thiết tha mong mỏi tất cả anh chị em trong đoàn thể nơi quê nhà được đồng tâm nhứt trí đẩy mạnh phong trào đạo đức, đoàn kết thương yêu đến mức độ rất chơn chánh tuyệt điểm.
Có được như thế, mới có đủ khả năng thắng phục mọi gian khổ và mới có thể thay đổi được đời sống tốt đẹp sáng sủa ở ngày mai, theo ý tôi thiết tưởng. Tôi rất hy vọng nơi Tho và tất cả anh chị em ở quê nhà đều được nhận thức như thế.
Chánh đạo tìm ra chẳng dễ gì,
Gặp rồi cố nắm chớ buông đi.
Tu thân cứu độ thân đau khổ,
Luyện tánh khai trừ tánh ám si.
Công đức tháng ngày lo trưởng dưỡng,
Giáo truyền hôm sớm nhớ thi vi,
Thành lòng tiến hướng về phương Phật,
Giải thoát trần gian nguyện nhứt kỳ.
Thô sơ có mấy hàng. Tôi xin chúc cho Tho và quý quyến được vạn an. Và nhờ Tho vui lòng trao lời tôi kính thăm tất cả anh chị em lớn nhỏ xa gần.
Thanh Sĩ
P.B.: Vấn đề biết thạo tiếng Nhựt, tiếng Anh, tiếng Tàu, v.v… đâu có khó khăn gì mà Tho phải ngạc nhiên. Ngạn ngữ Anh có câu: "Nothing is impossible to a willing mind" (quyết chí thì không có việc gì bất lực). Còn người Nhựt cũng có câu "Nenrydhu iwa o mo tosu" (tập trung tinh thần thì có thể làm phủng được núi đá). Tóm tắt nếu mình đặt hết ý niệm vào việc gì thì nhứt định việc ấy sẽ nên.
Chú thích:
(*yếng sáng: đồng nghĩa với ánh sáng)
THANH SĨ
Lá thư số 46: Tokyo, ngày 13-10-1964
Lá thư số 46: Tokyo, ngày 13-10-1964
Tokyo, ngày 13-10-1964,
Quảng thân mến,
Nước nhà đang đi sâu vào cảnh nguy kịch đã thấy rõ trăm phần trăm, thế mà anh em trong đoàn thể vẫn không chịu bỏ cái thói bè phái, tị hềm và lấn áp lẫn nhau. Thật là tôi không hiểu anh em đã nhận định thời cuộc như thế nào? Nếu anh em cứ tranh chấp đố kỵ, chống báng lẫn nhau như vậy mãi, thì chỉ giúp cho kẻ đối phương có chỗ trống để chen vào phá hoại và làm ly tán nội bộ đoàn thể cho tê liệt và đến chỗ bế tắc mà thôi. Rốt cuộc bao nhiêu sự nghiệp công phu đều bị tan nát như bèo bọt, nếu cứ mãi như thế thật là đáng tiếc vô cùng!
Nước nhà đang đi sâu vào cảnh nguy kịch đã thấy rõ trăm phần trăm, thế mà anh em trong đoàn thể vẫn không chịu bỏ cái thói bè phái, tị hềm và lấn áp lẫn nhau. Thật là tôi không hiểu anh em đã nhận định thời cuộc như thế nào? Nếu anh em cứ tranh chấp đố kỵ, chống báng lẫn nhau như vậy mãi, thì chỉ giúp cho kẻ đối phương có chỗ trống để chen vào phá hoại và làm ly tán nội bộ đoàn thể cho tê liệt và đến chỗ bế tắc mà thôi. Rốt cuộc bao nhiêu sự nghiệp công phu đều bị tan nát như bèo bọt, nếu cứ mãi như thế thật là đáng tiếc vô cùng!
Chính anh em trong đoàn thể tự tay đập bỏ sự nghiệp cao quí thiêng liêng của Đức Thầy mà đến ngày giờ nầy anh em vẫn chưa nhận biết. Do những hành động bất lương trái đạo của nhiều anh em đã làm cho các giới tôn phái khác và dân chúng xa gần đâm ra chê cười chán ghét Phật Giáo Hòa Hảo. Vì lẽ ấy mà mối đạo Phật Giáo Hòa Hảo chỉ thấy lùi hẹp lại, chớ không thấy mở rộng ra được, đó là cái lỗi rất to tát và cũng vì thế mà đoàn thể đã gặp rất nhiều tai khổ v.v... Anh em trong đạo cứ chia rẽ gấu ó lẫn nhau mãi, thì còn có chỗ nào gọi là tình đồng đạo? Cứ tạo ra những việc lưu manh bạo ác mãi thì còn có chỗ nào gọi là nhà tu hành? Đức Thầy đâu có dạy những việc ấy. Nếu anh em cứ làm như thế thì đâu phải là tín đồ của Đức Thầy. Nhìn vào ngày mai của đoàn thể, anh em cảm thấy như thế nào? Anh em cảm thấy nó rất đen tối không? Nếu trong nội bộ đoàn thể không chung lo xây dựng và đoàn kết chặt chẽ. Có câu:
Cá không ăn muối cá ươn,
Không nghe cha mẹ sự tường con hư".
Nếu hành động trái ngược sự chỉ giáo của Đức Thầy, là anh em tự chiêu lấy sự thất bại nhục nhã và sự trừng phạt của định luật thiên nhiên.
Còn việc giải quyết sự lôi thôi chia rẽ trong đoàn thể là do tất cả các nhóm phải cùng nhau thành thật chung lo quyền lợi chung của đoàn thể, thì mới có thể giải quyết được. Chớ không thể nói riêng một bên nào. Tôi ngày nào cũng hy vọng anh anh em trong đoàn thể nên nhìn kỹ thời cuộc và xét rõ công việc tồn vong lợi hại chung của đoàn thể và của quốc gia mà cố gắng hòa hợp giữa nhau để lo giải cứu cho chính mình nói riêng và do quốc gia nói chung sớm qua khỏi cảnh loạn lạc, thống khổ và nghèo nàn.
Đồng thời, tôi cũng rất ước ao anh em trong đạo rán làm sao cho đúng đắn là một tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo đạo đức chơn chánh.
Tóm tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Quảng và tất cả anh chị em ở quê nhà đều được dồi dào sức khỏe và đầy đủ công đức.
Thanh sĩ
P.B.: Tâm hồn tôi lúc nào cũng đứng bên cạnh Đức Thầy. Hình ảnh của tôi là phụ thuộc, dù không đặt bên cạnh hình ảnh của Đức Thầy cũng được. Anh em chớ nên đắn đo cố chấp việc ấy. Xin anh em nên để tâm nghĩ đến việc gì có tánh cách cao cả đại sự hơn.
Còn việc Ba Cứ chụp hình chung với tôi tại Đông Kinh, việc đó không riêng Ba Cứ mà bất luận anh em nào khác ở trong nước sang đây đều có thể đứng chụp hình chung với tôi được cả, tôi không thể từ chối với một anh em nào đâu. Xin anh em chớ nên nghĩ lầm.
THANH SĨ
Lá thư số 47 : Tokyo, ngày 26-10-1964
Lá thư số 47 : Tokyo, ngày 26-10-1964
Tokyo, ngày 26-10-1964
Thái Hòa thân mến,
Tôi xin hồi âm cho Thái Hòa hay, vì còn lưới kiểm duyệt, nên ý kiến của Thái Hòa muốn tôi dùng lối văn xuôi nói vào băng ghi âm về mục đích của tôi sang Nhựt, sanh hoạt của tôi tại Nhựt và công việc thường xuyên của tôi trên đất Nhựt v.v… Tôi nhận thấy rất khó đưa ra trong lúc nầy. Vả lại công việc của tôi làm là tôi chỉ theo sứ mạng thiêng liêng và chí nguyện của tôi, chớ tôi không làm theo tiếng nói của người đời. Nên tôi không muốn tự quảng cáo, mà là tôi muốn để cho người ta âm thầm hay công khai tìm hiểu con người của tôi ở các hành động và tư tưởng thiết thực là tốt hơn.
Đứng trên địa hạt hoằng pháp lợi sanh mà nói, riêng cá nhân tôi, ví dù người đời không biết đến cũng được miễn là họ biết được Phật pháp tu hành là đủ rồi. Từ lâu tôi tiếp tục gởi bài vở về là cũng vì muốn cho người đời hiểu được Phật Pháp, không phải để cho thiên hạ hiểu riêng tôi. Tại sao tôi muốn cho người đời hiểu được Phật pháp? Ấy là vì tôi muốn cho ai ai cũng được hối quá, được hiển vinh và được giải thoát cõi đời đau khổ. Và từ nay trở đi, nếu có những bài vở như thế được phóng ra thêm, là cũng chính vì mục đích ấy.
Thái Hòa, tóm tắt có mấy lời, tôi rất hy vọng Thái Hòa được suy rộng thêm hơn những lời của tôi đã nói qua. Tôi xin chúc Thái Hòa và tất cả anh chị em ở nhà được đầy đủ đức tin và sáng suốt.
THANH SĨ
Lá thư số 48: Tokyo, ngày 24-10-1964
Lá thư số 48: Tokyo, ngày 24-10-1964
Tokyo, ngày 24-10-1964,
Lệ thân mến,
Ông Hoàn và Huy có đến tận văn phòng thăm tôi. Có đưa cho tôi giấy giới thiệu của Ngôn. Hai người đã trình bày cho tôi nghe rất nhiều về mọi việc ở nước nhà v.v… Suốt 4 tiếng đồng hồ đêm. Và vừa rồi đây, ông Tâm Giác cũng có đến thăm tôi. Ông đã kể nhiều vấn đề trong nước cho tôi nghe. Vào hồi đầu tháng nầy, ông Xuân Liên (phó tỉnh trưởng Vĩnh Long) từ Mỹ ghé Đông Kinh đến gặp tôi. Y cũng có nói cho tôi nghe qua tình hình nước nhà và cũng có hỏi tôi rất nhiều về việc đạo lý v.v…
Ông Hoàn và Huy có đến tận văn phòng thăm tôi. Có đưa cho tôi giấy giới thiệu của Ngôn. Hai người đã trình bày cho tôi nghe rất nhiều về mọi việc ở nước nhà v.v… Suốt 4 tiếng đồng hồ đêm. Và vừa rồi đây, ông Tâm Giác cũng có đến thăm tôi. Ông đã kể nhiều vấn đề trong nước cho tôi nghe. Vào hồi đầu tháng nầy, ông Xuân Liên (phó tỉnh trưởng Vĩnh Long) từ Mỹ ghé Đông Kinh đến gặp tôi. Y cũng có nói cho tôi nghe qua tình hình nước nhà và cũng có hỏi tôi rất nhiều về việc đạo lý v.v…
Tôi chỉ đứng cửa giữa để nghe hai tiếng chuông và chỉ nói thẳng cái quan niệm của tôi đối với đạo giáo và nước nhà. Đạo giáo thì tu hành cho được trí huệ và siêu thoát, nước nhà thì lo tranh đấu cho được độc lập, dân chủ chủ quyền và thống nhứt. Đại lược chỉ có bấy nhiêu thôi.
Lệ, bịnh tranh chấp trong nội bộ đoàn thể vẫn còn trầm trọng lắm phải không? Và mọi việc đối nội cũng như đối ngoại hiện thời đã và đang như thế nào? Lệ nhớ viết thơ cho tôi biết. Vắn tắt có thế thôi, tôi xin chúc cho Lệ và tất cả anh em ở nhà đều được vạn an,
THANH SĨ
Lá thư số 49: Tokyo, ngày 27-10-1964
Lá thư số 49: Tokyo, ngày 27-10-1964
Tokyo, ngày 27-10-1964
Đừng Chán Buồn
Đừng chán buồn khi gặp khó khăn,
Nhiệm mầu, mối đạo rán lo phăng,
Từ bi lấy đổi người gian ác,
Hỷ xả đem ngăn thứ dữ dằn.
Phật pháp khuyên luôn dù kẻ chống,
Tu hành giữ mãi mặc người ngăn,
Thương yêu tha thứ và nâng đỡ,
Tỏ rõ cho ai cũng thấy rằng...
THANH SĨ
Lá thư số 50: Tokyo, ngày 12-11-1964
Lá thư số 50: Tokyo, ngày 12-11-1964
Tokyo, ngày 12-11-1964,
Nung Chí Đạo Mầu
Thưa Má,
Thưa Má,
Má và anh chị em ở nhà có được bình an khỏe mạnh hay không? Mà hơi lâu rồi không thấy thơ từ gởi qua cho con biết? Con rất trông thơ, hằng ngày ở bên nầy con vẫn được sức khỏe không có sự gì đáng lo. Tại Đông Kinh đã lạnh nhiều rồi, nhưng chưa thấy tuyết xuống. Ở trong nhà người nào cũng phải dùng lò sưởi và mỗi khi đi ra ngoài đều phải mặc đồ ngự hàn trịnh trọng lắm. Để tránh bịnh cảm như những mùa đông qua, hiện thời con tiêm thuốc giữ sức khỏe. Có lẽ mùa đông năm nay, trong người con sẽ dễ chịu hơn năm qua. Con xin Má nên an tâm.
Thưa Má, việc đạo đức hiện giờ như thế nào? Anh chị em đồng đạo có kiên nhẫn lo việc đoàn kết nhau để lo việc tu hành tinh tấn truyền bá đạo lý và phụng sự đồng bào nhơn loại không? Việc đạo lý là then chốt, nếu để mất nó là tan rã tất cả. Có đạo đức mới có lòng thương yêu giúp đỡ một cách chơn thành. Đạo đức là tinh anh, là nguồn sống của con người.
Chính Phật Giáo Hòa Hảo vì đạo đức mà có, và do đạo đức mà tồn tại. Cho nên người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo nhứt định một lòng chung thỉ với đạo đức, lấy đạo đức làm cứu cánh cho thân sống và linh hồn. Con xin Má khuyên anh chị em đồng đạo nên tăng cường tinh thần đạo đức. Và xin Má gởi đến tất cả anh chị em đồng đạo xa gần bài thơ sau đây:
Nung Chí Đạo Mầu
Nung chí nhau lo việc đạo mầu,
Làm cho thấy rõ nẻo huyền sâu.
Ruộng lành hiệp mở mang nhiều chốn,
Đuốc huệ đồng soi rọi khắp đâu.
Kẻ của cho nhau khi túng thiếu,
Người công giúp lẫn lúc nhu cầu.
Tinh thần vật chất vui chia sớt,
Giải quyết cho xong mọi khổ sầu.
Vắn tắt có mấy lời, con xin ơn trên Phật Thần hộ Má được khương kiện minh mẫn. Và nhờ Má trao lời con thăm tất cả anh chị em đồng đạo.
Con của Má
Lá thư số 51: Tokyo, ngày 13-11-1964
Lá thư số 51: Tokyo, ngày 13-11-1964
Tokyo, ngày 13-11-1964
Đạt Đa thân mến,
Tôi đã nhận được thơ của Đạt Đa. Được tin Đạt Đa và anh chị em đồng đạo đang nỗ lực phổ thông đạo đức một cách rộng rãi trong các giới quần chúng, tôi rất vui mừng. Tuy tôi ở phương xa nhưng lòng tôi lúc nào cũng ở bên cạnh Đạt Đa và anh chị em đồng đạo. Lúc nào tinh thần đạo đức của Đạt Đa và anh chị em đồng đạo lên cao là lúc ấy tôi rất sung sướng, lúc nào tinh thần đạo đức của Đạt Đa và anh chị em đồng đạo xuống thấp thì tôi rất đau khổ. Tôi với Đạt Đa và anh chị em đồng đạo có sự liên can mật thiết như xác thịt với linh hồn. Tôi rất hy vọng Đạt Đa và anh chị em đồng đạo đều cùng chung một ý thức như thế.
Đạt Đa và anh chị em đồng đạo rán kiên nhẫn và tinh tấn trên đường tu hành cho đến khi được trọn lành trọn sáng. Tôi rất ao ước khi tôi trở về quê hương được gặp Đạt Đa và anh chị em đồng đạo đã viên mãn ở điểm ấy. Xin Đạt Đa và anh chị em đồng đạo ở quê nhà cố gắng giúp tôi được như ý muốn.
Treo gương đạo đức khắp gần xa,
Tự giác đồng thời phải giác tha,
Độ thoát hồn người về Cực Lạc,
Cứu an thân kẻ ở Ta Bà.
Kệ kinh chơn lý phô bày rõ,
Tâm chí bình minh vạch chỉ ra,
Chớ có tu riêng tu cả chúng,
Phải tu cứu vớt khắp muôn nhà.
Còn thơ của Đạt Đa hỏi về Giới Định Huệ tôi xin giải đáp vắn tắt như thế nầy: Tu Giới thì không tham lam, tu Định thì không sân hận, tu Huệ thì không si mê. Tu như vậy cho đến khi nào lòng mình có đủ Giới, Định, Huệ khỏi phải lo trước, tức là không còn biện biệt tướng giới hay tâm giới nữa. Còn tướng giới hay tâm giới thì còn là thứ tập sự và trói buộc chưa được tự tại. Cho nên khi trong lòng được thuần chơn rồi thì không còn chấp cái gì làm giới nữa mà vẫn không bao giờ bị phạm giới. Đối với Định, Huệ cũng như thế.
Nói tóm lại, muốn đạt được mức tu ấy, trước hết phải dẹp bản ngã và chí công tu luyện cho dày dặn mới được.
Vắn tắt có mấy dòng, tôi xin chúc cho Đạt Đa và anh chị em được tăng trưởng Bồ Đề tâm.
Thanh Sĩ
P.B.: Sau khi nhận được thơ thì liền khi đó tôi có trả lời cho Võ Kim Đơn lâu rồi, chưa nhận được hay sao?
THANH SĨ
Lá thư số 52 : Tokyo, ngày 18-11-1964
Lá thư số 52 : Tokyo, ngày 18-11-1964
Tokyo, ngày 18-11-1964,
Gởi Huỳnh Văn Tự
Huỳnh Văn Tự thân mến,
Huỳnh Văn Tự thân mến,
Tôi rất cám ơn Tự thường viết thơ thăm tôi. Theo tôi nghĩ viết thơ là dễ nhưng viết lòng là khó. Cho nên giá trị lá thơ là ở tấm lòng. Đọc được lòng Tự trong thơ, tôi rất vui mừng, vì Đức Thầy vì đạo pháp và vì đồng bào nhơn loại của Tự và anh chị em đồng đạo nơi quê hương càng cao đến ngần nào thì lòng kính mến của tôi đối với Tự và anh chị em cao đến ngần ấy. Ví dụ: Tự và anh chị em đồng đạo có quên tôi, nhưng không bao giờ quên Đức Thầy và đạo đức, lòng tôi vẫn vui, còn nói gì nếu được tự và anh chị em đồng đạo vẫn nhớ Đức Thầy, nhớ đạo đức và nhớ tôi, thì càng làm cho tôi vô cùng kính mến. Tôi lúc nào cũng như thế. Tôi không nói ra, nhưng tôi tin rằng Tự và anh chị em đồng đạo nơi quê nhà đã thông cảm được con người của tôi, mặc dù hiện giờ tôi đang ở xa.
Tự, tôi khuyên Tự và anh chị em đồng đạo nơi quê hương dù rằng gặp phải trăm đắng ngàn cay cũng rán kiên tâm trì chí lo việc tu hành đạo đức. Rán tìm mọi cách thương yêu và giúp đỡ lẫn nhau, giúp nước bằng chính nghĩa, giúp đạo bằng chánh pháp. Cần phải thường ngày khuyến khích lẫn nhau lo trau giồi hạnh kiểm và lo tu tạo công đức. Rèn luyện cho nhau có tinh thần phục thiện và phản tỉnh, phải tôn trọng lẫn nhau, nhìn nhận lẽ phải của nhau và cùng nhau vui vẻ trao đổi những tư tưởng tốt lành.
Nói tóm lại, anh chị em đồng đạo nên phục hồi tâm hồn huynh đệ, vui thì cùng nhau vui, khổ thì cùng nhau khổ, bất luận lúc nào cũng cùng thương yêu nhau và hiệp lực với nhau để lo việc nước nhà và đạo lý cho đến chỗ toàn thiện toàn mỹ.
Khối Tình Trong Đạo
Cuộc thế dù cho mấy cấn gay,
Khối tình trong đạo cũng đừng phai,
Sướng vui cùng hưởng điều vui sướng,
Đày đọa đồng cam sự đọa đày.
Đạo lý chung lo cho sáng tỏ,
Nước nhà hiệp giúp khỏi nàn tai,
Nêu cao thiện chí người Hòa Hảo,
Cuộc thế dù cho mấy cấn gay.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Tự và tất cả anh chị em đồng đạo nơi quê nhà đều được phấn tấn đạo tâm và đầy đủ sức khỏe.
Thanh Sĩ
P.B.: Nên dùng chánh niệm để trừ tà niệm. Nên tùy hoàn cảnh để phổ biến đạo đức. Mục đích là chánh phương pháp là phụ, phương pháp nào cũng được miễn là đạt được mục đích. Thế ở trường khác hơn thế ở trận, cho nên phải tùy cơ ứng biến.
THANH SĨ
Lá thư số 53: Tokyo, ngày 23-11-1964
Lá thư số 53: Tokyo, ngày 23-11-1964
Tokyo, ngày 23-11-1964
Hoài Ân thân mến,
Tôi vừa mới nhận được thơ của Ân. Được tin Ân và anh chị em ở quê nhà vẫn được bình yên khỏe mạnh, tôi rất an lòng. Riêng ở bên nầy, mặc dù thời tiết đã trở nên lạnh nhiều rồi, nhưng tôi cảm thấy trong người tôi rất dễ chịu hơn những năm qua. Chút tháng nay tôi hơi bận nhiều, vì ngoài những công việc phải làm mỗi ngày, đến mỗi tối thứ hai, thứ tư, và thứ sáu từ 8 đến 10 giờ, tôi còn phải đi dạy tiếng Nhựt cho thượng tọa Thích Thiền Định ở chùa Ấn Quang Sài Gòn sang du học ở đây.
Tôi vừa mới nhận được thơ của Ân. Được tin Ân và anh chị em ở quê nhà vẫn được bình yên khỏe mạnh, tôi rất an lòng. Riêng ở bên nầy, mặc dù thời tiết đã trở nên lạnh nhiều rồi, nhưng tôi cảm thấy trong người tôi rất dễ chịu hơn những năm qua. Chút tháng nay tôi hơi bận nhiều, vì ngoài những công việc phải làm mỗi ngày, đến mỗi tối thứ hai, thứ tư, và thứ sáu từ 8 đến 10 giờ, tôi còn phải đi dạy tiếng Nhựt cho thượng tọa Thích Thiền Định ở chùa Ấn Quang Sài Gòn sang du học ở đây.
Tuy rằng bận việc và đêm nào cũng thức đến hai ba giờ khuya, nhưng tôi vẫn thấy khỏe mạnh. Xin Ân và anh chị em ở quê nhà nên yên tâm về sức khỏe của tôi. Ân và anh chị em ở nhà rán nắm tay nhau tiến mạnh trên đường đạo đức, từ thiện và phước ích cho đồng bào và nhơn loại. Nên lấy sự đoàn kết làm căn bản của sức mạnh trên đường phụng sự đạo lý, quốc gia và lấy việc đạo đức, chánh nghĩa làm nền tảng cho các hành động ở ngày mai.
Tôi luôn luôn hy vọng nơi Ân và anh chị em ở nhà lúc nào cũng cương quyết duy trì và thực hiện đầy đủ các quan điểm đó.
Tu Cứu Hồn và Cứu Thân
Tu cứu hồn luôn cứu cả thân,
Sống cho lạc nghiệp thác an thần,
Từ tâm cởi mở u mê chúng,
Thiện chí tiêu trừ khổ nạn dân.
Ủng hộ tự do toàn thế giới,
Chủ trương giải thoát khắp xa gần,
Tu siêu hồn phách an đời sống,
Như thế là tu đạo chánh chơn.
Bây giờ tôi cần phải đi gặp người ta, tôi xin dừng bút. Xin hẹn với Ân ở những thơ khác. Tôi xin chúc cho Ân và anh chị em ở nhà đều được bình an sáng suốt.
THANH SĨ
Lá thư số 54: Tokyo, ngày 4-12-1964
Lá thư số 54: Tokyo, ngày 4-12-1964
Tokyo, ngày 4-12-1964
Gởi Trường và Tuyết
Trường và Tuyết thân mến,
Trường và Tuyết thân mến,
Tôi rất cám ơn Trường và Tuyết có lòng biên thơ thăm tôi. Điều mà khiến cho tôi rất vui mừng và cảm động hơn hết là cái tinh thần đạo đức của Trường và Tuyết gói ghém một cách chơn thành ở trong thơ. Tinh thần ấy quí báu vô giá đối với tôi. Những người có tinh thần đạo đức là người đáng kính mến nhứt của tôi. Tuy hiện thân của tôi đang ở chốn xa xôi. nhưng tâm hồn tôi lúc nào cũng ở sát bên cạnh họ. Chính tôi đối với Trường và Tuyết cũng như thế. Tôi rất hy vọng được Trường và Tuyết tin nhận cho. Đồng thời, tôi cũng xin khuyên Trường và Tuyết rán lo trưởng dưỡng tinh thần đạo đức cho được ngày càng phát triển đến trình độ trọn lành trọn sáng, hầu có đủ khả năng phương tiện giúp đỡ người khác cho cùng được tự giác và hướng thiện tu hành đạo đức như mình.
Đời càng nhiều tệ đoan thì việc đạo đức cần phải đem ra phổ biến để có vá sửa lại. Đạo đức là con đường đưa người đời đến cảnh hòa bình nhân đạo sáng sủa và tốt đẹp. Bất luận ở trào lưu nào, thời đại nào, dù có khoa học văn minh vô thần thực tế tới đâu đi nữa cũng cần đến việc đạo đức. Mất đạo đức thì trước hết là mất hết cả hương vị của con người, kế đó là mất luôn những cái gì gọi là hòa bình hạnh phúc.
Có thể nói con người khác hơn con vật là nhờ có đạo đức. Nếu để mất đạo đức thì thế giới loài người trở nên đen tối hèn hạ và tội ác đến mức độ nào? Không cần phải nói rõ ra, mỗi người đều có thể hình dung được. Thế cho nên, đời tôi lúc nào cũng lấy việc đạo đức làm trước của lẽ sống. Tôi rất ước mong Trường và Tuyết cũng như tất cả những người khác có thiện chí đều tán đồng quan niệm ấy và cố gắng duy trì tinh thần đạo đức trong dân gian, mặc dù rất khó thực hiện và có nhiều chướng ngại.
Thô sơ mấy hàng, tôi xin dừng bút, xin thành tâm cầu chúc cho Trường và Tuyết cơ thể khỏe mạnh, đạo pháp viên thông.
THANH SĨ
Lá thư số 55: Tokyo, ngày 19-12-1964
Lá thư số 55: Tokyo, ngày 19-12-1964
Tokyo, ngày 19-12-1964
Lệ thân mến,
Lệ, Thiện Duyên và anh em có nhiều thiện chí ở quê nhà đã tận tâm nỗ lực lo thống nhứt đoàn thể, nhưng đến giờ phút nầy cũng chưa được kết quả tốt đẹp, trái lại chỉ thấy chứng bịnh chia rẽ kinh niên của đoàn thể càng ngày càng trầm trọng hơn không giảm bớt một tí nào. Ở bên nầy, tôi vô cùng bất nhẫn, không còn biết phải đem lời gì để khuyên nhủ kêu gào hơn nữa, cho người trong đoàn thể chịu nhìn thẳng đến cái kết quả tai hại của sự chia rẽ đang chập chờn trước mắt, để có gấp rút đưa tay ra nắm chặt lẫn nhau chung lo bảo vệ nền tín ngưỡng và quyền lợi tối cao của đoàn thể trong giờ phút nghiêm trọng nầy.
Tôi không cho đó là tại vận mạng của đoàn thể mà tôi chỉ nghĩ đó là tại anh em trong đạo bị quyền lợi cá nhân làm mù quáng, khiến suy mòn tình đoàn kết và không thật tâm trung thành với đạo của Đức Thầy, cho nên mới đành để cho tình trạng chia rẽ nội bộ kéo dài đến ngày nay. Hiện tình hình nước nhà đang lâm trong thế cờ gì? Nguy ngập đến ngần nào? Và đoàn thể chúng ta rất có quan hệ trong cuộc an nguy của đường lối quốc gia như thế nào? Anh em có trách nhiệm trong đoàn thể có lúc nào để tâm suy biện đến chăng?
Anh em có thấy cảnh trước mắt là hầm chông sau lưng là vực thẳm mà đoàn thể của chúng ta vô tình hay cố ý đã đang loạng choạng trong chỗ ấy chăng? Anh em có nhận thấy sự chia rẽ là mẹ đẻ của sự suy mòn tan nát lực lượng khí thế của đoàn thể, để rồi một ngày kia ai cũng có thể đàn áp lung lạc một cách dễ dàng chăng? Trong khi đó người trong đoàn thể có nghĩ là thảm khổ hay vui sướng? Những anh em mưu mô chia rẽ nội bộ, khi đoàn thể bị khủng bố, đối phương họ có tha cho anh em chăng?
Ví như có được họ tha, anh em thấy đó là vinh hay nhục? Quá khứ của đoàn thể đã do chúng ta rất nhiều bài học rất chua cay đích đáng, chúng ta không nên quá mơ ngủ mà là phải luôn cảnh giác và phải nhìn vào sự thật của các cuộc diễn biến quốc gia và quốc tế để bước cho đúng nhịp, hầu tránh mọi sự gãy đổ sai lầm đáng tiếc. Anh em trong đoàn thể, nên nhớ lại câu: “Bạng duật tương trì, ngư ông đắc lợi”.
Sự chia rẽ trong đoàn thể chúng ta hiện có vô số người đang vỗ tay cười và rất sung sướng đã được người đoàn thể mình đã gãi đúng chỗ ngứa của họ. Nếu người trong đoàn thể không sớm phản tỉnh và giác ngộ quyền lợi chung để cố kết nhau lại thành một thì chỉ làm mọi không công cho thiên hạ và khó tránh khỏi sự tương tàn tương tặc trong nội bộ do kế hoạch khai thác của đối phương.
Nói tóm lại, kẻ lãnh đạo trong đoàn thể có trách nhiệm hơn ai hết trong vấn đề thống nhứt nội bộ. Không nên vì bất cứ một lý do gì mà chần chờ nữa, cần phải cùng nhau thành tâm gác bỏ mọi sự tranh chấp riêng tư, cố gắng đem lại niềm hòa khí giữa nhau để cho công cuộc đoàn kết nội bộ được thành tựu. Đó là lối thoát của đoàn thể trong tình thế tiến thối lưỡng nan nầy.
Sau đây tôi xin đề nghị với anh em trong đoàn thể:
- Phủ nhận bất cứ hành động gì không phục vụ mục tiêu tranh đấu chung trên cơ sở đại đoàn kết của các tôn giáo đảng phái nhằm mục đích hòa bình, dân chủ, độc lập, chủ quyền thật sự.
- Cực lực cảnh cáo, đồng thời lên án là phản đạo, phản cách mạng, phản dân tộc bất cứ lực lượng nào, nhân vật nào, không kể quá trình hoặc tình cờ của sự sinh nở như thế nào mà mang danh nghĩa nầy, hình thức nọ, đã vô tình hay cố ý gây ra những hành động nói trên. Tôi chỉ thô sơ có bấy nhiêu lời, xin chúc Lệ, Thiện Duyên và tất cả anh chị em ở quê nhà đều được luôn luôn an lành sáng suốt.
THANH SĨ
Lá thư số 56: Tokyo, ngày 21-12-1964
Lá thư số 56: Tokyo, ngày 21-12-1964
Tokyo, ngày 21-12-1964
Gởi Lê Hữu Nghĩa
Lê Hữu Nghĩa thân mến,
Xin cám ơn Nghĩa đã có lòng viết thơ thăm tôi. Nghĩa, thân quyến và anh chị em đồng đạo ở quê nhà vẫn được bình an sốt sắng công phu tu hành thường ngày chớ?
Lê Hữu Nghĩa thân mến,
Xin cám ơn Nghĩa đã có lòng viết thơ thăm tôi. Nghĩa, thân quyến và anh chị em đồng đạo ở quê nhà vẫn được bình an sốt sắng công phu tu hành thường ngày chớ?
Ở Nhựt Bổn hiện giờ đang ở giữa mùa đông, khí hậu lạnh như nước đá, nhưng tôi cũng vẫn khỏe mạnh không có gì đáng lo. Xin nghĩa và anh chị em ở quê nhà nên an lòng. Được biết nghĩa và anh chị em ở quê nhà vẫn còn giữ nguyên vẹn tấm lòng tín ngưỡng Phật pháp và hăng hái lo việc tu hành như thường thì tôi rất vui mừng và cảm động lắm. Xin nghĩa và anh chị em đồng đạo ở quê nhà rán cố gắng gây tình đoàn kết giữa anh em, rán un đúc mạnh mẽ tinh thần tu hành vả rán phổ thông đạo đức cho càng ngày càng được phát triển sâu rộng sáng tỏ hơn.
Tình đoàn kết được mạnh thì họa xâu xé không sanh, tinh thần tu hành càng cao thì sự tội lỗi ít phạm và việc phổ thông đạo đức được lan rộng ra thì mùi đời sẽ được lạt bớt đi. Đó là những việc làm rất có kết quả, tốt đẹp cao siêu cho xã hội con người một cách chắc chắn cụ thể. Xin nghĩa và anh chị em đồng đạo ở quê nhà chớ ngại sự gian khổ khắt khe của thời cuộc và tình đời, rán cùng chung tinh tấn trau giồi đạo hạnh và tìm làm những việc có phước huệ cho nhơn sanh.
Tôi rất hy vọng ngày tôi trở về nước nhà được gặp Nghĩa và tất cả anh chị em đồng đạo xa gần đều được trọn lành trọn sáng như nhau cả. Vắn tắt có bao nhiêu lời, tôi xin chúc cho Nghĩa, bửu quyến và tất cả anh chị em đồng đạo lớn nhỏ đều được luôn luôn khỏe mạnh và tu hành mau tỏ ngộ.
THANH SĨ
Lá thư số 57: Tokyo, ngày 30-12-1964
Lá thư số 57: Tokyo, ngày 30-12-1964
Tokyo, ngày 30-12-1964,
Thưa Má,
Hai hôm nữa là tới Tết của Nhựt Bổn (người Nhựt ăn Tết theo dương lịch). Ngày Tết giữa mùa đông. Trời lạnh đặc nước như nước đá. Ngày Tết phần đông dân chúng ở Đông Kinh họ đi về quê. Vào khoảng 28, 29, 30 tháng Chạp tất cả các nhà ga lớn ở Đông Kinh có hàng vạn người sắp hàng chờ suốt ngày đêm để nối nhau lên xe lửa về quê ăn Tết. Vì thế mà ngày Tết ở Đông Kinh không ồ ạt đông đảo như ngày thường.
Tết Nhựt, họ cũng làm bánh tổ, dựng tre nêu, hoặc treo bùa nêu trước cửa nhà, chùa đình... Nhưng không đốt pháo, không múa lân rùm beng như bên ta. Khác hơn những ngày thường là những ngày Tết nhà nào cũng uống rượu sakê (nhẹ và ngọt như nước cơm rượu bên ta) và đa số phụ nữ, nhứt là các trẻ em Nhựt Bổn, họ mặc áo kimono màu mè sặc sỡ và bới tóc giắt trâm tòng tụi, chẳng khác mấy Tiên cô của người Tàu vẽ ở các bức tranh.
Ngày Tết Nhựt, việc lạ mắt với người ngoại quốc có thể nói: Chỉ có cái áo kimono được xuất hiện nhiều nhứt ở các đường phố. Ngoài ra, thì không có cái lạ đáng kể. Ngày Tết các cơ sở đều nghỉ hết cho tới ngày mùng 3. Con cũng định đi nghỉ ở vùng thôn quê độ ít hôm để đổi không khí, vì nếu ở nhà sẽ có nhiều khách đến chúc Tết thì mệt lắm.
Thưa Má, năm tháng trôi qua rất mau, mà ngày về của con rất chậm, con tự thấy càng đè nặng thêm hơn bao nhiêu việc đạo, việc nước nhứt là việc hiếu đối với Má. Con đã làm cho Má đau buồn nhiều hơn là an vui, con rất có lỗi đối với Má, xin Má tha lỗi cho. Gặp phải những cảnh trái ngược, xin Má nhớ niệm Phật để khỏa lấp nỗi ưu phiền. Má nên noi gương lành của Đức Thầy, vì lòng thương xót người mê muội mà vui làm tất cả công việc từ bi: làm cho người được giác ngộ, được ấm no, được hòa bình hạnh phúc. Ấy là công việc thường ngày của kẻ tu hành. Kẻ tu hành phải làm tất cả công việc hữu ích tốt đẹp về đời sống cũng như về tâm linh cho thiên hạ. Công việc làm ấy được dễ dàng hay khó khăn gì cũng cứ giữ một mực tiến tới.
Thoảng như người nào vô tình hay cố ý hiểu lầm, bịa chuyện châm biếm hoặc làm khó khăn cũng nên tha thứ và tìm cách làm cho họ hiểu rõ sự thật của chánh đạo để hối quá, không nên phiền trách ai cả. Gian ác được vinh, hiền lành bị hiếp là chuyện thường có xưa nay. Nhưng gian ác rốt cuộc bị trừ đi, hiền lành chung qui được trọng dụng ấy là kết quả đương nhiên của luật đào thải trong xã hội loài người. Con xin Má nên khuyên anh chị em đồng đạo xa gần chớ nên lưu tâm buồn trách trong khi gặp những cảnh ngổn ngang trái ngược như đã kể trên. Anh chị em nên nhẫn nại mọi trường hợp gian nguy, thận trọng các công việc làm tội phước, và rán nỗ lực hoàn thành một nhà chơn đạo hạnh.
Đó là công việc duy trì phục hưng mối đạo, đền đáp công ơn khai hóa của Đức Thầy và thật hành đúng tinh thần phụng sự Phật pháp nhơn sanh đấy.
Vắn tắt có bao nhiêu lời, con xin ơn trên hộ độ cho Má luôn luôn mạnh khỏe và tu hành sáng suốt. Và xin Má trao lời con kính thăm tất cả anh chị em lớn nhỏ xa gần.
Con của Má
Lá thư số 58: Tokyo, ngày 24-1-1965
Lá thư số 58: Tokyo, ngày 24-1-1965
Tokyo, ngày 24-1-1965,
Gởi Thiện Ưng
Thiện Ưng thân mến,
Thiện Ưng thân mến,
Tôi rất cám ơn Ưng viết thơ thăm tôi. Ở bên nầy, tôi vẫn được mạnh khỏe và vẫn lo phận sự hằng ngày. Xin Ưng và anh chị em ở quê nhà chớ nên lo ngại, chỉ nên thận trọng cơ thể và rán hoàn thành bổn phận công dân đối với nước, và tín đồ đối với đạo trong thời loạn. Nước lo cho được dân chủ, chủ quyền, đạo lo cho được tự do bình đẳng, ví dù gặp lắm gian khổ và hy sinh rất nhiều.
Chọn đường đại chúng để mà đi,
Ý của dân không vật sánh bì,
Đúng nguyện nhân dân thì vững mạnh,
Trái lòng quần chúng tất khuynh nguy.
Nước quyền chủ trị toàn phương diện,
Đạo tự do tu chẳng hạn kỳ,
Muốn được thành công trên chánh nghĩa,
Nhắm vào nơi đó để mà đi.
Trời hết tối tới sáng, nước hết loạn tới bình, tôi khuyên Ưng chớ quá băn khoăn tình thế hỗn độn của quốc gia. Ưng nên giữ vững đức tin trên đường đạo đức chơn chánh và quốc gia chánh nghĩa. Cứ nhắm theo lòng dân mà đi thì đúng. Lòng dân tức là lòng trời đấy. Trời không bỏ người chơn chánh lương thiện đâu, nhứt định chánh nghĩa sẽ thắng. Tôi xin khuyên Ưng và anh chị em ở quê nhà nên tin chắc như vậy.
Vắn tắt có mấy hàng như trên, tôi thành thật chúc cho Ưng và anh chị em ở quê nhà đều được luôn luôn lành mạnh và có nhiều may mắn.
THANH SĨ
Lá thư số 59: Tokyo, ngày 28-2-1965
Lá thư số 59: Tokyo, ngày 28-2-1965
Tokyo, ngày 28-2-1965
Trung Tín thân mến,
Tôi rất cám ơn Tín có lòng viết thơ sang thăm tôi. Được biết Tín và anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được mạnh lành và lo tu hành như thường, tôi rất an tâm. Ở bên nầy tôi vẫn được sức khỏe, không có chi thay đổi, xin Tín và anh chị em đồng đạo ở nhà chớ nên lo ngại. Theo sự nhận định cách tu của Tín đã viết trong thơ rất chí lý. Tín cứ luyện tập như vậy một cách tha thiết và dẻo dai tất một ngày kia tâm tánh trở nên bình tịnh và trí huệ sẽ được hoát khai. Trong khi đó, thân tâm được tự tại, đạo hạnh được viên dung, không còn bị vọng tưởng vãng lai và các phiền não phá rối nữa.
Tôi rất cám ơn Tín có lòng viết thơ sang thăm tôi. Được biết Tín và anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được mạnh lành và lo tu hành như thường, tôi rất an tâm. Ở bên nầy tôi vẫn được sức khỏe, không có chi thay đổi, xin Tín và anh chị em đồng đạo ở nhà chớ nên lo ngại. Theo sự nhận định cách tu của Tín đã viết trong thơ rất chí lý. Tín cứ luyện tập như vậy một cách tha thiết và dẻo dai tất một ngày kia tâm tánh trở nên bình tịnh và trí huệ sẽ được hoát khai. Trong khi đó, thân tâm được tự tại, đạo hạnh được viên dung, không còn bị vọng tưởng vãng lai và các phiền não phá rối nữa.
Mang thân tứ đại thì lòng ham muốn ai cũng như ai, nhưng trong ái dục mà ly ái dục, ở thế gian mà xuất thế gian là nhờ biết lấy đạo tâm làm chủ, đạo tâm kiên cố tất thắng phục được thế tình. Đúng như vậy. Tôi xin khuyên Tín và anh chị em ở quê nhà nên lấy đạo tâm và đức tin làm căn bản trên đường tu hành, chắc chắn sẽ phá được lòng mê muội của mình và vượt khỏi mọi sự thử thách cám dỗ của thế gian.
Còn đối với anh chị em đồng đạo nên lấy tình đồng đạo cư xử lẫn nhau, nghĩa là giữa anh chị em cần phải luôn luôn thương yêu nhau tha thứ và giúp đỡ. Nên làm tốt cho nhau chớ nên làm xấu. Thấy việc chánh đáng nên khuyên bảo cho nhau làm, việc tà vạy nên khuyên bảo cho nhau tránh. Nên xem nhau như ruột thịt, vui thì cùng chia, khổ thì cùng chịu, lúc nào cũng lo đoàn kết lẫn nhau. Thành thật khuyên nhau bỏ lòng ích kỷ, bỏ tánh kiêu căng và bỏ thói ghét ganh cố chấp.
Đặc biệt nên khuyên nhau cần phải biết phục thiện và cần phải nhìn nhận sự lầm lỗi thiếu sót của mình. Có được những đức tánh như thế mới đúng là tình đồng đạo và mới có thể giúp nhau từ chỗ xấu xa tiến đến chỗ tốt lành để hoàn thành một con người chơn đạo hạnh và một tôn giáo thật thiêng liêng.
Những điều trên đây, tôi không ngớt ước ao và mong mỏi anh chị em trong đạo chúng ta sớm biết đồng tâm hiệp lực với nhau để thực hiện cho kỳ được. Như vậy mới không hổ phận là người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo và chẳng uổng công dạy bảo của Đức Thầy.
Vắn tắt có mấy dòng, tôi xin chúc cho Tín và anh chị em đồng đạo xa gần ở quê nhà được mạnh lành may mắn.
THANH SĨ
Lá thư số 60: Tokyo, ngày 3-3-1965
Lá thư số 60: Tokyo, ngày 3-3-1965
Tokyo, ngày 3-3-1965
Thưa Má,
Ở nhà Má vẫn được sức khỏe và anh chị em đồng đạo xa gần vẫn được bình an như thường chớ? Bên Nhựt hiện thời còn đang lạnh lắm, tuyết vừa mới rơi hồi sáng nầy nữa, nhưng con vẫn được mạnh, có thể nói là mạnh hơn những mùa đông mọi năm. Xin Má và anh chị em ở quê nhà nên an lòng.
Ở nhà Má vẫn được sức khỏe và anh chị em đồng đạo xa gần vẫn được bình an như thường chớ? Bên Nhựt hiện thời còn đang lạnh lắm, tuyết vừa mới rơi hồi sáng nầy nữa, nhưng con vẫn được mạnh, có thể nói là mạnh hơn những mùa đông mọi năm. Xin Má và anh chị em ở quê nhà nên an lòng.
Còn việc đạo lý, Má nên tiếp tục lo khuyên anh chị em đồng đạo rán cố gắng lo tu tâm luyện tánh cho hiền lành sáng tỏ như bổn nguyện và cho xứng đáng là tín đồ thuần thành chơn chánh của đạo Phật Giáo Hòa Hảo. Người đời có thương tưởng cũng tốt dù có ghét chê cũng mặc tình, sự tu hành anh chị em đồng đạo vẫn cứ lo và việc phước thiện vẫn cứ làm. Nhứt là đối với người trong đạo, thoảng như có ai thay đổi trắng đen hoặc xa ngã theo vật chất thì anh chị em cũng nên nỗ lực làm cho mình được tốt lành gấp đôi và nên tìm cách kêu gọi cho nhau tỉnh lại, không nên ngó lơ hoặc sanh ra thối chí, hoặc để mình cũng bị sa ngã theo luôn.
Có nhiều trường hợp vô tình trong những lời khuyên can chơn chánh, những hành động đạo đức trong sạch của mình thường hay đụng chạm đến lòng tự ái của anh chị em đã làm sai phạm hoặc bị sa ngã, tất nhiên không khỏi bị họ thóa mạ đả kích v.v… Nhưng mình nên lấy tâm lượng đạo đức để hiểu rằng: Con người của họ đang bị các ma lực của đời thu hút ám ảnh làm cho giảm hạ lòng tín ngưỡng, mờ mịt tánh thiện lương và lũ tam bành lục tặc trong tâm địa phát khởi trở lại. Cho nên họ dễ bị lửa sân si thiêu đốt, dễ bị gió phiền não cuốn lôi và dễ đưa thân vào đường tội lỗi, khiến cho đời sống đầy thù ghét và ngày mai rất tối đen như thế rất thương hại, cho nên mình chỉ tìm cách trực tiếp hoặc gián tiếp thức tỉnh họ và tha thứ cho họ, không nên lưu tâm phiền hờn cố chấp.
Làm như vậy mới khiến cho những người đã phạm lỗi không lầm lỗi thêm nữa. Trái lại, còn có hy vọng hồi đầu hướng thiện để trở nên người tốt lành đạo đức. Đó cũng là một phương pháp cứu giúp nhơn sanh và cũng là một đức độ từ bi hỷ xả của nhà Phật. Người tu đạo Phật cần có đức độ ấy và cần phải dùng những phương pháp như thế. Nhà tu hành là gương mẫu của con người siêu thoát và lợi ích của tất cả nhơn loại. Thế cho nên, nhà tu hành dù có hy sinh cả tánh mạng cho người đời đi nữa là sự thường không lấy gì làm lạ. Nếu nhà tu hành còn vị kỷ hoặc không có đức độ từ bi hỷ xả như đã nói trên, tức là đi sai nguyên tắc nhà Phật. Có thể kết luận rằng nhà tu hành lúc nào cũng vị tha.
Thế cho nên, kẻ tu hành chơn chánh không bao giờ tu riêng mình mà là luôn luôn lo tu cho tất cả nhơn sanh. Rất mong anh chị em đồng đạo lớn nhỏ ở quê nhà đều tu được như thế ấy. Con xin Má khuyên anh chị em. Tóm tắt có bao nhiêu lời như trên. Con xin Má cho anh chị em được biết và khuyên anh chị em nên bình tĩnh, nhẫn nại, cương quyết, và dẻo dai tu hành chơn chánh. Đồng thời anh chị em rán xây dựng cho nhau cùng một tư tưởng đạo đức, một tâm hồn cao siêu và một đường lối chánh nghĩa.
Trước khi dứt lời, con xin cầu nguyện ơn trên Trời Phật phù hộ cho Má được luôn luôn mạnh khỏe và sáng suốt. Và Má nhớ chuyển lời con kính thăm tất cả anh chị em đồng đạo xa gần.
THANH SĨ
P.B.: Đến bữa nay mà bánh cũng chưa tới. Đang thiếu nhiều chỗ rồi. Ngày nào cũng trông tin mà vẫn chưa thấy thơ Sài Gòn.
Lá thư số 61: Tokyo, ngày 12-3-1965
Lá thư số 61: Tokyo, ngày 12-3-1965
Tokyo, ngày 12-3-1965
Nho thân mến,
Nho và quý quyến có được bình an mạnh giỏi không? Tôi rất cám ơn Nho thường viết thơ gởi sang thăm tôi. Riêng tôi ở bên nầy vẫn được mạnh khỏe và lo công việc như thường. Xin Nho và anh chị em ở quê nhà nên an lòng. Nước nhà đang hỗn loạn, đời Đạo đang quay cuồng rất khó giữ được chánh nghĩa và hạnh lành, tôi khuyên Nho và anh chị em ở quê nhà rán trau giồi cho tròn bổn phận. Nước thì phải chánh nghĩa, đạo thì phải hạnh lành, chánh nghĩa mới cứu được nước, hạnh lành mới thành được đạo. Đạo không hạnh lành là hoại đạo, nước không chánh nghĩa là hư nước.
Chánh nghĩa là bảo vệ quốc dân, và tôn trọng quyền lợi quốc dân trên hết. Hạnh lành là không nhiễu hại ai và muốn cho ai cũng được an vui về thể xác cũng như linh hồn. Bổn phận người dân đối với nước cần phải có chánh nghĩa, bổn phận người tu đối với đạo cần phải có hạnh lành.
Tôi thiết tưởng như thế, có thể nói rằng: “Người nào thật yêu nước hay không? Thật tu hành hay không? Cứ lấy chánh nghĩa và hạnh lành như đã nói trên nghiệm nghĩ để xét ra tất nhiên sẽ rõ biết được”. Tôi khuyên Nho và anh chị em ở nhà rán kiên trinh và nỗ lực các điều ấy. Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Nho, quý quyến và tất cả anh chị em ở quê nhà được vạn sự an lành và tu hành được sáng suốt.
THANH SĨ
Lá Thư số 62: Tokyo, ngày 2-4-1965
Lá Thư số 62: Tokyo, ngày 2-4-1965
Tokyo, ngày 2-4-1965
Hoài ân thân mến,
Tôi đã dọn nhà xong chút một tuần nay. Mệt đừ người. Nhưng mọi việc đều được an toàn cả. Chỗ nầy yên tịnh lắm và đường giao thông cũng tiện nhiều hơn chỗ cũ. Kỳ nầy nào là phải trang trải nợ nần và đóng góp tiền nhà cửa nầy nọ, nên chỉ còn có một ít tiền tiêu mà thôi. Vẫn biết dời chỗ là tốn kém lắm nhưng vì bất đắc dĩ nên phải chịu vậy. Ân đã được thơ tôi cho hay địa chỉ hay không? Và đã có cho anh chị em khác cùng được biết gấp hay chưa? Tôi cũng đã có cho Định Hòa hay rồi. Nhưng chưa thấy Bà Mười hồi âm.
Tôi đã dọn nhà xong chút một tuần nay. Mệt đừ người. Nhưng mọi việc đều được an toàn cả. Chỗ nầy yên tịnh lắm và đường giao thông cũng tiện nhiều hơn chỗ cũ. Kỳ nầy nào là phải trang trải nợ nần và đóng góp tiền nhà cửa nầy nọ, nên chỉ còn có một ít tiền tiêu mà thôi. Vẫn biết dời chỗ là tốn kém lắm nhưng vì bất đắc dĩ nên phải chịu vậy. Ân đã được thơ tôi cho hay địa chỉ hay không? Và đã có cho anh chị em khác cùng được biết gấp hay chưa? Tôi cũng đã có cho Định Hòa hay rồi. Nhưng chưa thấy Bà Mười hồi âm.
Ân và anh chị em ở nhà có sự gì thay đổi đáng kể hay không? mà độ nầy thấy vắng thơ. Có lẽ là vì quá bận với cảnh bão táp của đất nước, nên không rảnh tay viết thơ cho tôi chăng? Tin tức các nơi về tình hình Việt Nam, tôi được nghe mỗi ngày khiến nhức óc. Hơn nữa càng nghe thấy nhiều sự biến ở quê hương, tôi càng bắt lo nghĩ đến anh chị em đồng đạo, thành thử trong lòng luôn luôn cảm thấy buồn. Và tự than thầm: Vận nước sao mà đen thế!
Tôi phải sắp đi gặp hai nhà báo ngoại quốc vì đã có hẹn. Vậy tôi xin dừng bút và xin chúc cho Ân, anh chị em đều được vạn an.
Thanh Sĩ
P.B.: Vừa rồi tôi có biên thơ về cho Bà Mười lo bánh cho tôi dùng.
THANH SĨ
Lá thư số 63: Tokyo, ngày 29-4-1965
Lá thư số 63: Tokyo, ngày 29-4-1965
Tokyo, ngày 29-4-1965
Gởi Trường, Yến
Trường, Yến thân mến,
Rất cám ơn Trường, Yến có lòng lo đến xác phàm của tôi. Sự thật cơ thể tôi vốn đã gầy yếu từ khi tôi còn ở trong nước, không phải mới đây. Tuy nhiên tôi vẫn được khỏe mạnh như thường không có sự gì đáng lo cả. Xin Trường, Yến và anh chị em ở quê nhà nên an tâm chớ lo ngại, sẽ có ảnh hưởng không tốt cho thể chất và rất có hại cho tinh thần trong phạm vi tu tập hiện thời.
Trường, Yến thân mến,
Rất cám ơn Trường, Yến có lòng lo đến xác phàm của tôi. Sự thật cơ thể tôi vốn đã gầy yếu từ khi tôi còn ở trong nước, không phải mới đây. Tuy nhiên tôi vẫn được khỏe mạnh như thường không có sự gì đáng lo cả. Xin Trường, Yến và anh chị em ở quê nhà nên an tâm chớ lo ngại, sẽ có ảnh hưởng không tốt cho thể chất và rất có hại cho tinh thần trong phạm vi tu tập hiện thời.
Trường, Yến nên tùy hoàn cảnh và năng lực của chính mình để điều hòa một cách lành mạnh thanh thoát giữa sự tu với lẽ sống. Nhứt là nên căn cứ theo các lẽ tất yếu của Phật pháp để tu tâm luyện tánh, gạn gục lóng trong và dưỡng huệ tác phước, hầu giúp cho kiếp trược sớm nhẹ nhàng, tâm linh sớm mở tỏ để có đủ điều kiện và công đức cứu mình và độ người cùng được thoát ly mọi nỗi hôn mê đau khổ trên trần đời.
Vấn đề sanh hoạt tuy bận rộn, nhưng đừng để cho nó lung lạc hoặc ức chế sự tu. Rán duy trì và phát triển sự tu một cách kiêm thiện ở mọi trường hợp mà mình có thể phương tiện thi thiết được. Xin Trường, Yến nhớ cố gắng.
Vắn tắt có mấy hàng, tôi xin chúc cho Trường, Yến và tất cả anh chị em ở quê nhà đều được mạnh lành và tu hành sáng suốt.
THANH SĨ
Lá thư số 64: Tokyo, ngày 17-3-1965
Lá thư số 64: Tokyo, ngày 17-3-1965
Tokyo, ngày 17-3-1965
Trường thân mến,
Độ nầy Trường, quý quyến và thân hữu có được bình an mạnh giỏi không? Riêng tôi ở bên nầy hiện thời vẫn được mạnh và vẫn lo phận sự như thường lệ, không có sự gì thay đổi. Xin Trường và anh chị em ở quê nhà nên yên tâm. Trường, vấn đề đạo đức tu hành có được tăng tiến nhiều không? có khó khăn lắm không? Rán cố gắng nhé!!
Độ nầy Trường, quý quyến và thân hữu có được bình an mạnh giỏi không? Riêng tôi ở bên nầy hiện thời vẫn được mạnh và vẫn lo phận sự như thường lệ, không có sự gì thay đổi. Xin Trường và anh chị em ở quê nhà nên yên tâm. Trường, vấn đề đạo đức tu hành có được tăng tiến nhiều không? có khó khăn lắm không? Rán cố gắng nhé!!
Hồi tâm lại được bởi duyên qua,
Cương quyết tu cho thấy Phật Đà,
Đạo vốn an vui nên tiến bước,
Đời là thảm khổ chớ mê sa.
Giảng kinh năng đọc thông lành dữ,
Tịnh niệm cần trau rõ chánh tà,
Nhứt nguyện kiếp nầy tu giải thoát,
Con đường sanh tử hết lân la.
Vắn tắt mấy lời tôi xin chúc cho Trường, quý quyến, thân hữu và tất cả anh chị em ở quê nhà đều được luôn luôn khỏe mạnh và mở tỏ đạo tâm.
THANH SĨ
Lá Thư số 65: Tokyo, ngày 29-3-1965
Lá Thư số 65: Tokyo, ngày 29-3-1965
Tokyo, ngày 29-3-1965
Thưa Má,
Xin báo tin cho Má hay con đã dọn nhà xong độ bốn năm hôm rồi, mọi việc không có gì lôi thôi cả. Chỗ nầy rất yên tịnh và tiện việc giao thông lắm.
Xin báo tin cho Má hay con đã dọn nhà xong độ bốn năm hôm rồi, mọi việc không có gì lôi thôi cả. Chỗ nầy rất yên tịnh và tiện việc giao thông lắm.
Sau khi thanh toán mấy món nợ và trả chút tiền dọn nhà, hiện thời trong túi chỉ còn đọng lại một chút ít mà thôi. Xin Má lo gởi qua cho con một số bánh nữa để dùng việc nầy Má nên nhờ anh chị em tiếp tay.
Vắn tắt có mấy lời. Con xin chúc cho Má khỏe mạnh và sống lâu, con nhờ Má trao lời con thăm tất cả anh chị em đồng đạo xa gần.
Con của Má
Lá thư số 66: Tokyo, ngày 8-5-1965
Lá thư số 66: Tokyo, ngày 8-5-1965
Tokyo, ngày 8-5-1965
Hoài Ân thân mến,
Độ nầy Ân và anh chị em ở quê nhà có được mạnh giỏi như thường không? Riêng tôi ở bên nầy hiện thời khí hậu đã trở nên ấm nhiều, nên trong người tôi thấy khỏe mạnh hơn lúc mùa đông. Và từ đây trở đi cho đến mùa hạ, chắc tôi còn được mạnh khá hơn nữa. Ân và anh chị em ở quê nhà, nên giữ mực độ bình thường trong mọi việc làm hằng ngày để bảo vệ sức khỏe cho được đầy đủ. Đồng thời rán lo tu hành chín chắn và đoàn kết chặt chẽ giữa anh em trong đạo để cũng cố và phát triển vấn đề đạo đức.
Cần phải luôn luôn vạch rõ và bước tới một cách mạnh mẽ dẻo dai trên đường đạo đức. Nếu có anh chị em nào thối chuyển thì rán tìm cách kềm lại và làm cho cùng được tinh tiến. Còn người nào được tinh tiến thì khuyến khích cho được tinh tiến thêm. Trong lúc sự tu hành đạo đức trong đoàn thể ít người chú tâm lo lắng, thì những anh chị em có thiện chí cần phải gia công bồi bổ xây dựng không nên thờ ơ. Nhứt là không nên bắt chước hạng người lợi dụng đạo giáo mưu đồ lợi danh rất phi nghĩa và trái thuyết tu hành của nhà Phật.
Nên nhớ rằng: “Tu thì phải cởi mở sự đời cho thân tâm được nhẹ nhàng, chớ tu trói buộc cho nặng nề rắc rối thêm. Tu cho lên thiên đàng chớ tu xuống địa ngục. Tu cầu giải thoát chớ tu cầu phú quí công danh. Đức Thầy mở đạo để cứu khổ người đời, không phải để gây khổ và để cho người tu phước chớ không phải để cho người tu tội. Tu cho trở nên hiền lành chớ tu trở nên hung dữ”. Điều ấy xin anh chị em nhớ kỹ. Chớ làm trái ngược ý nghĩa của sự tu trong cửa đạo.
Đạo mà còn tệ hơn đời,
Thà đừng có đạo cho đời ít khinh.
Anh em hãy rán giữ mình,
Đạo cần phải được hiền minh hơn đời.
Vắn tắt có mấy lời, xin Ân và anh chị em ở quê nhà rán cố gắng cho được chí thiện chí mỹ trên đường đạo, tôi không ngớt hy vọng. Tôi xin chúc cho Ân và anh chị em ở quê nhà được vạn an.
THANH SĨ
Lá thư số 67: Tokyo, ngày 24-5-1965
Lá thư số 67: Tokyo, ngày 24-5-1965
Tokyo, ngày 24-5-1965
Thưa Má,
Con vừa đi miền quê mới về. Ở đây là vùng núi có suối nóng và khí hậu rất tốt. Đây là một trong những thắng cảnh nước Nhựt. Quanh đây toàn là núi non. Trên núi đầy những cây Hồng điệp, mỗi khi đến mùa thu, do Hồng Điệp làm đỏ cả núi càng tăng vẻ đẹp (Hồng Điệp chỉ có mùa thu thì lá biến đỏ, còn những mùa khác thì lá xanh như những cây thường).
Con vừa đi miền quê mới về. Ở đây là vùng núi có suối nóng và khí hậu rất tốt. Đây là một trong những thắng cảnh nước Nhựt. Quanh đây toàn là núi non. Trên núi đầy những cây Hồng điệp, mỗi khi đến mùa thu, do Hồng Điệp làm đỏ cả núi càng tăng vẻ đẹp (Hồng Điệp chỉ có mùa thu thì lá biến đỏ, còn những mùa khác thì lá xanh như những cây thường).
Có lẽ nhờ khí hậu trên núi rất tốt, cho nên từ hôm nọ tới nay trong người con rất khỏe mạnh. Được thơ anh chị em cho hay Má và anh chị em ở nhà cũng vẫn được mạnh lành phải không? Má và anh chị em rán giữ gìn sức khỏe nhé!
Lễ giỗ kỳ nầy anh chị em xa gần có đến đông không? Anh chị em có đem việc đạo lý ra bàn luận hăng hái không? Tình đồng đạo và lòng tin tưởng Phật pháp của anh chị em còn tôn trọng gìn giữ đến mức độ nào? Anh chị em rán giữ còn tình đồng đạo và thêm lòng tin tưởng Phật pháp chớ quên nhé! đồng thời rán tự giác, rán tu hành chơn chánh và rán lo làm những điều phúc lợi cho mọi người.
Trồng chi hưởng ấy, nên tin chắc như vậy.
Vắn tắt có mấy lời. Con xin cầu chúc cho Má và anh chị em ở nhà đều được khỏe mạnh và sáng suốt.
Con của Má
Lá thư số 68: Tokyo, ngày 2-6-1965
Lá thư số 68: Tokyo, ngày 2-6-1965
Tokyo, ngày 2-6-1965,
Lệ thân mến,
Xin báo cho Lệ hay gói ấy tôi đã nhận được hồi sáng hôm qua (1-6-1965). Tôi thành thật cám ơn Lệ và anh chị em ở quê nhà. Lệ và anh chị em ở quê nhà vẫn được bình yên khỏe mạnh và vẫn đeo đuổi công việc nội ngoại như thường lệ, mặc dù có nhiều điều bất mãn và việc làm không được đem lại như ý muốn phải không? Vắng lâu, tôi không gởi thơ và báo về cho Lệ là vì gần đây tôi hay bận việc hơn mọi khi. Ngoài ra cũng có một vài lý do khác... Ở tình thế hỗn độn. Điều nầy chắc Lệ và anh chị em ở quê nhà đã độ biết được.
Xin báo cho Lệ hay gói ấy tôi đã nhận được hồi sáng hôm qua (1-6-1965). Tôi thành thật cám ơn Lệ và anh chị em ở quê nhà. Lệ và anh chị em ở quê nhà vẫn được bình yên khỏe mạnh và vẫn đeo đuổi công việc nội ngoại như thường lệ, mặc dù có nhiều điều bất mãn và việc làm không được đem lại như ý muốn phải không? Vắng lâu, tôi không gởi thơ và báo về cho Lệ là vì gần đây tôi hay bận việc hơn mọi khi. Ngoài ra cũng có một vài lý do khác... Ở tình thế hỗn độn. Điều nầy chắc Lệ và anh chị em ở quê nhà đã độ biết được.
Chiến tranh Việt Nam đã trở thành vấn đề sôi nổi trên thế giới. Đặc biệt là ở Nhựt đang kích động mãnh liệt. Trên các báo chí, radio, television và các rạp hát công chúng, nhứt là trên các đường phố ở Đông Kinh (có thể nói là khắp nước Nhựt) đâu cũng thấy đăng hình ảnh chiến tranh Việt Nam. Không thể tả hết nỗi lòng đau đớn tủi nhục!
Thôi! trên lá thơ nầy, tôi không muốn nói điều gì khác nữa, tôi xin dừng bút và chúc cho Lệ và anh chị em ở quê nhà được trên thuận dưới hòa và được lành mạnh sáng suốt.
THANH SĨ
Lá thư số 69: Tokyo... năm 1965
Lá thư số 69: Tokyo... năm 1965
Tokyo... năm 1965,
Đông Kinh Hồi Khuyến
Đông Kinh Hồi Khuyến
Dù kẻ đứng trong địa hạt gì,
Ơn nhà nợ nước phải nên ghi,
Lo dân thoát khỏi vòng nô lệ,
Cứu nước ra ngoài cảnh khốn nguy.
Đòi hỏi tự do toàn lãnh thổ,
Thiết tha quyền chủ cả ba kỳ
Đồng bào đều phải yêu nhau cả,
Bất luận người trong đảng phái chi.
Đông Kinh Hồi Khuyến
Dù kẻ đứng trong địa hạt gì,
Ơn nhà nợ nước phải nên ghi,
Lo dân thoát khỏi vòng nô lệ,
Cứu nước ra ngoài cảnh khốn nguy.
Đòi hỏi tự do toàn lãnh thổ,
Thiết tha quyền chủ cả ba kỳ
Đồng bào đều phải yêu nhau cả,
Bất luận người trong đảng phái chi.
THANH SĨ
Lá thư số 70: Tokyo, ngày 19-5-1965
Lá thư số 70: Tokyo, ngày 19-5-1965
Tokyo, ngày 19-5-1965
Gởi Hoàng Văn Liên
Hoàng Văn Liên thân mến,
Hoàng Văn Liên thân mến,
Hiện thời tôi vẫn như trước, chẳng thay đổi việc nào cả. Xin liên và anh chị em đồng đạo ở quê nhà nên an lòng, chớ nghĩ ngợi hoang mang khiến cho đạo tâm mờ ám. Cần phải bình tĩnh quan sát và suy nghiệm chu đáo ở mọi việc nói làm nghe thấy và tưởng tượng để tránh những sự sai lầm có hại cho mình hoặc cho người khác. Liên và anh chị em ở quê nhà nên nuôi lòng tin tưởng trên đạo pháp cho thật mạnh, để vượt mọi chướng ngại và thắng cả mọi sự thử thách của tình đời. Xin Liên và anh chị em đồng đạo rán cố gắng tu tập cho đến khi được toàn giác toàn minh.
Từ ngày tách bước đến Phương Đông,
Công việc từ bi vẫn tiếp tòng,
Độ chúng sanh mê tâm đã quyết,
Cứu người đời khổ chí thường mong.
Duyên phàm cởi mở cho thiên hạ,
Tình Phật gieo ra khắp đại đồng,
Chẳng có yêu riêng yêu tất cả,
Dù cho muôn kiếp nguyện lo xong.
Vắn tắt có mấy dòng, tôi xin chúc cho Liên và tất cả anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được an lành và tu hành sáng tỏ.
THANH SĨ
Lá thư số 71: Tokyo, ngày 27-6-1965
Lá thư số 71: Tokyo, ngày 27-6-1965
Tokyo, ngày 27-6-1965
Thưa Má,
Con đi địa phương (chỗ dân cư Ngài Nhựt Liên Bồ Tát) vừa mới về tới. Được thơ thấy nói Má bị nóng lạnh khiến con rất lo. Vậy hôm nay Má được hoàn toàn bình phục sức khỏe hay chưa? Con khuyên Má nhớ lo thuốc men đầy đủ và ăn ngủ đồng đều cho cơ thể luôn luôn khỏe mạnh. Má đừng coi thường bịnh hoạn và cũng đừng làm việc gì quá sức. Má được khỏe mạnh tức là con khỏe mạnh, Con xin Má rán thận trọng sức khỏe.
Đồng thời sự tu hành đạo lý Má nên tiếp tục lo tiến tới và cứ phương tiện khuyên nhắc anh chị em đồng đạo xa gần rán cố gắng trau giồi luyện tập đúng như lời Thầy Tổ đã chỉ dạy ở trong giảng kinh. Con Xin cầu chúc Má và anh chị em ở nhà được vạn an.
Con của Má
Lá thư số 72: Tokyo, ngày 29-7-1965
Lá thư số 72: Tokyo, ngày 29-7-1965
Tokyo, ngày 29-7-1965
Quyện thân mến,
Thơ Quyện đề ngày 19-7-1965 tôi đã nhận được. Đọc thơ càng biết rõ tấm lòng tốt của Quyện. Tôi xin cám ơn lòng tốt của Quyện. Các việc của Quyện hỏi, tôi thiết nghĩ, Quyện nên do theo hoàn cảnh, thời thế và nhân tâm hiện tại để mà xử sự cho thích hợp với đạo nghĩa và pháp lý, đó là tốt hơn hết.
Thơ Quyện đề ngày 19-7-1965 tôi đã nhận được. Đọc thơ càng biết rõ tấm lòng tốt của Quyện. Tôi xin cám ơn lòng tốt của Quyện. Các việc của Quyện hỏi, tôi thiết nghĩ, Quyện nên do theo hoàn cảnh, thời thế và nhân tâm hiện tại để mà xử sự cho thích hợp với đạo nghĩa và pháp lý, đó là tốt hơn hết.
Nên bình tĩnh phán đoán tường tận mọi việc, nếu thấy nó chơn chánh lương thiện và hữu ích cho đời thì cứ phương tiện lo làm. Làm những công việc có phước lợi cho mọi người nhiều hơn cho mình. Nhưng đừng làm việc gì quá tài sức của mình, khiến hư hỏng thất bại có hại cho mình hoặc cho người khác. Người tu cần phải cứu giúp người đời, cứu giúp người đời là bổn phận không phải là danh dự. Cho nên việc làm của mình đối với thiên hạ có biết hay không cũng bất chấp. Trong lòng chỉ muốn làm sao đem cái an vui thay thế sự đau khổ cho đời là được rồi. Ngoài ra đối với riêng mình không ham muốn sự gì khác.
Nói tóm lại, người tu hành giúp đời vì lòng từ bi bác ái, không vì bản ngã cá nhân. Như thế là người tu chơn chánh. Tôi hy vọng Quyện và tất cả anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được duy trì và phát triển cách tu như thế ấy. Cửa đạo được quang minh, người tu được chứng quả đều do lai cách tu ấy. Tôi tin chắc như vậy.
Sau hết, tôi rất thiết tha mong mỏi nơi quê nhà Quyện và tất cả anh chị em lớn nhỏ trong đạo đều được thật tâm thương yêu tha thứ, đoàn kết lẫn nhau một cách chặt chẽ. Trước là làm cho mối đạo được hưng long, kế đó là để có đủ khả năng, điều kiện bảo vệ cho nhau ở mọi phương diện từ giai đoạn nầy cho đến giai đoạn khác. Xin đừng quên câu:
"Một cây làm chẳng nên non,
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao'.
Và câu:
“Nhiều tay vỗ nên kêu”.
Nếu là việc lớn lao thì càng cần phải có nhiều đoàn kết, chẳng những không hư hỏng mà còn được mau nên. Tôi xin Quyện và anh chị em đồng đạo gần xa nơi quê nhà đều nên chú thiết ở quan điểm ấy.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Quyện và tất cả anh chị em lớn nhỏ đều được vạn an.
THANH SĨ
Lá thư số 73: Tokyo, ngày 10-8-1965
Lá thư số 73: Tokyo, ngày 10-8-1965
Tokyo, ngày 10-8-1965,
Võ Ngọc Tông thân mến,
Tông quyết chí tu có thuở xong,
Thánh hay phàm cũng tại nơi lòng,
Vọng tâm muốn dứt Hành Vô Ngã,
Sân hận mong trừ Quán Thế Không.
Diệt gốc tất không sanh lá lú,
Chủ tâm thì hết nghĩ bong long,
Ý thiền các việc đều thiền cả,
Manh mối huyền cơ vốn tại lòng.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Tông và tất cả anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được bình an mạnh khỏe và trên đường tu được mở mang sáng suốt tốt đẹp đúng như những điều giáo hóa trong kệ kinh.
Dù cho muôn việc khổ lao,
Tu hành cũng rán giồi trau hằng ngày.
THANH SĨ
Lá thư số 74: Tokyo, ngày 31-8-1965
Lá thư số 74: Tokyo, ngày 31-8-1965
Tokyo, ngày 31-8-1965,
Hoài Ân thân mến,
Thơ đề ngày 24-8-65, tôi mới nhận được. Được biết Bà Mười và anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được bình an mạnh lành tôi rất mừng. Riêng tôi ở bên nầy cũng vẫn được khỏe mạnh, không có sự gì đáng lo ngại cả. Xin Ân và anh chị em ở nhà yên lòng.
Thơ đề ngày 24-8-65, tôi mới nhận được. Được biết Bà Mười và anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được bình an mạnh lành tôi rất mừng. Riêng tôi ở bên nầy cũng vẫn được khỏe mạnh, không có sự gì đáng lo ngại cả. Xin Ân và anh chị em ở nhà yên lòng.
Kế đó Ân và anh chị em rán lo giữ niềm hòa khí giữa nhau, thương yêu giúp đỡ cho nhau và cùng nhau chỉ bảo khuyến khích công việc rèn luyện nòng cốt tu hành đạo đức. Đồng thời cùng nhau rán lo mở rộng phạm vi tu chưởng phước huệ cho mọi người. Gặp việc ác thì ngăn, thấy việc thiện thì làm, đừng bỏ qua một việc công ích nào dù nó rất nhỏ. Đó là đức tánh từ bi tốt đẹp tự nhiên của kẻ tu hành. Và chính những việc làm ấy, là nấc thang của người muốn ra khỏi vòng thành trói buộc đau khổ trần gian.
Xin Ân và anh chị em đồng đạo ở quê nhà rán cố gắng trau tâm luyện tánh và rán thật hành đúng tôn chỉ cao siêu của đạo. Chớ nại gian khổ và thời gian bao lâu.
Nắng mưa xin chớ nại hà,
Đến mùa lúa chín cả nhà ấm no.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Ân và anh chị em đồng đạo lớn nhỏ ở quê nhà đều được phước huệ viên khai.
THANH SĨ
Lá thư số 75: Tokyo, ngày 3-9-1965
Lá thư số 75: Tokyo, ngày 3-9-1965
Tokyo, ngày 3-9-1965,
Hồ Nam thân mến,
(Tức ông Tư Số)
(Tức ông Tư Số)
Được thơ của Nam tôi rất mừng, tôi xin cám ơn Nam. Nam, bửu quyến và anh chị em ở quê nhà vẫn được yên ổn mạnh lành chớ? Bên nầy tôi vẫn được sức khỏe, không có một điều gì thay đổi đáng lo. Xin Nam và anh chị em ở quê nhà nên an lòng.
Nam, đạo đức là ánh sáng của con người. Thiếu nó tức khắc con người trở nên tối tăm không thấy gì là an vui trong đời sống vật chất và tinh thần. Cho nên, con người cần có đạo đức. Đạo đức ấy phải được xuất phát từ trong đáy lòng chơn thành của con người, con người nên đem đạo đức ra xây dựng nếp sống của xã hội dân sanh một cách cụ thể tích cực.
Nếu đạo đức nơi con người không có, thì không bao giờ tìm thấy Cực Lạc. Và chính cuộc sống hiện hữu trên bản thân và trong tâm hồn của con người cũng sẽ bị lảo đảo đắm chìm dần trong biển khổ, không lối thoát. Vậy Nam và anh chị em ở quê nhà rán đồng tình bước mạnh trong ánh sáng đạo đức. Mỗi ngày nên thao luyện ý chí, ngôn ngữ và hành động cho cùng được hòa nhịp trên đường đạo đức.
Đạo đức là một cứu cánh tinh nghiêm siêu thoát. Đứng trên đạo đức mà đề nghị, mà nói, mà làm. Như thế sẽ cởi mở được lưới nghiệp và thực hiện được bổn nguyện của nhà tu.
Nếu muốn thấy Phật Đà,
Chớ đạo đức ngoài da,
Phải trong tâm đạo đức,
Tất có Phật hiện ra.
Thấy Phật không do Phật,
Mà thấy Phật do ta,
Khi ta như tánh Phật,
Phật với ta cùng hòa.
Nếu hai người đồng ngó,
Sẽ thấy nhau không xa,
Nên mượn câu đạo đức,
Làm duyên với Thích Ca.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Nam và anh chị em ở quê nhà đều được vạn an.
THANH SĨ
Lá thư số 76: Tokyo, ngày 3-9-1965
Lá thư số 76: Tokyo, ngày 3-9-1965
Tokyo, ngày 3-9-1965,
Lưu Hữu Nghĩa thân mến,
Thành thật cám ơn Nghĩa viết thơ thăm tôi. Được biết anh chị em đồng đạo đều được bình an mạnh giỏi, tôi lấy làm mừng lắm. Ở bên nầy tôi vẫn được mạnh như thường không có sự gì thay đổi đáng lo cả. Xin Nghĩa và anh chị em ở quê nhà nên an tâm để lo việc đạo lý. Nghĩa thường nghe nhiều người thấy ma chớ ít nghe thấy Phật. Do sự ít thấy ấy mà xưa nay người ta vẫn còn khát khao tìm kiếm. Nếu thấy Phật và dễ như thấy ma, thì chắc là thiên hạ đã nhàm chán đi rồi không còn ai ngó ngàn đến nữa. Nghĩa có nhận thấy như vậy không?
Nơi đây tôi muốn nói với Nghĩa là chánh đạo khó tu cho nên ít người tu được. Nhưng mà của ít có mới là của quí. Ví dụ vàng ngọc vì ít có nên người ta quí trọng nó, nếu chỗ nào cũng đào ra được cả thì khác nào sạn sỏi không? Có giá trị gì đâu? Cho nên số người rán tu được và rán làm lương thiện được tuy ít nhưng mà rất là đáng kính. Tôi nghĩ như vậy và tôi xin khuyên Nghĩa và anh chị em ở quê nhà chớ nên buồn khi thấy số người chơn chánh tu hiền còn ít. Nghĩa và anh chị em ở quê nhà rán kiểm điểm thân tâm cho không còn các thói hư tật xấu, rán tùy thời, tùy cảnh để làm phước làm nhân và rán nuôi chí rộng lớn, tăng sức dũng mãnh trên đường Phật pháp cho đến kỳ cùng.
Kế đó, đừng bao giờ quên tìm cách gây lấy tình thương chơn thành giữa anh chị em trong đoàn thể. Đạo Phật là đạo từ bi trí huệ. Người trong đạo Phật nên lấy đó làm tiêu chuẩn căn cơ.
Mùi vị thiền gia đã thấm vào,
Tình thương ai cũng vẫn bằng nhau,
Cứu dân vạn khổ không ngao ngán,
Độ thế thiên sầu chẳng núng nao.
Theo dấu từ bi người bước trước,
Vạch đường trí huệ kẻ đi sau,
Đem thân thay gánh muôn thân khác,
Miễn lấp sông mê sớm phút nào.
Trên đây có bao nhiêu lời. Tôi hy vọng Nghĩa và anh chị em ở quê nhà rán cố gắng tu hành cho được toàn thiện. Tôi xin chúc cho Nghĩa và anh chị em lớn nhỏ đều được vạn sự vui tươi.
THANH SĨ
Lá thư số 77: Tokyo, ngày 20-10-1965
Lá thư số 77: Tokyo, ngày 20-10-1965
Tokyo, ngày 20-10-1965,
Phật đông đếm vô cùng
Phật đông số đếm vô cùng,
Vị nào cũng rất đại hùng đại bi.
Dám bỏ những điều gì khó bỏ,
Quyết làm nên việc khó thể làm,
Lòng thương rộng đến bao hàm,
Tai trần cứu khỏi, nghiệp phàm độ qua.
Dưới mắt thấy người ta bình đẳng,
Trong lòng suy tánh mạng như nhau,
Hại người tâm chẳng nỡ nào,
Giúp người là việc không bao giờ từ.
Ngàn xưa cũng vẫn như nay vậy,
Phật mười phương thế giới một tình,
Vì người vui bỏ đời mình,
Không vì mình để bất bình với ai.
Kẻ học Phật điều nầy nên nhớ,
Người tu hành việc đó khá tri,
Quy y thì phải làm y,
Chớ làm trái ngược những gì Phật khuyên.
Y Phật dạy bình yên thế giới,
Y Phật khuyên tội lỗi tiêu tan.
Hỡi người trong cõi thế gian,
Không nên đi ngược con đàng Phật khuyên.
THANH SĨ
Lá thư số 78: Tokyo, ngày 1-11-1965
Lá thư số 78: Tokyo, ngày 1-11-1965
Tokyo, ngày 1-11-1965,
Lưu Hữu Nghĩa thân mến,
Thơ đề ngày 16-10-65 tôi đã tiếp được. Tôi xin cám ơn Hữu Nghĩa. Hữu Nghĩa, quý quyến và anh chị em đồng đạo gần xa ở quê nhà rán giữ gìn sức khỏe và lo tu hành tinh tấn nhé! Giảng kinh đã vạch sẵn đường lối cứ y theo đó mà đi. Đi đúng thì siêu đi sai thì đọa. Siêu hay đọa tại mình, không phải tại Thầy Tổ. Mình nên nhận định rõ và cần phải tự giác lấy. Sự thăng trầm vui khổ của con người ở ngày mai đều do những hành động của họ ở hôm nay mang lại. Vì thế cho nên, nếu nghĩ đến kết quả ở ngày mai thì mọi hành động hiện nay chớ nên bướng bả khinh thường.
Thơ đề ngày 16-10-65 tôi đã tiếp được. Tôi xin cám ơn Hữu Nghĩa. Hữu Nghĩa, quý quyến và anh chị em đồng đạo gần xa ở quê nhà rán giữ gìn sức khỏe và lo tu hành tinh tấn nhé! Giảng kinh đã vạch sẵn đường lối cứ y theo đó mà đi. Đi đúng thì siêu đi sai thì đọa. Siêu hay đọa tại mình, không phải tại Thầy Tổ. Mình nên nhận định rõ và cần phải tự giác lấy. Sự thăng trầm vui khổ của con người ở ngày mai đều do những hành động của họ ở hôm nay mang lại. Vì thế cho nên, nếu nghĩ đến kết quả ở ngày mai thì mọi hành động hiện nay chớ nên bướng bả khinh thường.
Tóm lại, trước khi bắt đầu làm việc chi cũng cần phải để tâm xét đến sự tội phước nhân quả, không nên nhắm mắt làm liều theo lòng tham dục vọng. Có được như vậy mới tránh khỏi cảnh thống khổ và tìm được cảnh an vui.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc Hữu Nghĩa và tất cả anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều đặng thân thể kiện cường đạo hạnh viên thông.
THANH SĨ
Lá thư số 79: Tokyo, ngày 5-11-1965
Lá thư số 79: Tokyo, ngày 5-11-1965
Tokyo, ngày 5-11-1965,
Hoài Ân thân mến,
Tâm vọng còn nhiều lỗi dễ sanh,
Sớm chiều nhớ luyện tấm lòng thanh.
Giảng kinh rán nghiệm cho thông lý,
Công đức cần trau để trọn lành.
Đạo hạnh chớ rằng trong chốc lát,
Tu thân đừng tưởng chỉ đôi canh,
Nguyện làm sao được như lời Phật,
Dù phải bao lâu dạ cũng đành.
THANH SĨ
Lá thư số 80: Tokyo, ngày 6-11-1965
Lá thư số 80: Tokyo, ngày 6-11-1965
Tokyo, ngày 6-11-1965,
Trường, Yến thân mến,
Kể ra cũng khá lâu, hôm nay tôi mới được tiếp thơ của Trường, Yến. Nhận được tin Trường, Yến và quý quyến vẫn được mạnh lành tôi rất mừng, đồng thời tôi cũng cám ơn Trường, Yến có lòng thỉnh thoảng viết thơ thăm tôi. Sao, cánh buồm đạo hạnh của Trường, Yến đang tiến trên dòng xuôi ngược như thế nào? Gió mười phương, buồm một cánh việc lèo lái đã cảm thấy rất khó khăn lắm phải không?
Nên nghĩ đến mình, nghĩ đến khách và nghĩ đến giới hạn của thời gian mà cố lái cho xuôi chèo, rán chèo cho tới chốn nhé! Tôi không ngớt khấn nguyện ơn trên xin gia hộ cho những người hữu tâm cầu đạo được thỉ chung như nhứt và đạo quả viên thành. Trường, Yến có hiểu ý tôi chăng? Trường, Yến rán tiến lên đừng để phút nào lùi nhé! Tôi rất hy vọng.
Tâm lấy tâm giao ấy Phật truyền,
Thư lời có một, nghĩa muôn thiên,
Hải dương qui cả muôn dòng nước, Ngoại giới không hề cách nội biên.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Trường, Yến, quý quyến và tất cả anh chị em ở quê nhà đều được vạn sự an lành.
THANH SĨ
Lá thư số 81: Tokyo, ngày 17-11-1965
Lá thư số 81: Tokyo, ngày 17-11-1965
Tokyo, ngày 17-11-1965
Huỳnh Đạt Đa thân mến,
Lâu rồi, hôm nay tôi mới nhận được thơ của Đa. Xin cám ơn Đa. Hiện thời tôi ở bên nầy vẫn mạnh khỏe như thường chẳng có gì thay đổi. Xin Đa và anh chị em đồng đạo ở quê nhà nên an tâm. Thể theo những câu hỏi của Đa, tôi xin có ý kiến như dưới đây:
Lâu rồi, hôm nay tôi mới nhận được thơ của Đa. Xin cám ơn Đa. Hiện thời tôi ở bên nầy vẫn mạnh khỏe như thường chẳng có gì thay đổi. Xin Đa và anh chị em đồng đạo ở quê nhà nên an tâm. Thể theo những câu hỏi của Đa, tôi xin có ý kiến như dưới đây:
-Vấn đề hành đạo, Đa và anh chị em đồng đạo trước hết cần phải đem lòng thành ra tô điểm bất kể thời gian bao lâu, sự khó nhọc bao nhiêu, miễn là làm sao cho khai tâm đạt đạo.
-Lòng thành cầu cho đạt đạo phải hết sức tha thiết như kẻ bị kết tội tử hình mà muốn cầu cho được ân xá, được như vậy chắc chắn máy đạo sẽ được khai thông, đạo quả được thành hay không đều do ở lòng thành đến tột độ. Từ ngàn xưa các bậc hiền thánh cầu Đạo cũng nhờ có lòng thành như thế ấy mà được đắc đạo. Cái điểm quan trọng trong khi cầu cho ngộ đạo là nên thấy mình còn thiếu thành tâm, thiếu rèn luyện và thiếu công đức thì mới có thể có một ngày nào đó bỗng nhiên từ đâu ánh sáng đạo mầu phát hiện ngay trong tâm mình. Còn các vọng tâm tập quán cũng thế. Nếu người tăng mạnh lòng thành đến tột độ như đã nói trên đây thì nó sẽ tiêu tan tức khắc. Nói tóm lại là nên lấy lòng thành để hành đạo. Nhứt định sẽ đạt như ý nguyện.
-Công việc truyền bá giảng kinh vẫn như từ trước đến nay, nên tùy theo thời gian, hoàn cảnh và trường hợp để ứng đối cho phù hòa trong khi phổ biến. Vì sự ban vui cứu khổ, vì sự giải mê khai ngộ cho người đời đúng như đường lối của Thầy Tổ đã vạch, nên người thật tâm hành đạo hay khuyến đạo cần phải nhẫn những việc khó nhẫn, thương những người khó thương và làm những điều khó làm. Được như vậy, mới biểu hiện được một phần nào đức tánh từ bi hỷ xả và tự giác giác tha. Và chính đó là cái chí chơn, chí mỹ và chí thiện của đạo Phật. Người tu đạo Phật cần phải thật hành cho được những điểm ấy mới gọi là Phật tử.
-Đa và anh chị em đồng đạo ở quê nhà rán cố gắng trau giồi bản thân của mình và phương tiện khuyến khích những người khác cũng được hướng thiện để được đi đến chỗ siêu thoát nghiệp mê cảnh khổ.
-Sau hết, tôi xin khuyên Đa và anh chị em đồng đạo chớ thấy mình còn nhiều vọng niệm mà đâm ra bi quan hoặc thối chí, hoặc nghĩ tưởng hoang đường vớ vẩn cho lòng thêm tối, trí thêm loạn, mà hãy cương quyết hơn để bình định được cõi lòng. Khi lòng đã nhứt quyết thì sớm muộn gì cũng được. Nên tin chắc như vậy.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Đa và anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được mạnh lành và tu hành chóng tỏ ngộ.
Tu là sửa đổi tánh lầm sai,
Tu nói làm tông cứ mãi hoài,
Tu hiếu tu trung lòng chánh trực,
Tu hiền tu thảo dạ thanh bai.
Tu không phạm đến mười điều tội,
Tu chẳng rời quên tám lẽ ngay,
Tu hối Thần kinh, tà quỉ khiếp,
Tu trong phải được lẫn tu ngoài.
THANH SĨ
Lá thư số 82: Tokyo, ngày 20-11-1965
Lá thư số 82: Tokyo, ngày 20-11-1965
Tokyo, ngày 20-11-1965
Minh Quang thân mến,
Tôi đã nhận được thơ của Quang, xin cám ơn Quang. Thể theo lời của Quang hỏi trong thơ, tôi xin có những ý kiến sau:
- Đã sanh ra giữa cõi trần, bị đời sống chi phối và bị hấp thụ tập quán của thế trần đương nhiên lòng người hay nghĩ tưởng đến việc trần nhiều hơn. Điều đó ít ai tránh khỏi. Nhưng nghĩ việc trần là một lẽ, còn nhiễm trần là một lẽ. Nghĩ trần mà không nhiễm trần là thánh, còn nghĩ trần để cho nhiễm trần là phàm. Phàm thánh đều có nghĩ tưởng như nhau, nhưng chỉ khác là bị nhiễm và không bị nhiễm mà thôi. Nếu không nghĩ tưởng gì hết thì có khác nào là sắt đá và không hiểu biết gì ráo, tức là đồng thứ ngu muội.
Thế cho nên, vẫn nghĩ tưởng mà nghĩ tưởng bằng trí huệ, vẫn hiểu biết bằng chơn lý. Như vậy các tội lỗi sẽ không sanh và những sự mê lầm cũng chẳng có. Tuy nhiên, nói thì dễ mà làm thì khó. Cho nên, bất cứ việc chi muốn làm cho có kết quả mỹ mãn thì phải quyết chí mới được. Nhứt là việc tu, nếu không quyết chí cho đến kỳ cùng, thì khó thắng các sự cám dỗ câu thúc của đời.
Thành bại chỉ tự tâm. Tôi nhận thấy như vậy, xin Minh Quang và anh chị em ở quê nhà rán chí quyết trau giồi.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Quang và anh chị em lớn nhỏ xa gần ở xứ nhà đều được vạn sự kiết tường.
THANH SĨ
Lá thư số 83: Tokyo, ngày 5-12-1965
Lá thư số 83: Tokyo, ngày 5-12-1965
Tokyo, ngày 5-12-1965
Phước Thắng thân mến,
Tôi đã nhận được thơ Thắng. Tôi xin cám ơn Thắng. Đọc thơ thấy tâm trạng của Thắng, tôi không ngần ngại lấy bút viết về cho Thắng mấy vần thơ như sau:
Thắng ơi! là kẻ thế gian,
Mấy ai được khỏi nặng mang nghiệp trần.
Thắng ơi! muốn nợ ly thân,
Nói suông không đủ mà cần quyết tâm.
Thắng ơi! mối Đạo huyền thâm,
Phút giây khó kiếm, phải tầm cho lâu.
Thắng ơi! ngộ đạo dễ đâu,
Mười phần được chín mà cầu chưa nên.
Thắng ơi! tu phải chí bền,
Hành trong đôi lúc muốn nên dễ gì.
Thắng ơi! trong kiếp mê si,
Người hồi tâm được Phật nhi gọi là.
Thắng ơi! biết niệm Di Đà,
Đã gây duyên với Phật qua nhiều đời.
Thắng ơi! Tâm cũng như lời,
Người trong đạo Phật đều ngồi Phật Bang.
Thắng ơi! khi nói một đàng,
Khi làm một ngả đời càng viễn vong.
Thắng ơi! phải chủ định lòng,
Vấn đề đời đạo mới không lỡ làng.
Thắng ơi! như lạc rừng hoang,
Kinh thay nhựt nguyệt để toan khỏi rừng.
Thắng ơi! là khách hồng trần,
Lụy trần không một hai lần thôi đâu.
Thắng ơi! đời tợ mồi câu,
Dục tâm như cá dễ đâu không thèm.
Thắng ơi! khi đã lấm lem,
Nên chùi rửa chớ thêm đem bôi vào.
Thắng ơi! cố sức chùi lau,
Dơ bao cũng chẳng thế nào còn dơ.
Thắng ơi! xưa đến bây giờ,
Đạo là hơn những điều mơ mộng đời.
Thắng ơi! Kiếp sống con người,
Dù ai cũng chỉ tạm thời mà thôi.
Thắng ơi! chỉ khỏi luân hồi,
Mới là chính thật là người trường miên.
Thắng ơi! xin với tôi nguyền,
Độ mình độ kẻ khỏi miền tử sanh.
Mấy vần thô sơ, tôi xin dừng bút. Xin chúc cho Thắng và tất cả anh chị em lớn nhỏ ở quê nhà đều được thân tâm lành mạnh.
THANH SĨ
Lá thư số 84: Tokyo, ngày 8-12-1965
Lá thư số 84: Tokyo, ngày 8-12-1965
Tokyo, ngày 8-12-1965
Thưa Má,
Hiện thời Má và anh chị em đồng đạo gần xa ở quê nhà có được bình an mạnh khỏe như thường không? Ở bên nầy con vẫn được khỏe mạnh, không có sự vì lạ đáng lo. Xin Má và anh chị em ở quê nhà nên vững lòng. Con rất biết rõ tình hình ở nước nhà, lúc nào trong lòng cũng rất lo âu. Con không ngớt cầu nguyện ơn trên các bậc Phật Thần gia hộ cho Má và anh chị em lớn nhỏ ở quê nhà đều được mọi sự an lành. Chắc Má và anh chị em ở quê nhà cũng thường ngày đêm cầu nguyện cho giữa nhau cũng được những điều ấy.
Hiện thời Má và anh chị em đồng đạo gần xa ở quê nhà có được bình an mạnh khỏe như thường không? Ở bên nầy con vẫn được khỏe mạnh, không có sự vì lạ đáng lo. Xin Má và anh chị em ở quê nhà nên vững lòng. Con rất biết rõ tình hình ở nước nhà, lúc nào trong lòng cũng rất lo âu. Con không ngớt cầu nguyện ơn trên các bậc Phật Thần gia hộ cho Má và anh chị em lớn nhỏ ở quê nhà đều được mọi sự an lành. Chắc Má và anh chị em ở quê nhà cũng thường ngày đêm cầu nguyện cho giữa nhau cũng được những điều ấy.
Người trong đạo Phật lúc thái bình vẫn cầu an cho thiên hạ, nhưng khi loạn lạc càng phải vừa cầu an, đồng thời phải vừa cứu giúp cho thiên hạ gấp bao nhiêu lần hơn. Lòng từ bi thường được hiện ra trong lúc người đời bị tai khổ hơn lúc an nhàn. Cho nên người tu hành không nên thờ ơ lạnh lùng trong lúc thiên hạ đảo điên mà là phải nên tùy theo tài đức của mình để trợ cứu người đời những việc phước lợi.
Vả lại, người đời nhắm vào người đạo và muốn xác nhận tâm đức của người đạo đối với họ như thế nào là cũng do trong lúc họ gặp cảnh đau khổ nhiều hơn lúc bình thường. Vì vậy, người đạo muốn hóa độ người đời, không nên bỏ qua cơ hội của họ bị những gì bất bình khốn đốn. Người đạo nhân sự đau khổ của người đời để cứu độ, nhưng người đời nhân sự đau khổ để lợi dụng. Người đạo cũng như người đời có khác nhau ở chỗ đó.
Song, người đời cũng như người đạo rất giống nhau ở chỗ là khi gặp cảnh khổ nguy đều lộ rõ chân tướng. Phật ra Phật, ma ra ma, thứ nào ra thứ nấy không thể giấu được. Có câu: "Nhà nghèo mới hay con thảo, nước loạn mới biết tôi trung" thật là đúng. Trong lúc nguy nan thống khổ, mới dễ thấy rõ lòng người, nhưng rất tiếc ít tìm được người có lòng hữu thỉ hữu chung.
Tuy vậy, đối với những người hiểu thông nhân quả, thấm thía đạo mầu không lấy đó làm sự buồn giận cố chấp mà chỉ tìm cách cảm hóa họ cho kỳ được. Chính đó mới thật là đi đúng chủ nghĩa từ bi hỷ xả. Người trong đạo Phật cần phải tu luyện cho có tấm lòng ấy. Như thế mới cắt được dây oan, sạch được nghiệp trần và đồng được siêu thoát như chư Phật.
Thưa Má, chánh đạo rất khó hành, nhưng cương quyết hành nhứt định sẽ được. Những điều đã nói trên Má nên chuyển lại cho anh chị em gần xa đều được biết để suy nghiệm, hầu có phát tâm nung nấu việc tu hành đạo đức một cách dũng mãnh hơn. Nếu ai cũng được mạnh mẽ lòng tu hành đạo đức tất nhiên mọi việc tội ác trong xã hội sẽ được giảm nhiều và tình thương yêu tha thứ giúp đỡ lẫn nhau giữa con người cũng sẽ trở nên chặt chẽ.
Đó là những điều tốt đẹp nhứt của đời sống và cũng là con đường thoát khổ của con người. Rất muốn cho ai cũng đều đồng tâm thật hiện những điểm đó. Được vậy thật là phước lạc.
Cùng tu cùng giúp cùng thương,
Ngục trần gian đổi Thiên Đường khó chi.
Vắn tắt có bao nhiêu lời, Con xin cầu chúc cho Má được luôn luôn khỏe mạnh sống lâu và nhiều phước đức. Nhờ Má trao lời con kính thăm tất cả anh chị em đồng đạo xa gần.
THANH SĨ
P.B.: Bữa nay cũng chưa nói vào cuồn băng.
Lá thư số 85: Tokyo, ngày 9-11-1965
Lá thư số 85: Tokyo, ngày 9-11-1965
Tokyo, ngày 9-11-1965,
Lệ thân mến,
Thơ Lệ đề ngày 16-12-65 tôi đã nhận được, nhưng đến bữa nay cũng chưa được bánh. Ngày nào tôi cũng trông đợi. Thơ của Lệ chỉ xác nhận lại những lời anh em đã có cho tôi biết về Lệ. Và chính tôi cũng rất hiểu nhiều về con người của Lệ từ lâu. Lệ là người giàu tình cảm đối với gia đình và bè bạn. Tốt lắm. Tuy nhiên trong lúc làm việc Lệ nên dùng tình cảm cho cân đối với lý trí, không nên đặt nó chênh lệch. Bởi lẽ nếu quá tình cảm thì trở nên yếu ớt, còn quá lý trí thì trở nên lạnh lùng. Nếu yếu ớt không làm được việc lớn, còn lạnh lùng sẽ thất nhân tâm. Cả hai khuyết điểm đều bất lợi. Cho nên cần phải khéo dung hòa cho nó thích đương.
Thơ Lệ đề ngày 16-12-65 tôi đã nhận được, nhưng đến bữa nay cũng chưa được bánh. Ngày nào tôi cũng trông đợi. Thơ của Lệ chỉ xác nhận lại những lời anh em đã có cho tôi biết về Lệ. Và chính tôi cũng rất hiểu nhiều về con người của Lệ từ lâu. Lệ là người giàu tình cảm đối với gia đình và bè bạn. Tốt lắm. Tuy nhiên trong lúc làm việc Lệ nên dùng tình cảm cho cân đối với lý trí, không nên đặt nó chênh lệch. Bởi lẽ nếu quá tình cảm thì trở nên yếu ớt, còn quá lý trí thì trở nên lạnh lùng. Nếu yếu ớt không làm được việc lớn, còn lạnh lùng sẽ thất nhân tâm. Cả hai khuyết điểm đều bất lợi. Cho nên cần phải khéo dung hòa cho nó thích đương.
Còn sự sống của gia đình, theo tôi nghĩ nên an phận thủ thường là tốt nhứt. Ngó xuống thấy mình dư, ngó lên thấy mình thiếu. Càng ngó lên càng muốn đua chen đến chết cũng không cùng. Nên hạn chế bớt sự đòi hỏi và nên coi thường những lời gièm pha của kẻ hàng xóm, thì mọi việc trên lẽ sống của mình sẽ bớt sự mệt nhọc và được nhiều tự do hơn. Lệ có nhận xét như thế không?
Và trong công việc làm gặp phải nhiều chướng ngại, thì sự nhẫn nại là chìa khóa để đi đến thỏa mãn ("Patience is the key of the content") nhưng giải đãi là nguồn gốc của tất cả tai hại ("Idleness is the root of the all the evil"), cho nên chỉ nên nhẫn nại, không nên giải đãi. Xin Lệ nên chú ý điểm ấy, và nhớ khuyên anh em khác.
Sau cùng, tôi xin khuyên Lệ và anh chị em ở nhà nên nhớ rằng: Con người vốn là lầm lỗi ("Fault is human") đừng lấy làm lạ, nên tìm cách tha thứ, không nên hẹp lượng cố chấp. Chỉ cố gắng đi trên con đường chánh nghĩa mà chính mình đã nhận thấy rõ rệt, là tối quan trọng. Ngoài ra, toàn là những điều phụ thuộc trên đường tiến đến mục đích.
Vắn tắt có mấy lời tôi xin chúc cho Lệ và anh chị em ở quê nhà đều được vạn an.
THANH SĨ
Lá thư số 86: Tokyo, ngày 11-01-1966
Lá thư số 86: Tokyo, ngày 11-01-1966
Tokyo, ngày 11-01-1966,
Thi: Van Xuân
Kim niên Xuân có lai trình,
Xin mang theo cảnh thái bình cho dân.
Trải qua mấy chục cái xuân,
Xuân buồn thì có Xuân mừng thì không.
Xuân mà hoa ngán trổ bông,
Thì là đủ biết Xuân trong cảnh nào.
Năm nay ý nguyện đồng bào,
Muốn Xuân cho họ một màu vui tươi.
Nếu Xuân đi ngược lòng người,
Việt Nam tự hậu không mời Xuân sang.
Đây xin thành thật khấn van,
Xuân bình định quốc, Xuân nhàn nhã dân.
Kim niên Xuân có lai trình,
Xin mang theo cảnh thái bình cho dân.
Trải qua mấy chục cái xuân,
Xuân buồn thì có Xuân mừng thì không.
Xuân mà hoa ngán trổ bông,
Thì là đủ biết Xuân trong cảnh nào.
Năm nay ý nguyện đồng bào,
Muốn Xuân cho họ một màu vui tươi.
Nếu Xuân đi ngược lòng người,
Việt Nam tự hậu không mời Xuân sang.
Đây xin thành thật khấn van,
Xuân bình định quốc, Xuân nhàn nhã dân.
THANH SĨ
Lá thư số 87: Tokyo, ngày 11-1-1966
Lá thư số 87: Tokyo, ngày 11-1-1966
Tokyo, ngày 11-1-1966
Gởi Huỳnh Trung Tín
Huỳnh Trung Tín thân mến,
Thơ của Tín đề ngày 13-12-1965 tôi đã nhận được. Tôi rất cám ơn Tín. Ở bên nầy tôi vẫn được khỏe mạnh không có sự gì thay đổi, xin Tín và anh chị em đồng đạo nên an lòng. Về phương diện đạo lý, Tín và anh chị em đồng đạo nên cố gắng trau giồi, không nên thối chuyển. Trau giồi cho tâm được trọn lành trí được trọn sáng. Đồng thời nhớ tu chưởng phước điền để giúp cho cội Bồ Đề được vững chắc và sớm có trái bông.
Huỳnh Trung Tín thân mến,
Thơ của Tín đề ngày 13-12-1965 tôi đã nhận được. Tôi rất cám ơn Tín. Ở bên nầy tôi vẫn được khỏe mạnh không có sự gì thay đổi, xin Tín và anh chị em đồng đạo nên an lòng. Về phương diện đạo lý, Tín và anh chị em đồng đạo nên cố gắng trau giồi, không nên thối chuyển. Trau giồi cho tâm được trọn lành trí được trọn sáng. Đồng thời nhớ tu chưởng phước điền để giúp cho cội Bồ Đề được vững chắc và sớm có trái bông.
Trong khi tu tập hoặc phổ biến đạo đức tuy gặp nhiều trở ngại, gặp nhiều khó khăn, nhưng không nên lấy đó làm chán ngán buồn phiền, mà là phải nên giữ lòng tự nhiên để lướt qua và rán phát tâm từ bi mạnh hơn, trí nhẫn nhục nhiều hơn để đủ sức chịu đựng và cũng để hạnh đức không bị khờn mẻ.
Chướng ngại chính là sự bào giũa ý chí của mình, còn thử thách chính là cây thước để đo trình độ tu hành của mình, thấy như là nó muốn hại mình, nhưng sự thật là nó giúp cho mình đấy. Thế cho nên, không nên chán ghét nó. Rán vượt qua từ đoạn và tiến lên từ nấc cho đến mức cuối cùng, xin Tín và anh chị em nên bền chí.
Còn vấn đề thị dục, nó do ngã chấp sanh ra. Nếu ngã chấp hết tất nhiên thì dục hết. Dục vọng cũng thế, một khi tâm nhân ngã không còn thì dục vọng cũng chẳng có. Nhân nhã sanh tham mê, tham mê sanh dục vọng. Nó dính líu nhau như dây chuyền. Nhưng tâm chấp nhân ngã là cội gốc, dứt được nó thì các tật khác dứt ngay. Nhân ngã là núi ngăn đường Phật với chúng sanh. Phá được nó tức Phật với chúng sanh sẽ gặp nhau trong nháy mắt. Vậy Tín và anh chị em đồng đạo rán cố gắng.
Vắn tắt có bấy nhiêu lời. Tôi xin chúc cho Tín và tất cả anh chị em đồng đạo lớn nhỏ gần xa nơi quê nhà đều được dồi dào sức khỏe và chóng tỏ đạo tâm.
THANH SĨ
Lá thư số 88: Tokyo, ngày 14-1-1966
Lá thư số 88: Tokyo, ngày 14-1-1966
Tokyo, ngày 14-1-1966
Ngọc My thân mến,
Thơ của Ngọc My đề ngày 18-12-65 tôi đã nhận được lâu rồi, nhưng chưa có thì giờ thành thử đến hôm nay mới hồi tin được. Trước hết tôi xin cám ơn Ngọc My đã có lòng viết thơ thăm tôi. Và kế đây thể theo lời của Ngọc My đã hỏi trong thơ, tôi xin có ý kiến đơn giản như sau đây:
-Đường Đạo ở giữa rừng đời, cố nhiên rất có nhiều gai góc và dễ bị đụng chạm, nhà tu hành cần phải lấy nhẫn nhục làm ngựa, lấy dũng cảm làm tướng, và lấy trí huệ làm gươm để vẹt mở xông pha vượt qua một vài chướng ngại chưa phải là an toàn mà là cần phải vượt qua được tất cả chướng ngại khác nữa để đạt đến chỗ rốt ráo.
-Đạo Phật vốn là từ bi, thương yêu chúng sanh vô cùng, không lúc nào gọi là bắt đầu và cũng không lúc nào gọi là chấm dứt. Thế cho nên, người trong đạo Phật trong lúc hành đạo nên lo làm việc tế độ, không nên ngồi không. Tế độ được cũng vui, không được cũng không chán. Lúc nào cũng cố gắng làm gương chơn chánh đạo hạnh cho người soi theo và để cho công việc tế độ của mình có nhiều hiệu quả.
-Nên thấy lỗi của mình trước hơn thấy lỗi của người khác và lúc nào cũng nên tha thứ, không nên cố chấp. Khi muốn tế độ người, trước hết phải tùy theo hoàn cảnh, trình độ và tâm tư của người để tế độ, ví dụ cá thì cho nước, người thì cho khí trời không nên dùng sai.
-Còn tư tưởng xấu, tuy chưa nên tội với ai nhưng rất có hại cho trí não của mình. Và tư tưởng đến hành động chỉ cách có một kẽ tóc, cần phải thận trọng và nên cố gắng thanh lọc nó, chớ nên khinh thường. Trái lại có tư tưởng tốt (như từ bi, đạo nghĩa v.v…) rất có ảnh hưởng tốt cho đầu óc, và cũng là mầm mống tốt cho những hành động sau nầy. Thế nên, cần phải tu dưỡng cái tư tưởng tốt. Vả lại, nếu có nhiều tư tưởng tốt thì sẽ ít bị sự thu hút cám dỗ của người và vật chung quanh.
Huống nữa, nếu muốn tế độ người đời mà kém tư tưởng tốt, tất dễ bị rơi vào tình cảm tầm thường hơn là tinh thần từ bi siêu thoát. Như vậy, là đi sai lầm trái ngược đường lối cứu độ của Phật giáo. Tóm tắt trong lúc tu thân giúp đời phải mạnh sức nhịn chịu, bình tĩnh, cương quyết và thắng phục được các trở ngại để hoàn thành bổn nguyện tự độ độ tha. Kế đó, đừng bao giờ coi thường việc dung túng chứa vựa các tư tưởng nhơ xấu ác gian mà là nên cố gắng sức gội rửa bình trị nó cho thật trong sạch tốt lành. Đó là nền tảng diệt tội sanh phước và chứng đạo.
Vậy Ngọc My và anh chị em đồng đạo ở nhà rán lo thật hành cho được viên mãn. Tôi không ngớt mong đợi. Tôi xin chúc cho Ngọc My và anh chị em ở quê nhà đều được vạn an.
THANH SĨ
Lá thư số 89: Tokyo, ngày 4-2-1966
Lá thư số 89: Tokyo, ngày 4-2-1966
Tokyo, ngày 4-2-1966
Hoài Ân thân mến,
Thơ đề ngày 28-1-66 tôi đã tiếp được món quà 200 và 600 tôi cũng đã nhận được và đã viết thơ cho Ân hay rồi, thơ ấy Ân đã nhận được chưa? Mọi việc nầy tôi rất cám ơn Ân, Lệ và tất cả anh chị em nơi quê nhà nhiều lắm. Còn băng và giảng tôi sẽ tùy tiện gởi thêm để ở quê nhà phương tiện phổ biến bằng mọi phương pháp khéo léo thích hợp, cho anh chị em đó đây có dịp nghiên cứu và bổ túc thêm trên sự tu học Phật pháp và phục vụ nhơn sanh.
Thơ đề ngày 28-1-66 tôi đã tiếp được món quà 200 và 600 tôi cũng đã nhận được và đã viết thơ cho Ân hay rồi, thơ ấy Ân đã nhận được chưa? Mọi việc nầy tôi rất cám ơn Ân, Lệ và tất cả anh chị em nơi quê nhà nhiều lắm. Còn băng và giảng tôi sẽ tùy tiện gởi thêm để ở quê nhà phương tiện phổ biến bằng mọi phương pháp khéo léo thích hợp, cho anh chị em đó đây có dịp nghiên cứu và bổ túc thêm trên sự tu học Phật pháp và phục vụ nhơn sanh.
Ân, còn vạn vật sanh linh thì còn cần đến mưa pháp. Mưa pháp hết thì nhơn sanh vạn vật khô khan, thế cho nên, mưa pháp vẫn theo thời tiết mưa luôn, không bao giờ để cho khô hạn. Lúc nào cũng vì chúng sanh, vì vạn vật mà mưa pháp, đã mưa mãi từ ngàn xưa và chí đến ngày nay, giọt mưa ấy cũng vẫn tiếp tục tuôn ra cho đến khi nào trên quả địa cầu nầy không còn vạn vật sanh linh. Đó là bổn nguyện của lòng đại bi đại độ.
Vậy Ân và anh chị em ở quê nhà nên phương tiện tiếp tục mãi công việc truyền bá giảng kinh, đừng thấy có nhiều kẻ quá khinh thường, hoặc lơ là với Phật pháp mà buồn lòng không muốn khuyến khích thêm nữa. Phấn trắng phải viết trên bảng đen, từ bi phải làm trong ác thế. Ân và anh chị em ở quê nhà nên suy nghiệm như thế để tiến tới trên con đường tự giác giác tha.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Ân và anh chị em ở quê nhà đều được đạo thể khương an.
THANH SĨ
Phú bút: Có gởi kèm tấm ảnh của tôi sau đây.
Lá thư số 90: Tokyo, ngày 5-2-1966
Lá thư số 90: Tokyo, ngày 5-2-1966
Tokyo, ngày 5-2-1966,
Hoài Ân thân mến,
Ân ơi! tôi đã bao lần,
Rằng xa nhau vẫn luôn gần bên nhau.
Giữa nhau động tịnh ra sao,
Cùng nhau biết rõ khác nào thịt xương.
Biết nhau ngoài cái tình thương,
Còn thông cảm đến tình thương siêu vời.
Trong khi tạm cách đôi nơi,
Nên đem tình ấy cho đời cùng thông.
Thông nhau chẳng những núi sông,
Còn thông nhau cả đại đồng nhơn sanh.
Cùng xây xã hội no lành,
Cùng đem thế giới biến thành đệ huynh.
Đời đầy giai cấp mặc tình,
Với ai mình cũng đẳng bình như nhau.
Lời lành nhứt quyết kêu gào,
Việc lành nhứt quyết lo đào tạo ra.
Học theo tánh Phật Thích Ca,
Với ai thì cũng vẫn là từ bi.
Trước sau vẫn một tình ni,
Để cho người thấy những gì thiêng liêng.
Ân ơi! chí nguyện Phật Tiên,
Cứu muôn người chẳng cứu riêng cho mình.
Tình cho tất cả chúng sinh,
Không hề tình chỉ cho mình mà thôi.
Niết bàn các Phật được ngồi,
Cũng do tình ấy mà bồi đắp nên.
Liên Đài muốn được bước lên,
Ân ơi! tình ấy đừng quên phút nào.
Cuộc đời càng khổ dường bao,
Thì tình ấy giá càng cao thêm nhiều.
Nếu tâm vị ngã chưa tiêu,
Khó theo tình ấy chỉ theo tình đời.
Tình đời chỉ mấy tấc hơi,
Tấc hơi ấy hết thì đời cũng tiêu.
Đâu bằng tình Phật cao siêu,
Tình đời giả tạm đến liêu miên trường.
Nên tình ấy thật tình thương,
Thương cơn sống gởi, thương đường thoát ly.
Thác hồn Cực Lạc hồi quy,
Sống thân được hưởng trường kỳ an vui.
Đạo thì mầu nhiệm đầy mùi,
Đời thì trong sạch tốt tươi đầy đàng.
Đạo đời tương tế nhân gian,
Mảnh tình ấy có chi bằng Ân ơi!
Làm sao cho nó khỏi rơi!
Làm sao cho nó được đời cảm thông!
Lòng tôi luống những ước mong...
THANH SĨ
Lá thư số 91: Tokyo, ngày 9-2-1966
Lá thư số 91: Tokyo, ngày 9-2-1966
Tokyo, ngày 9-2-1966,
Thưa Má -Khuyên Tu hiền
Ở quê nhà, Má và anh chị em đồng đạo có được bình yên khỏe mạnh như thường không? Bên nầy con vẫn được mạnh khỏe, nhưng vì độ nầy hơi bận, thành thử ít viết thơ về. Tuy nhiên, lúc nào con cũng cố gắng nhín thì giờ để viết thơ về cho Má và anh chị em được thường biết tin để an lòng. Đồng thời, cũng để nhắc nhở việc đạo lý, để cho anh chị em đồng đạo thường nhớ đến và rán lo thật hành.
Ai hung thì mặc người hung,
Mình hiền thì rán thỉ chung lòng hiền.
Luật nhân quả rất tự nhiên,
Gieo hung hung nở, gieo hiền hiền sanh.
Hiền sanh mọi việc an lành,
Hung nở mọi việc tan tành đau thương.
Cho nên cần phải hiền lương,
Dù là gặp phải những trường hợp nao.
Thưa Má, gặp cảnh rối loạn đen tối, lòng người dễ thay đổi, tánh người dễ biến xấu và cũng dễ khiến người làm những việc tội ác gian manh. Nhưng dù gặp cảnh rối loạn đen tối, luật nhân quả vẫn như nhiên (không bao giờ bị rối loạn đen tối), hành động thiện ác của con người như thế nào cuối cùng sẽ kết quả như thế nấy không sai chạy. Má rán nhắc anh chị em bất cứ việc làm lời nói và ý tưởng chi cũng nên nhớ đến luật nhân quả, hầu có tránh những nghiệp tội ác của chính mình, hoặc cho người khác. Nên khuyên anh chị em dù ở trong hoàn cảnh nào cũng rán làm việc lương thiện chơn chánh và đừng quên mình là kẻ tu hành.
Vắn tắt có mấy lời, con xin cầu nguyện Thầy Tổ hộ độ Má được luôn luôn mạnh khỏe sáng suốt và xin Má trao lời con kính thăm tất cả anh chị em đồng đạo xa gần.
THANH SĨ
Lá thư số 92: Tokyo, ngày 14-3-1966
Lá thư số 92: Tokyo, ngày 14-3-1966
Tokyo, ngày 14-3-1966
Hoài Ân thân mến,
Xin báo tin cho Ân rõ, tôi đã nhận được 300 bánh (của Phú Ha) hồi trưa nay. Rất cám ơn Ân, Lệ và anh chị em ở quê nhà nhiều lắm. Hiện thời tôi vẫn được mạnh khỏe như thường, chẳng có sự gì đáng lo cả. Xin Ân và anh chị em rán giữ gìn sức khỏe, cẩn thận việc làm và cố gắng tu hành chơn chánh tạo tác phước thiện ở trong mọi hoàn cảnh và nhớ tìm cách đoàn kết rộng và gây thiện cảm nhiều với mọi người. Lúc nào cũng nên hành động cư xử trên cơ sở đạo đức và tâm niệm từ bi, dù trong tình thế khắt khe rối khổ. Xin Ân và anh chị em ở quê nhà rán gắng chí.
Xin báo tin cho Ân rõ, tôi đã nhận được 300 bánh (của Phú Ha) hồi trưa nay. Rất cám ơn Ân, Lệ và anh chị em ở quê nhà nhiều lắm. Hiện thời tôi vẫn được mạnh khỏe như thường, chẳng có sự gì đáng lo cả. Xin Ân và anh chị em rán giữ gìn sức khỏe, cẩn thận việc làm và cố gắng tu hành chơn chánh tạo tác phước thiện ở trong mọi hoàn cảnh và nhớ tìm cách đoàn kết rộng và gây thiện cảm nhiều với mọi người. Lúc nào cũng nên hành động cư xử trên cơ sở đạo đức và tâm niệm từ bi, dù trong tình thế khắt khe rối khổ. Xin Ân và anh chị em ở quê nhà rán gắng chí.
Chỉ có mấy hàng, tôi xin chúc cho Ân và anh chị em đồng đạo gần xa đều được an lành.
THANH SĨ
Lá thư số 93: Tokyo, ngày 20-3-1966
Lá thư số 93: Tokyo, ngày 20-3-1966
Tokyo, ngày 20-3-1966,
Minh Hấn thân mến,
Tôi đã nhận được thơ của Hấn. Xin cám ơn Hấn. Ở bên nầy tôi vẫn được mạnh như thường chẳng có sự gì thay đổi. Xin Hấn và anh chị em đồng đạo ở quê nhà nên an lòng. Còn mấy điều Hấn đã hỏi tôi xin có ý kiến như dưới đây:
Tôi đã nhận được thơ của Hấn. Xin cám ơn Hấn. Ở bên nầy tôi vẫn được mạnh như thường chẳng có sự gì thay đổi. Xin Hấn và anh chị em đồng đạo ở quê nhà nên an lòng. Còn mấy điều Hấn đã hỏi tôi xin có ý kiến như dưới đây:
-Sự học cố nhiên không có hại cho sự tu, trái lại người có tinh thần đạo đức càng học càng mở rộng kiến thức và càng thêm năng lực giúp ích cho xã hội, phụng sự quốc gia được nhiều phương diện hơn. Nếu có đủ điều kiện thuận tiện nên tiếp tục học thêm cho đến nơi đến chốn là tốt.
-Sự tu cốt yếu nơi tâm, không phải nơi cảnh. Cho nên ở đâu cũng có thể tu được, không thiên chấp chỗ nào mà chỉ nên tự chủ lấy tâm để ở chỗ nào cũng có thể tu được cả. Tu như vậy là chơn tu và cũng gọi là tu tâm đấy.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Hấn, quý quyến và tất cả anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được dồi dào sức khỏe và tăng trưởng Bồ Đề tâm.
THANH SĨ
Lá thư số 94: Tokyo, ngày 13-4-1966
Lá thư số 94: Tokyo, ngày 13-4-1966
Tokyo, ngày 13-4-1966
Ưởng thân mến,
Cảnh nào cũng vẫn làm lành,
Người nào cũng vẫn lấy tình yêu thương.
Đạo mầu phương tiện xiển dương,
Từ bi chẳng biệt phân đường Đông Tây.
Tỉnh người say chẳng để say,
Độ đời mê chẳng để gài trong mê.
Đi đâu cũng nhớ đường về,
Ở đâu cũng chẳng bỏ bê đạo mầu.
Sen vàng mọc giữa bùn sâu...
Cảnh nào cũng vẫn làm lành,
Người nào cũng vẫn lấy tình yêu thương.
Đạo mầu phương tiện xiển dương,
Từ bi chẳng biệt phân đường Đông Tây.
Tỉnh người say chẳng để say,
Độ đời mê chẳng để gài trong mê.
Đi đâu cũng nhớ đường về,
Ở đâu cũng chẳng bỏ bê đạo mầu.
Sen vàng mọc giữa bùn sâu...
THANH SĨ
Lá thư số 95: Tokyo, ngày 22-4-1966
Lá thư số 95: Tokyo, ngày 22-4-1966
Tokyo, ngày 22-4-1966,
Thưa Má,
Con kính thăm Má và tất cả anh chị em đồng đạo ở quê nhà. Ở bên nầy con vẫn được mạnh khỏe như thường. Xin Má và anh chị em nên an lòng. Khí hậu bên nầy, hiện thời đã trở nên ấm nhiều rồi. Từ đây cho tới cuối tháng 9 ở Đông Kinh sẽ lần lần nóng nực như bên ta. Kể như mùa lạnh năm nay đã qua rồi đấy. Tính ra đã chịu mười năm lạnh ở đất Nhựt rồi. Rất mong chấm dứt cảnh lạnh lẽo nầy ở một ngày gần đây.
Con kính thăm Má và tất cả anh chị em đồng đạo ở quê nhà. Ở bên nầy con vẫn được mạnh khỏe như thường. Xin Má và anh chị em nên an lòng. Khí hậu bên nầy, hiện thời đã trở nên ấm nhiều rồi. Từ đây cho tới cuối tháng 9 ở Đông Kinh sẽ lần lần nóng nực như bên ta. Kể như mùa lạnh năm nay đã qua rồi đấy. Tính ra đã chịu mười năm lạnh ở đất Nhựt rồi. Rất mong chấm dứt cảnh lạnh lẽo nầy ở một ngày gần đây.
Việc tu hành đạo nghĩa vẫn cố gắng tùy tiện khuyến nhủ anh chị em rán tinh tấn chung lo nếu được nhiều càng tốt, không được cũng lo tới mãi chẳng nên buồn phiền thối chuyển trong tâm.
Tình thương mở rộng luôn luôn,
Lời khuyên đạo đức như nguồn chảy ra.
Với ai cũng đối tốt hòa,
Với ai cũng muốn trở ra tốt lành.
Lo cho vẹn phận tu hành,
Lo cho nền đạo thơm danh xa gần.
Thấy người mất nết hư thân,
Mình nên khuyên sửa và cần tự răn.
Giữ cho khỏi lỗi đạo hằng,
Làm cho xứng đáng trong hàng Phật môn.
Tu cho siêu thoát linh hồn,
Tu cho khỏi tội khổ thân sanh bình.
Lời lành của Phật rán tin,
Việc lành đối với nhơn sanh rán làm.
Vắn tắt có mấy lời, Con xin cầu chúc cho Má và anh chị em ở quê nhà đều được vạn sự an lành.
THANH SĨ
Lá thư số 96: Tokyo, ngày 24-4-1966
Lá thư số 96: Tokyo, ngày 24-4-1966
Tokyo, ngày 24-4-1966,
Hoài Ân thân mến,
Quyển "Để hiểu Phật Giáo Hòa Hảo" tôi đã nhận được. Ân và anh chị em ở quê nhà có được an lành như thường không? Ở bên nầy tôi vẫn được mạnh khỏe. Nhân dịp trường nghỉ mùa xuân, tôi đã đi viếng các ngôi chùa ở vùng núi chút tuần nay mới về tới. Đây là một bức ảnh trong những cảnh chùa tôi đã đến thăm.
Quyển "Để hiểu Phật Giáo Hòa Hảo" tôi đã nhận được. Ân và anh chị em ở quê nhà có được an lành như thường không? Ở bên nầy tôi vẫn được mạnh khỏe. Nhân dịp trường nghỉ mùa xuân, tôi đã đi viếng các ngôi chùa ở vùng núi chút tuần nay mới về tới. Đây là một bức ảnh trong những cảnh chùa tôi đã đến thăm.
Viếng bao nhiêu cảnh chùa chiền,
Chùa nào thấy Phật cũng hiền như nhau.
Vẽ hiền đáng kính làm sao!
Ước rằng thiên hạ người nào cũng theo.
Nếu theo gương Phật đã treo,
Thế gian tất chẳng ai gieo khổ đời.
Nơi nào cũng được vui chơi,
Người nào cũng biết thương người như thân.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin cầu chúc cho Ân, quý quyến và anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được mảnh lành và tu hành mau sáng tỏ.
THANH SĨ
Lá thư số 97: Tokyo, ngày 16-3-1966
Lá thư số 97: Tokyo, ngày 16-3-1966
Tokyo, ngày 16-3-1966,
Tàu thân mến,
Rất hân hạnh được thơ của Tàu lâu rồi, nhưng vì gần đây hơi bận thành thử đến bữa nay mới hồi âm được. Xin Tàu niệm thứ cho. Được biết Tàu và anh chị em ở quê nhà vẫn an lành thì tôi rất mừng. Riêng tôi ở bên nầy cũng vẫn được khỏe mạnh chẳng có sự gì thay đổi. Xin Tàu và anh chị em nên an lòng.
Rất hân hạnh được thơ của Tàu lâu rồi, nhưng vì gần đây hơi bận thành thử đến bữa nay mới hồi âm được. Xin Tàu niệm thứ cho. Được biết Tàu và anh chị em ở quê nhà vẫn an lành thì tôi rất mừng. Riêng tôi ở bên nầy cũng vẫn được khỏe mạnh chẳng có sự gì thay đổi. Xin Tàu và anh chị em nên an lòng.
Ngoài ra mọi việc ở nước nhà, tôi luôn luôn theo dõi và rất biết nhiều lắm, mặc dù tôi đang ở trên đất Nhựt. Mỗi lần nhớ đến chuyện nước tình nhà là mỗi lần tâm não tôi thấy đau buồn, nhưng nghĩ rằng chẳng qua căn duyên và vận hệ đã vậy thì phải như vậy!
Tôi chỉ mong ước người đời tự giác ngộ và phản tỉnh hành động suy tư của mình và rán tăng gia sức từ thiện để đổi vận hung ác. Cùng nhau cố tránh việc tội ác để cho cuộc đời bớt đau khổ và khỏi bị bại hoại điêu tàn mau chóng như gió như mây. Mọi người rán đoàn kết xây dựng con đường hạnh phúc an vui cho nhau cùng hưởng trong khi sống và sau khi thác. Đó là bổn phận thiêng liêng của con người, dù người có tín ngưỡng hay không có tín ngưỡng.
Tàu, giờ phút nào cũng vậy. Tàu và anh chị em đồng đạo rán lấy trí sáng suốt để làm tròn nghĩa vụ con người và hoàn thành bổn phận người tín đồ Phật giáo trong địa hạt tự giác giác tha, tự độ độ tha đúng như giáo pháp của Thầy Tổ đã chỉ dạy. Chánh đạo rất khó hành, nhưng Tàu và anh chị em đồng đạo rán cố gắng tu hành, xin đừng nản lòng thối chí.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Tàu, quý quyến và tất cả anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều vạn sự an lành.
THANH SĨ
Lá thư số 98: Tokyo, ngày 7-5-1966
Lá thư số 98: Tokyo, ngày 7-5-1966
Tokyo, ngày 7-5-1966
Hoài Ân thân mến,
Đầu tuần nầy, suốt mấy tuần nghỉ lễ toàn quốc, tôi đã đi viếng một vài nơi ở miền núi, vừa mới về Đông Kinh, trở lại bận việc trường và bận việc khác như thường lệ. Tuy nhiên, tôi vẫn được khỏe mạnh luôn, chẳng có việc gì đáng lo cả. Xin Ân và anh chị em ở quê nhà nên an tâm. Tôi có được thơ ở Định Hòa thấy nói tất cả đều được an lành tôi rất nhẹ lòng lắm.
Đầu tuần nầy, suốt mấy tuần nghỉ lễ toàn quốc, tôi đã đi viếng một vài nơi ở miền núi, vừa mới về Đông Kinh, trở lại bận việc trường và bận việc khác như thường lệ. Tuy nhiên, tôi vẫn được khỏe mạnh luôn, chẳng có việc gì đáng lo cả. Xin Ân và anh chị em ở quê nhà nên an tâm. Tôi có được thơ ở Định Hòa thấy nói tất cả đều được an lành tôi rất nhẹ lòng lắm.
Việc nước nhà cũng như việc đạo giáo, Tuy gặp lắm gay go, nhưng đọc lại lịch sử thì đó chẳng phải là điều mới mẻ gì mà là nó chỉ lặp lại chuyện cũ mà thôi, thế là sớm muộn gì nó cũng sẽ vượt qua được và sẽ ổn định một cách tốt đẹp. Song trước giờ phút đó, có nhiều đoạn đường khuất trắc và có lắm việc thử thách, dễ khiến con người bỏ dở mục đích, chí nguyện, dù rằng chỉ cố gắng một chút nữa là thành công. Vậy Ân, anh chị em ở quê nhà nên nhìn vào mục tiêu và rán tập trung tinh thần cho hùng dũng hơn đủ sức hăng hái hơn, để nhẫn những điều khó nhẫn, làm những điều khó làm, để khỏi chậm bước trên đường đạo và chóng đạt ý nguyện cao cả trên đường Phật pháp.
Dù tình trạng khó khăn và ở xa xôi, tôi vẫn không ngừng khuyến khích và luôn luôn ao ước Ân và anh chị em đồng đạo nơi xứ nhà đều đồng tu hăng hái cùng tiến đạo nghĩa như nhau. Nên tự tin mọi việc nên hư siêu đọa đều do mình không do người khác và chẳng hề thiên tâm ỷ lại ở ngoại lực.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Ân và anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được đạo hạnh viên
THANH SĨ
Lá thư số 99: Tokyo, ngày 11-5-1966
Lá thư số 99: Tokyo, ngày 11-5-1966
Tokyo, ngày 11-5-1966,
Thời Nào Cũng Tu
Thời nào cũng rán làm lành,
Cảnh nào cũng vẫn tu hành nhứt tâm.
Thật tu khỏi việc lỗi lầm,
Thật tu chính thật là mầm an vui.
Sự tu rán tiến chớ lùi,
Rán tu chớ bỏ hỡi người quê hương.
Tu nên mở rộng tình thương,
Mở đời nhau sống mở đường nhau tu.
Cho ân nhau chớ cho thù,
Cho vui vẻ chớ cho rầu buồn nhau.
Chung lo giải cứu gian lao,
Chung lo giúp đỡ cho nhau no lành.
Khuyên nhau chơn chánh tu hành,
Khuyên nhau chỉ một đường lành mà thôi.
Dù rằng ai có bạc vôi,
Phận mình vẫn tưởng nhớ ngôi Phật Đài.
Đời lo trau trỉa bề ngoài,
Mình ngoài lo vẹn còn mài miệt trong.
Lo bề xử thế không lầm,
Lo đường đạo đức cho kham lòng từ.
Tìm cho thấy ánh chơn như,
Lấy chơn như thật thay hư huyễn đời.
Tu cho bình thạnh muôn nơi,
Tu cho thế giới hết người khổ đau.
Tu cho thấy Phật ngày nào,
Phật nơi Cực Lạc Phật vào thế gian.
Phật tâm và Phật Niết Bàn,
Phật nào cũng thấy rõ ràng như nhau.
Sự tu khuyên rán đề cao,
Tu cho thành tựu dầu lao khổ nhiều.
Từ xa lời có bấy nhiêu…
Thời nào cũng rán làm lành,
Cảnh nào cũng vẫn tu hành nhứt tâm.
Thật tu khỏi việc lỗi lầm,
Thật tu chính thật là mầm an vui.
Sự tu rán tiến chớ lùi,
Rán tu chớ bỏ hỡi người quê hương.
Tu nên mở rộng tình thương,
Mở đời nhau sống mở đường nhau tu.
Cho ân nhau chớ cho thù,
Cho vui vẻ chớ cho rầu buồn nhau.
Chung lo giải cứu gian lao,
Chung lo giúp đỡ cho nhau no lành.
Khuyên nhau chơn chánh tu hành,
Khuyên nhau chỉ một đường lành mà thôi.
Dù rằng ai có bạc vôi,
Phận mình vẫn tưởng nhớ ngôi Phật Đài.
Đời lo trau trỉa bề ngoài,
Mình ngoài lo vẹn còn mài miệt trong.
Lo bề xử thế không lầm,
Lo đường đạo đức cho kham lòng từ.
Tìm cho thấy ánh chơn như,
Lấy chơn như thật thay hư huyễn đời.
Tu cho bình thạnh muôn nơi,
Tu cho thế giới hết người khổ đau.
Tu cho thấy Phật ngày nào,
Phật nơi Cực Lạc Phật vào thế gian.
Phật tâm và Phật Niết Bàn,
Phật nào cũng thấy rõ ràng như nhau.
Sự tu khuyên rán đề cao,
Tu cho thành tựu dầu lao khổ nhiều.
Từ xa lời có bấy nhiêu…
THANH SĨ
Lá thư số 100: Tokyo, ngày 18-5-1966
Lá thư số 100: Tokyo, ngày 18-5-1966
Tokyo, ngày 18-5-1966,
Xứ Lạ Tâm Chẳng Lạ
Ở xứ lạ mà tâm chẳng lạ,
Niềm cố hương trong dạ không phai.
Buổi trùng phùng hẹn có một ngày,
Xin đây đó bền dây đạo nghĩa.
Tuy khô hạn giống lành rán tỉa,
Dầu đường xa chớ nệ mỏi chân.
Hết cơn buồn đến lúc vui mừng,
Trời sẽ sáng ra không tối mãi.
Gặp lao khổ hãy nên nhẫn nại,
Khi thành công sẽ thấy vui tươi.
Nếu kém tu nan giải kiếp người,
Không quyết chí khó rồi phận sự.
Nhận chân lý xin đừng lưỡng lự,
Thấy đáng làm xin cứ thực thi.
Cố làm tròn ý nguyện từ bi,
Rán mở rộng hành vi đạo đức.
Liệu sao khỏi lương tâm cắn rứt,
Lo cho đường lối Phật không sai.
Nói với làm như một chớ hai,
Tu trong tánh chớ ngoài cửa miệng.
Mối đạo nghĩa nên lo phát triển,
Đường tu hành rán tiến sâu xa.
Mở lòng từ để niệm Di Đà,
Khởi tâm đức để mà hành đạo.
Với ai cũng giữ niềm Hòa Hảo,
Ở nơi đâu cũng tạo nghĩa nhân.
Chẳng gây thù chỉ có gây thân,
Luôn tìm cách lấy ân đáp oán.
Đạo ai chán mình không nên chán,
Đời ai tham mình chẳng nên tham.
Xã hội càng nhiều kẻ lũ lam,
Mình càng phải tận tâm giúp đỡ.
Không nên chỉ ngồi trơ than thở,
Mà cũng không nên phó mặc đời.
Nên tùy người tùy cảnh tùy thời,
Phương tiện giúp khỏi nơi thống khổ.
Làm nghĩa chẳng đợi người khuyên dỗ,
Làm phước không mong kẻ ngợi khen.
Thấy lâm nguy bất luận lạ quen,
Ra tay cứu không cần đền đáp.
Thật là kẻ theo đường Phật pháp,
Lòng còn không còn ôm ấp lợi danh.
Giúp người bằng tất cả tâm thành,
Tuyệt đối chẳng ẩn tình đen tối.
Giúp người thoát khỏi vòng tội lỗi,
Giúp người tan hết nỗi đau thương.
Giúp cho người cùng Phật nhứt phương,
Giúp ai cũng khỏi đường sanh tử.
Việc phước huệ bất kỳ đa sự,
Làm ngay không do dự chần chờ.
Người được nhờ như thể mình nhờ,
Với ai cũng không so hơn thiệt.
Mình với kẻ sống không phân biệt,
Đạo hay đời mọi việc nương nhau.
Ngoài cái tình cốt nhục đồng bào,
Còn có nghĩa cùng nhau nhơn loại.
Thiếu tương trợ tất không tồn tại,
Biết giúp nhau mới khỏi diệt vong.
Học từ bi càng mở rộng lòng,
Có nhân đạo càng không ích kỷ.
Giúp nhau được khỏi đời hư ngụy,
Cứu nhau cho hết bị xích xiềng.
Việc an nguy khá biết tương liên,
Điều vui khổ hãy nên chia sớt.
Mộ đạo tánh ham đời phải bớt,
Yêu nước lòng tư dục phải quên.
Còn ham đời quả đạo khó nên,
Còn tư dục nước non khó vẹn.
Việc đời chẳng xử tròn khá thẹn,
Đường đạo không được tiến khá lo.
Lo cho đời đâu cũng ấm no,
Lo cho đạo mở kho huyền bí.
Thật tâm giúp người đừng ích kỷ,
Thật tâm tu chớ nghĩ lợi danh.
Tu cho lòng muốn khỏi tử sanh,
Giúp người vốn tâm tình đạo nghĩa.
Cứ như vậy mà lo trau trỉa,
Tu hành tròn xử thế cũng tròn.
Giữa thời kỳ mạt pháp suy mòn,
Sự tu niệm ngàn muôn gian khổ.
Thiếu cương quyết, thiếu lòng giác ngộ,
Công việc tu rất khó hoàn thành.
Không thật tâm tôn trọng điều lành,
Tất dễ khiến xui mình làm dữ.
Thế cho nên là người Phật tử,
Lẽ trước tiên phải chủ được tâm.
Lấy tinh thần giác ngộ cao thâm,
Thắng phục mọi cảnh trần cám dỗ.
Trước sau cũng một niềm cứu độ,
Ai muốn xô chẳng đổ được lòng.
Sự ác gian trong dạ luôn không,
Điều nhơn thiện nơi lòng thường có.
Làm theo Phật mặc dù rất khó,
Quyết lo tu tuy khổ trăm bề.
Tu đến khi hết sự ngu mê,
Tu đến lúc được kề bên Phật.
Tu cứu thế an vui vật chất,
Tu độ dân siêu thoát tinh thần.
Vì tử sanh mà quyết tu thân,
Vì giải thoát mà cần khuyến giáo.
Ngoài đời cũng như người trong đạo,
Nên lấy tâm Hòa Hảo như trên.
Tình trạng nào cũng chẳng nên quên,
Lòng thương kẻ thương mình như một.
Thương lo độ đến nơi cùng tột,
Độ hồn siêu, độ xác thân vui.
Việc tu nên lo tiến chớ lùi,
Đạo tiến mạnh khi đời mê loạn.
Vừa là chỉ rõ nơi giác ngạn,
Vừa là lo cứu cảnh tai ương.
Đối với ai cũng mở lòng thương,
Giúp cùng sống cùng nương theo Phật.
Đem ánh sáng từ bi rọi khắp,
Cho vui tươi ấm áp mọi nơi.
Từ Đông Kinh vắn tắt mấy lời,
Khuyên đồng đạo khắp nơi cố gắng.
THANH SĨ
Lá thư số 101: Tokyo, ngày 23-5-1966
Lá thư số 101: Tokyo, ngày 23-5-1966
Tokyo, ngày 23-5-1966,
Thưa Má,
Thơ đề ngày 16-5-1966 con đã nhận được. Được biết Má và anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được mạnh lành thì con rất yên tâm lắm. Riêng con ở bên nầy vẫn được sức khỏe như thường, không có sự gì thay đổi đáng lo. Hiện thời ở Đông kinh khí hậu đã được ấm nhiều rồi, cho nên việc đi dạy ở đại học và đi viếng đó đây rất dễ chịu (khỏi phải sợ lạnh). Tính ra đã hơn mười năm rồi mà vẫn chưa quen tiết lạnh, đến mùa đông là vẫn thấy lạnh kinh người! Nhưng thấy người Nhựt họ cũng lạnh như thường, mặc dù từ nhỏ đến lớn họ đã từng sống trong mùa lạnh ở mỗi năm.
Thơ đề ngày 16-5-1966 con đã nhận được. Được biết Má và anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được mạnh lành thì con rất yên tâm lắm. Riêng con ở bên nầy vẫn được sức khỏe như thường, không có sự gì thay đổi đáng lo. Hiện thời ở Đông kinh khí hậu đã được ấm nhiều rồi, cho nên việc đi dạy ở đại học và đi viếng đó đây rất dễ chịu (khỏi phải sợ lạnh). Tính ra đã hơn mười năm rồi mà vẫn chưa quen tiết lạnh, đến mùa đông là vẫn thấy lạnh kinh người! Nhưng thấy người Nhựt họ cũng lạnh như thường, mặc dù từ nhỏ đến lớn họ đã từng sống trong mùa lạnh ở mỗi năm.
Ở nhà giữa anh chị em đồng đạo có tăng thêm ít nhiều tinh thần đạo đức và thân yêu nhau không? Nên nhắm vào sự tồn tại chung và mục đích chung mà mỗi người hãy tự phản tỉnh và gạt bỏ đi những điều tranh chấp nhỏ mọn giữa nhau. Đó là hành động sáng suốt và mới thật là trung thành với Thầy Tổ. Hãy nhìn thẳng bước phân định rất nghiêm khắc của quốc gia mà người trong đoàn thể chúng ta cần phải tự trọng không nên hèn nhơ.
Nên lấy chánh đạo trong việc tu, lấy chánh nghĩa trong việc nước, đừng bao giờ đi ngược lại. Nếu đi ngược lại điều ấy rất bất hạnh cho nước cho đường tu và không thể tồn tại được. Rất mong anh chị em trong đoàn thể đều biết nhận định kỹ mỗi việc làm, để cho quốc gia dân tộc được nhờ nhõi, nền đạo được sáng rộng và chính mình cũng được tốt đẹp nhẹ nhàng hơn.
Đừng gây nên tội nước nhà,
Đừng làm những việc xấu xa Đạo mầu.
Đoàn kết nhau lo câu đạo đức,
Hiệp lực nhau bồi đắp giang sơn.
Bỏ đi tiểu dị cá nhơn,
Nên nhắm vào chỗ Qui Nguơn đại đồng.
Đồng thuyền chớ tưởng không dính líu
Khi thuyền chìm cùng chịu như nhau
Chi bằng kẻ trước người sau
Đồng chèo xuôi mái cho mau tới bờ.
Vắn tắt có mấy lời, con xin cầu chúc cho Má và tất cả anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được luôn luôn khỏe mạnh và đạo hạnh sáng suốt.
Con của Má
Lá thư số 102: Tokyo, ngày 29-5-1966
Lá thư số 102: Tokyo, ngày 29-5-1966
Tokyo, ngày 29-5-1966,
Khắc Trứ thân mến,
Tôi đã nhận được thơ của Trứ, xin cám ơn Trứ. Được biết Trứ và anh chị em khác vẫn tận tụy cố gắng công việc tu hành đạo đức, tôi lấy làm cảm kích vô cùng. Trứ và anh chị em ở nhà rán luôn luôn nâng cao tinh thần tự giác để sống một cách lành mạnh sáng suốt giữa đạo nhân và đạo Phật, Đừng bao giờ để tội cho mình, để khổ cho người và để buồn cho Thầy Tổ.
Tôi đã nhận được thơ của Trứ, xin cám ơn Trứ. Được biết Trứ và anh chị em khác vẫn tận tụy cố gắng công việc tu hành đạo đức, tôi lấy làm cảm kích vô cùng. Trứ và anh chị em ở nhà rán luôn luôn nâng cao tinh thần tự giác để sống một cách lành mạnh sáng suốt giữa đạo nhân và đạo Phật, Đừng bao giờ để tội cho mình, để khổ cho người và để buồn cho Thầy Tổ.
Phải dũng cảm trong mọi việc làm chánh nghĩa chơn lý và phải cương quyết thắng phục nội tâm ngoại cảnh để đạt chí nguyện. Làm quấy được nhứt định là làm phải được. Phải tự tin ơi sức mạnh thiêng liêng của bản năng con người của chính mình. Chớ tự hèn.
Thường soi xét lại nơi lòng,
Thấy từ việc một để lòng lọc ra.
Của mình chẳng của người ta,
Chánh là tự biết, tà là tự hay.
Hỏi mình khỏi phải hỏi ai,
Nhà mình mình khóa, mình gài tự do.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Trứ và tất cả anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được phước huệ viên dung.
THANH SĨ
Lá thư số 103: Tokyo, ngày 3-6-1966
Lá thư số 103: Tokyo, ngày 3-6-1966
Tokyo, ngày 3-6-1966,
Mấy Ai Biết Mộng Đời
Trường, Yến thân mến,
Trường, Yến thân mến,
Thơ đề ngày 7-5-66 tôi đã nhận được lâu rồi, nhưng cây bút máy đến hôm nay vẫn chưa thấy đến. Tuy nhiên tôi rất cám ơn lòng tốt của Trường, Yến nhiều lắm. Hiện thời ở bên nầy tuy bận đi dạy ở đại học và nhiều công việc khác, nhưng tôi vẫn được khỏe mạnh như thường, đồng thời tôi vẫn chiết thì giờ viết thơ về luôn cho anh chị em ở quê nhà được biết tin tức và được lời nhắc nhở đạo lý mãi mãi, để có yên tâm và hăng hái tiến mạnh trên đường tu thân lập mạng.
Thế sự càng đảo điên, lòng tôi càng khát khao mong ước cánh cửa từ bi được mở rộng để đón rước những người đang bị đau khổ và cũng để đánh thức những ai còn đang quay cuồng ngây ngất trong ác mộng, và sau cùng là để cải thiện xã hội con người về vật chất như tinh thần được sống một cách lành mạnh sáng suốt.
Do sự mong ước nầy, nên tôi không bao giờ ngưng công việc Phật pháp và tôi cũng rất hy vọng được có nhiều người cũng đồng mong ước như tôi vậy.
Tôi thiết tưởng:
(Mấy Ai Biết Mộng Đời)
Trong mộng biết là mộng mấy ai,
Mộng không nhận biết biết đâu sai.
Thường người chỉ mộng trong đêm tối,
Có kẻ còn mơ ở giữa ngày.
Chưa tỉnh chiêm bao đâu được hiểu,
Thức rồi giấc điệp mới là hay.
Nếu đời tin mộng không tồn tại,
Nên mở mắt đi chớ kéo dài.
Trường, Yến có đồng ý như thế không? Mộng đời chỉ làm cho người đau khổ và kết quả chỉ là tan rã, không đi xa hơn. Người đời nên sớm tỉnh là sớm cứu mình khỏi vòng lẩn quẩn mê mờ thất thố. Tiếng chuông Phật pháp giúp người được tỉnh mộng để nhìn thấy cảnh bất biến, vô thường mà đã có vô số thánh hiền đã được chứng minh qua rồi.
Vậy Trường, Yến rán cố gắng luôn trên công việc Phật pháp và đừng bao giờ để lùi bước đạo đức trước mọi cảnh gian khổ thử thách trong đời. Tôi rất hy vọng lắm!
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Trường, Yến và tất cả anh chị em ở quê nhà đều được vạn an.
THANH SĨ
P.B.: Có kèm gởi theo đây tấm film của tôi.
Lá thư số 104: Tokyo, ngày 19-7-1966
Lá thư số 104: Tokyo, ngày 19-7-1966
Tokyo, ngày 19-7-1966,
Hoài Ân thân mến,
Người quen (mà Ân đã có cho hay ở trong thơ rồi đó) đã sang đây và đã trao cho tôi 200 bánh hồi sáng nay (19/7/66). Được quà đúng mùa hè thật là đỡ cho tôi nhiều lắm. Vì mùa hè và mùa đông là hai mùa tiêu dụng nhiều hơn hết trong mỗi năm.
Người quen (mà Ân đã có cho hay ở trong thơ rồi đó) đã sang đây và đã trao cho tôi 200 bánh hồi sáng nay (19/7/66). Được quà đúng mùa hè thật là đỡ cho tôi nhiều lắm. Vì mùa hè và mùa đông là hai mùa tiêu dụng nhiều hơn hết trong mỗi năm.
Đáng lẽ tôi phải nghỉ hè hồi đầu tháng 7, nhưng các giáo sư ở trường yêu cầu tôi dạy đến cuối tháng 7 rồi sẽ nghỉ, cho đến thượng tuần tháng 9 mới tựu trường. Mùa hè khí hậu ấm nóng như bên ta, nên trong lòng tôi rất bình thường dễ chịu lắm, không như mùa đông rét mướt, không mấy hạp với cơ thể của tôi. Xin Ân và anh chị em ở quê nhà nên an lòng và rán đồng tâm nhứt trí sử dụng mọi phương tiện biện pháp để phát triển công việc tu hành đạo nghĩa.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Ân và anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được huệ mạng viên khai.
THANH SĨ
Lá thư số 105: Tokyo, ngày 27-7-1966
Lá thư số 105: Tokyo, ngày 27-7-1966
Tokyo, ngày 27-7-1966,
Gởi Lưu Hữu Nghĩa
Lưu Hữu Nghĩa thân mến,
Lưu Hữu Nghĩa thân mến,
Tôi được thơ của Nghĩa lâu rồi, nhưng bận việc, mãi đến hôm nay mới hồi tin được. Xin nghĩa miễn chấp cho. Nghĩa và anh chị em ở quê nhà vẫn được an lành chớ? Ở bên nầy đang giữa mùa hè nóng nực như bên Việt Nam, song đối với cơ thể người ở xứ nóng rất thích hợp hơn ở mùa đông rét mướt, cho nên độ nầy trong người của tôi cảm thấy khỏe mạnh nhiều, không có sự gì đáng lo. Xin Nghĩa và anh chị em ở quê nhà nên an tâm và rán chung nhau bồi dưỡng nguồn gốc đạo đức cho được dồi dào tươi tốt luôn, ngõ hầu làm vui lòng Thầy Tổ và cũng để có kết quả thiêng liêng lợi chung cho giữa mình và mọi người.
Anh chị em đồng đạo đừng bao giờ phụ nhau và đừng bao giờ đi sai tôn chỉ từ bi đạo nghĩa. Muốn giải quyết mọi vấn đề khó khăn rắc rối ở trong và ngoài đạo, việc trước hết là phải thật tâm đoàn kết và thương yêu lẫn nhau và cùng nhau nên nhắm vào đại sự, không nên cố chấp tiểu tiết. Sức mạnh không do cá nhân, mà là do đại đoàn kết. Trong đoàn thể muốn có sức mạnh ấy cần phải cương quyết đoàn kết lẫn nhau, đừng bao giờ để cho rời rạc. Đồng thời, nhớ giúp sức nhau từ người một để tích cực khuếch đại con đường đạo đức nhân thiện trong xã hội một cách cụ thể. Hãy cùng nhau phương tiện biểu hiện tất cả cái chân thật, nhân từ và tốt đẹp của đạo Phật cho người đời chứng thật được sự báu quí và tối cần thiết trong đời sống của nhân gian.
Nghĩa ơi! giữa lúc nguy nàn,
Tu hành chơn chánh nguy nàn khó khăn.
Khó khăn đạo hạnh rán tăng,
Ngày kia báu quí chi bằng Nghĩa ơi!
Nghĩa ơi! mối đạo chớ lơi,
Anh em đồng tiến theo lời từ bi.
Tu cho anh nắm được huyền vi,
Luân hồi được hết, mê si không còn.
Tu cho đạo nghĩa được tròn,
Giống nòi hạnh phúc nước non thanh bình.
Tu là giải thoát chúng sinh,
Nghĩa và đồng đạo rán gìn sự tu.
Vắn tắt có mấy hàng, tôi xin chúc cho Nghĩa, quý quyến và tất cả anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được đạo thể khương an.
THANH SĨ
Lá thư số 106: Tokyo, ngày 02-8-1966
Lá thư số 106: Tokyo, ngày 02-8-1966
Tokyo, ngày 02-8-1966,
Tông thân mến,
Thơ tông đề ngày 18-7-1966 tôi đã nhận được. Tôi xin cám ơn Tông. Ở bên nầy tôi vẫn mạnh. Xin Tông và anh chị em ở quê nhà nên yên lòng. Còn tu hành trước sau vẫn lo tu hành. Tu hành cho chín chắn và cho nên đạo quả. Tu hành đúng đạo từ bi để cho mình và cho người cùng được phước huệ và siêu thoát. Thời gian nào hoàn cảnh nào cũng vẫn lo việc tu hành. Xin Tông và anh chị em đồng đạo gần xa rán cố gắng tu hành cho được viên mãn.
Tông ơi! đạo đức rán lo,
Lo cho mình tốt, lo cho người lành.
Lành tâm, lành cái thân sanh,
Ấy là bổn phận tu hành Tông ơi!
Vắn tắt có mấy hàng, tôi xin chúc cho Tông và anh chị em trong đạo ở quê nhà đều được đoàn kết nhứt trí và đạo lý nhứt tâm.
Thơ tông đề ngày 18-7-1966 tôi đã nhận được. Tôi xin cám ơn Tông. Ở bên nầy tôi vẫn mạnh. Xin Tông và anh chị em ở quê nhà nên yên lòng. Còn tu hành trước sau vẫn lo tu hành. Tu hành cho chín chắn và cho nên đạo quả. Tu hành đúng đạo từ bi để cho mình và cho người cùng được phước huệ và siêu thoát. Thời gian nào hoàn cảnh nào cũng vẫn lo việc tu hành. Xin Tông và anh chị em đồng đạo gần xa rán cố gắng tu hành cho được viên mãn.
Tông ơi! đạo đức rán lo,
Lo cho mình tốt, lo cho người lành.
Lành tâm, lành cái thân sanh,
Ấy là bổn phận tu hành Tông ơi!
Vắn tắt có mấy hàng, tôi xin chúc cho Tông và anh chị em trong đạo ở quê nhà đều được đoàn kết nhứt trí và đạo lý nhứt tâm.
THANH SĨ
Lá thư số 107: Tokyo, ngày 10-8-1966
Lá thư số 107: Tokyo, ngày 10-8-1966
Tokyo, ngày 10-8-1966,
Thưa Má,
Con đã đi Hiroshima tuần lễ mới về tới. Hiroshima cách xa Tokyo độ 895 cây số. Hồi 8 giờ 15 phút sáng ngày 6 tháng 8 năm 1945 Hiroshima bị bom nguyên tử gần ba trăm ngàn người chết. Hằng năm đến ngày nầy, ở đây có làm lễ kỷ niệm rất to. Câu chuyện đã hơn 20 năm rồi, nhưng cảm thấy như mới hôm nào đây, vì những tàn tích do bom nguyên tử còn một vài chỗ vẫn để nguyên vẹn, trông thấy có thể tưởng tượng được sức tàn phá khổng lồ kinh khủng của nó hồi đó như thế nào!
Con đã đi Hiroshima tuần lễ mới về tới. Hiroshima cách xa Tokyo độ 895 cây số. Hồi 8 giờ 15 phút sáng ngày 6 tháng 8 năm 1945 Hiroshima bị bom nguyên tử gần ba trăm ngàn người chết. Hằng năm đến ngày nầy, ở đây có làm lễ kỷ niệm rất to. Câu chuyện đã hơn 20 năm rồi, nhưng cảm thấy như mới hôm nào đây, vì những tàn tích do bom nguyên tử còn một vài chỗ vẫn để nguyên vẹn, trông thấy có thể tưởng tượng được sức tàn phá khổng lồ kinh khủng của nó hồi đó như thế nào!
Sức nóng của bom nguyên tử làm chảy hết những vách đá, ngói gạch đóng thành cục trong vùng ấy. Mà hiện bây giờ người ta còn để lại nhà kỷ niệm tàn tích nguyên tử. Đồng thời, còn đầy những hình ảnh của những nạn nhân bị cháy vì bom nguyên tử trông thấy rất thê thảm vô cùng.
Trên thế giới lần đầu tiên hai trái bom nguyên tử đã ném ra ở Hiroshima và nagasaki của đất Nhựt. Nhưng đó là bom nguyên tử của 21 năm về trước, còn thứ bom khinh khí (hạt nhân) bây giờ lại càng mạnh gấp một ngàn năm trăm lần hơn thì đủ biết sức tàn phá tai hại của nó đến ngần nào.
Có thể nói trên quả đất nầy nếu bị ném ra một số ít thôi cũng đủ làm tiêu diệt loài người. Đầu óc con người hiện đại khéo chế tạo ra những thứ giết người quá khổng lồ và máy móc thật là ghê gớm kinh khủng. Đây âu cũng là do các cộng nghiệp của chúng sanh mà ra.
Người đời nay luôn luôn sống trong nguy hiểm dễ chết hơn dễ sống. Rất mong người nào cũng trở nên hiền lành và đều hiểu biết thương người như nhau, không ai gây hại cho ai, mà là ai cũng sẵn sàng tha thứ giúp đỡ và xây dựng hòa bình hạnh phúc chung. Được như thế mới thật là người văn minh trí thức.
Thưa Má, Má và anh chị em đồng đạo ở nhà vẫn được mạnh chớ? Má nhớ thường xuyên khuyên nhắc anh chị em rán lo đoàn kết trong công việc tu hành đạo nghĩa.
Tu cho kiến hội Liên Huê,
Tu cho phát được Bồ Đề trong tâm.
Càng tu càng phước không lầm,
Anh em rán giữ vẹn mầm mống tu.
Đạo mầu chớ để cho lu,
Tu hành chớ để cho mù quáng tâm.
Ở đâu cũng niệm Phật thầm,
Làm chi cũng nhớ giữ cầm giới răn.
Tu cho giác, tu cho thăng,
Tu khai hạnh phúc, tu ngăn khổ sầu.
Tu cho Hòa Hảo năm châu,
Nhơn sanh no ấm hoàn cầu vui tươi.
Sự tu là như vậy. Má nên phương tiện khuyến khích anh chị em đồng đạo rán cùng nhau lo tu. Tu với ý chí đại đồng. Tu một cách tích cực. Nghĩa là tu cho hòa bình hạnh phúc và giải thoát nhân gian. Người nầy tu, khuyên người khác tu và cùng nhau tất cả đều tu. Tu cho nước thạnh tu cho dân an và tu cho lòng người trở nên từ bi giác ngộ. Anh chị em lớn nhỏ ở quê nhà đừng bao giờ quên sự tu, rán tu và tu chơn chánh.
Vắn tắt có mấy lời, con xin cầu nguyện ơn trên Thầy Tổ gia hộ cho Má được thân cường thể tráng và đạo hạnh viên minh. Và xin Má trao lời con kính thăm tất cả anh chị em đồng đạo gần xa.
Con của Má
Lá thư số 108: Tokyo, ngày 16-8-1966
Lá thư số 108: Tokyo, ngày 16-8-1966
Tokyo, ngày 16-8-1966,
Sĩ Minh thân mến,
Trước hết tôi xin cám ơn Sĩ Minh đã viết thơ thăm tôi. Hiện thời tôi vẫn được mạnh khỏe không có sự gì thay đổi đáng lo. Xin Sĩ Minh và anh chị em ở quê nhà nên an lòng. Sau đây thể theo lời của sĩ Minh, tôi xin có một vài ý kiến như vầy:
Trước hết tôi xin cám ơn Sĩ Minh đã viết thơ thăm tôi. Hiện thời tôi vẫn được mạnh khỏe không có sự gì thay đổi đáng lo. Xin Sĩ Minh và anh chị em ở quê nhà nên an lòng. Sau đây thể theo lời của sĩ Minh, tôi xin có một vài ý kiến như vầy:
Có nước phải yêu nước,
Yêu nước bổn phận dân.
Cứu nước tùy tài sức,
Đời hay đạo điều cần.
---
Cần sức đạo sức đời,
Cần sức cả muôn người.
Tất cả đồng góp sức,
Nâng đỡ nước nhà trôi.
---
Làm cho đất nước phục hồi,
Ấy là nghĩa vụ của người công dân.
Còn muốn được thấy Phật điều kiện trước hết phải là:
Hết vô minh,
Hết vọng tưởng,
A Di Đà nhứt tâm,
Từ Bi Hỷ Xả vô lượng.
Đêm ôm tánh Phật an nhiên,
Ngày lấy tâm Phật khởi xướng.
Làm như Phật làm,
Tưởng như Phật tưởng.
Tưởng làm như Phật một đường,
Phật với mình không khác hướng.
Phải tự thấy bổn tâm,
Mới thấy Phật diệu tướng.
Tâm mình không thấy ra,
Phật luống công tưởng tượng.
Khá lấy đó mà tu hành,
Khá lấy đó mà niệm tưởng.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Sĩ Minh và tất cả anh chị em ở quê nhà đều được đạo hạnh viên quang.
THANH SĨ
Lá thư số 109: Tokyo, ngày 19-8-1966
Lá thư số 109: Tokyo, ngày 19-8-1966
Tokyo, ngày 19-8-1966,
Hoài Ân thân mến,
Thơ Ân để ngày 13-8-66 tôi đã nhận được. Được biết Ân và anh chị em ở quê nhà vẫn được mạnh lành và những đọan 'Tình Đạo Phật" Ân cũng đã nhận hết tôi rất mừng. Đọan cuối, tôi cũng đã gởi về rồi. Khi nhận Ân và anh chị em nhớ tùy tiện in ra và tìm cách truyền bá thật rộng trong các giới, để khích lệ và tăng trưởng tinh thần Phật Pháp trong nhân gian.
Thơ Ân để ngày 13-8-66 tôi đã nhận được. Được biết Ân và anh chị em ở quê nhà vẫn được mạnh lành và những đọan 'Tình Đạo Phật" Ân cũng đã nhận hết tôi rất mừng. Đọan cuối, tôi cũng đã gởi về rồi. Khi nhận Ân và anh chị em nhớ tùy tiện in ra và tìm cách truyền bá thật rộng trong các giới, để khích lệ và tăng trưởng tinh thần Phật Pháp trong nhân gian.
Cứ nói Phật Pháp, cứ làm theo Phật Pháp, và luôn luôn đề cao Phật pháp, Phật pháp tích cực và chân lý, Phật Pháp trong sự thực hiện phúc lợi và hòa ái giữa nhân loại. Phật pháp cả lý tưởng thực tế. Đem Phật pháp tạo vui, giải khổ cho người đời. đem Phật Pháp mở trí sáng, mở tâm lành và mở đời sống tốt đẹp cho nhân loại. Phật Pháp là như thế. Phật pháp tuyệt đối không mê ngủ, không tưởng tượng suông. Ân và anh chị em đồng đạo ở quê nhà hãy cùng nhau đồng tình, đồng tiến công việc Phật pháp cho được viên mãn.
Phật pháp tạo vui cho thế giới,
Phật pháp cứu khổ cho nhân loại,
Phật pháp giải thoát cho chúng sanh,
Phật pháp thanh bình cho vạn đại.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Ân và anh chị em đồng đạo ở quê và đều được luôn luôn mạnh lành và tu hành mau sáng tỏ.
THANH SĨ
Lá thư số 110: Tokyo, ngày 21-8-1966
Lá thư số 110: Tokyo, ngày 21-8-1966
Tokyo, ngày 21-8-1966,
LÒNG VỚI LÒNG
Chưa đến lúc mặt trông thấy mặt,
Lòng với lòng cho gặp gỡ nhau.
Người Quê Nhà dạ chẳng lảng xao,
Kẻ Xứ Lạ lòng đâu thay đổi.
Thương nhau rán tu hành là cội,
Nhớ nhau lo đạo ngỡi là nguồn.
Tâm hồn tu gần gũi nhau luôn,
Tinh thần đạo dựa nương nhau mãi.
Anh bác ái giúp em bác ái,
Em hiền hòa anh phải hiền hòa.
Cùng một Thầy như thể một cha,
Người đồng đạo như là ruột thịt.
Nên thuận thảo chớ nên thù nghịch,
Vui cùng chia khổ cực cùng lo.
Sống giúp nhau được sống ấm no,
Tu dìu dắt tu cho sáng suốt.
Nên đoàn kết nhau trong mọi cuộc,
Nên đỡ nâng nhau bước đường tu.
Đừng làm cho mối đạo mờ lu,
Cũng chớ để giữa nhau rời rạc.
Đồng niệm Phật đồng về Cực Lạc,
Đồng tu đồng giải thoát trần gian.
Cùng nhau lên chín phẩm Sen Vàng.
Cho đâu cũng đều tan mê khổ.
THANH SĨ
P.B.: Trưa 20-8-66 đã nhận được 400 bánh tráng rồi. Số bánh nầy đỡ cho tôi nhiều trong lúc nầy. Tôi rất cám ơn Ân và tất cả anh chị em đồng đạo đã có nhiệt tâm với tôi về vấn đề ấy. Tôi xin chúc cho Ân và tất cả anh chị em lớn nhỏ ở quê nhà đều được vạn sự an lành.
Lá thư số 111: Tokyo, ngày 23-8-1966
Lá thư số 111: Tokyo, ngày 23-8-1966
Tokyo, ngày 23-8-1966,
Trường, Yến thân mến,
Tát cạn sông mê là việc khó.
Lấp bằng biển khổ dễ gì đâu.
Tuy nhiên khó dễ không do cảnh,
Do ở Tâm người giác cạn sâu
---
Cảnh do Tâm mà biến,
Tâm theo cảnh mà sầu.
Tâm cảnh đều không cả,
Biến sầu chẳng do đâu.
---
Thiệt chơn giác ngộ Tâm và cảnh,
Phàm Thánh cách nhau một ngoái đầu.
---
Tưởng Như Lai ở xa đâu.
Không dè sò có hột châu trong mình.
Tát cạn sông mê là việc khó.
Lấp bằng biển khổ dễ gì đâu.
Tuy nhiên khó dễ không do cảnh,
Do ở Tâm người giác cạn sâu
---
Cảnh do Tâm mà biến,
Tâm theo cảnh mà sầu.
Tâm cảnh đều không cả,
Biến sầu chẳng do đâu.
---
Thiệt chơn giác ngộ Tâm và cảnh,
Phàm Thánh cách nhau một ngoái đầu.
---
Tưởng Như Lai ở xa đâu.
Không dè sò có hột châu trong mình.
Vắn tắt có mấy hàng, tôi xin chúc cho Trường, Yến và tất cả anh chị em ở quê nhà đều được luôn luôn mạnh lành và tu hành chóng tỏ ngộ.
THANH SĨ
Lá thư số 112: Tokyo, ngày 31-8-1966
Lá thư số 112: Tokyo, ngày 31-8-1966
Tokyo, ngày 31-8-1966,
Thưa Má,
Con đã đi viếng non bốn hôm vừa mới về. Đấy là những ngôi chùa con đã đi viếng. Chùa nào cũng vĩ đại và rất nghiêm trang. Những ngôi chùa nầy toàn là ở trên núi cao, đã xưa gần ngàn năm mà vẫn còn tốt đẹp như mới cất. Bực thạch lên tới sân chùa tất cả 280 nấc, ngó rớt nón. Châu vi chùa rất rộng và chung quanh chùa đầy những cổ thụ rất cao và rất to, mấy người ôm mới giáp. Cảnh chùa thật là đẹp và có vẻ phi phàm lắm.
Chùa nào cũng đẹp cũng thiêng,
Phật trong am tự đều hiền như nhau.
Thấy đây nước mắt tuôn trào,
Hiền thiêng ấy mấy ai nào lưu tâm.
Chùa nào cũng lắm người thăm,
Nhưng hiền thiêng ấy biết tầm ít ai.
Chỉ xem phong cảnh bên ngoài,
Ngoài trong xem hết đời nay mấy người.
Chùa ở đâu cũng đầy người đến viếng, nhưng cái thiêng của chùa, cái hiền của Phật rất ít người quan tâm. Nếu người ta có quan tâm thì đa số chỉ cầu cho được lợi lộc, được khỏi tai nạn ốm đau, chớ ít người cầu cho được ngộ đạo. Người ta chưa chịu nhận cái giá trị quí báu trên hết của sự ngộ đạo. Thế cho nên, hầu hết người ta đến chùa lễ Phật chỉ cầu khẩn những sự tạm giả đâu đâu. Thật là đáng tiếc cho cái tâm thành ấy.
Con đã đi viếng non bốn hôm vừa mới về. Đấy là những ngôi chùa con đã đi viếng. Chùa nào cũng vĩ đại và rất nghiêm trang. Những ngôi chùa nầy toàn là ở trên núi cao, đã xưa gần ngàn năm mà vẫn còn tốt đẹp như mới cất. Bực thạch lên tới sân chùa tất cả 280 nấc, ngó rớt nón. Châu vi chùa rất rộng và chung quanh chùa đầy những cổ thụ rất cao và rất to, mấy người ôm mới giáp. Cảnh chùa thật là đẹp và có vẻ phi phàm lắm.
Chùa nào cũng đẹp cũng thiêng,
Phật trong am tự đều hiền như nhau.
Thấy đây nước mắt tuôn trào,
Hiền thiêng ấy mấy ai nào lưu tâm.
Chùa nào cũng lắm người thăm,
Nhưng hiền thiêng ấy biết tầm ít ai.
Chỉ xem phong cảnh bên ngoài,
Ngoài trong xem hết đời nay mấy người.
Chùa ở đâu cũng đầy người đến viếng, nhưng cái thiêng của chùa, cái hiền của Phật rất ít người quan tâm. Nếu người ta có quan tâm thì đa số chỉ cầu cho được lợi lộc, được khỏi tai nạn ốm đau, chớ ít người cầu cho được ngộ đạo. Người ta chưa chịu nhận cái giá trị quí báu trên hết của sự ngộ đạo. Thế cho nên, hầu hết người ta đến chùa lễ Phật chỉ cầu khẩn những sự tạm giả đâu đâu. Thật là đáng tiếc cho cái tâm thành ấy.
Cầu đạo không cầu lợi,
Khổ thân chẳng thêm sanh.
Họa đời không có phát,
Sống trong cảnh sống lành.
Thác trong đường thác giác,
Không tội người lỗi mình.
Ấy là sóng siêu thoát,
Cũng là sống cao thanh.
Sao người ta lạnh nhạt,
Tủi chùa thiêng Phật lành.
Chùa xưa thiêng, chùa nay vẫn thiêng, Phật xưa hiền, Phật nay cũng hiền. Nhưng cái hiền, cái thiêng ấy thấy được hoặc noi theo hay không đều do lòng người ta mà ra cả. Nếu người ta có lòng với chùa thì thấy chùa thiêng, có lòng với Phật thì như Phật hiền. Nhược bằng, lòng với chùa cũng không, lòng với Phật cũng không thì cái hiền cái thiêng ấy cũng sẽ vì đó mà không tất cả.
Tâm là chủ lấy tâm làm gốc,
Tâm mất rồi sống thác vô duyên.
Do tâm cảnh Phật được thiềng.
Cũng do tâm khiến đọa miền trần gian.
Ngôn hành khá lấy tâm suy nghĩ,
Đừng nói làm theo ý khinh thường.
Tử sanh vui khổ mọi đường,
Nguyên nhân chánh tại mối dường của tâm.
Sự thật là như vậy, chính đó là chơn lý. Cho nên trong khi khởi tâm cầu nguyện những điều gì, người ta nên hướng tâm vào con đường chánh của sự sống và của sự thác là sáng suốt và tốt lành hơn hết. Con nghĩ như thế.
Vắn tắt có mấy lời con xin cầu chúc cho Má và tất cả anh chị em đồng đạo gần xa nơi quê nhà đều được vạn sự kiết tường.
Con của Má
Lá thư số 113: Tokyo, ngày 8-9-1966
Lá thư số 113: Tokyo, ngày 8-9-1966
Tokyo, ngày 8-9-1966
Hoài Ân thân mến,
Độ nầy Ân và anh chị em đồng đạo ở quê nhà có được mạnh khỏe không? Ở bên nầy tôi vẫn được như thường không có sự gì đáng lo. Xin Ân và anh chị em đồng đạo nên an lòng. Mùa hè nầy có thể nói là tôi đã đi đó đây thăm viếng những danh sơn thắng cảnh của Nhựt rất nhiều hơn và bận việc nhiều hơn những năm qua. Sắp tựu trường sẽ đi dạy thì có lẽ còn bận hơn nữa. Tuy nhiên, bận trong công việc hữu ích cho thiên hạ càng bận càng tốt.
Độ nầy Ân và anh chị em đồng đạo ở quê nhà có được mạnh khỏe không? Ở bên nầy tôi vẫn được như thường không có sự gì đáng lo. Xin Ân và anh chị em đồng đạo nên an lòng. Mùa hè nầy có thể nói là tôi đã đi đó đây thăm viếng những danh sơn thắng cảnh của Nhựt rất nhiều hơn và bận việc nhiều hơn những năm qua. Sắp tựu trường sẽ đi dạy thì có lẽ còn bận hơn nữa. Tuy nhiên, bận trong công việc hữu ích cho thiên hạ càng bận càng tốt.
Ở quê nhà anh chị em rán bình tĩnh sáng suốt và cố gắng trong mọi vấn đề tu hành đạo nghĩa. Nên xét mình, xét người để đặt việc làm cho có ích lợi chung. Nên chung sức nhau xây dựng cuộc đời an vui lành mạnh và sáng suốt. Đồng thời rán tránh cho nhau những hậu quả đau sầu tội lỗi.
Tóm tắt là rán tu cho thành cuộc sống và tu cho siêu kiếp thác giữa nhau. Nên để lòng mấy câu sau đây:
Sống trong cảnh sống vui lành,
Thác trong kiếp thác siêu sanh Phật Đài.
Sống không để khổ cho ai,
Thác không để tội đọa đày về sau.
Vắn tắt có mấy dòng, tôi xin chúc cho Ân và anh chị em ở quê nhà đều được vạn an.
THANH SĨ
Lá thư số 114: Tokyo, ngày 18-9-1966
Lá thư số 114: Tokyo, ngày 18-9-1966
Tokyo, ngày 18-9-1966,
Gởi Nguyễn Văn Mang
Nguyễn Văn Mang thân mến,
Tôi đã được thơ của Mang. Rất cám ơn Mang. Ý của Mang đã nói trong thơ, Tôi đã cảm biết rất nhiều. Đối với nội tình trong đạo từ lâu không riêng Mang buồn mà những anh chị em có thiện chí và nghĩ xa đến ngày mai có lẽ cũng buồn như Mang. Chính tôi cũng rất lấy làm tiếc. Nhưng xét rằng bàn tay có ngón dài ngón ngắn, không thể bằng nhau hết được. Song, có như thế mới thành bàn tay. Bàn tay mỗi ngón riêng nhau, nhưng vẫn cùng nguồn gốc, không thể rời nhau. Chỉ muốn mỗi ngón cần phải biết hợp nhau lại để sử dụng cho dễ dàng và cũng để cho có sức mạnh.
Nguyễn Văn Mang thân mến,
Tôi đã được thơ của Mang. Rất cám ơn Mang. Ý của Mang đã nói trong thơ, Tôi đã cảm biết rất nhiều. Đối với nội tình trong đạo từ lâu không riêng Mang buồn mà những anh chị em có thiện chí và nghĩ xa đến ngày mai có lẽ cũng buồn như Mang. Chính tôi cũng rất lấy làm tiếc. Nhưng xét rằng bàn tay có ngón dài ngón ngắn, không thể bằng nhau hết được. Song, có như thế mới thành bàn tay. Bàn tay mỗi ngón riêng nhau, nhưng vẫn cùng nguồn gốc, không thể rời nhau. Chỉ muốn mỗi ngón cần phải biết hợp nhau lại để sử dụng cho dễ dàng và cũng để cho có sức mạnh.
Mang nên nghĩ như thế. Chớ nên bi quan. Nếu nói về đạo lý thì đó cũng là do nghiệp riêng hoặc nghiệp chung mà ra đấy. Nghiệp nào thì cuốn vào đường nấy. Đạo tâm yếu dễ bị nghiệp lôi, bất luận hạng người nào. Còn sự tu ở thời đại nầy, Mang nên tự phát tâm lấy cho thích hợp với khả năng và hoàn cảnh của mình, Nhưng không nên căn cứ theo lời của Đức Thầy là: "Học Phật Tu Nhân", nghĩa là:
"Lấy tâm Phật đạo hành nhân đạo,
Nhân đạo hoàn thành Phật đạo siêu".
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Mang và tất cả anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được luôn luôn mạnh lành và tu hành mau tỏ ngộ.
THANH SĨ
Lá thư số 115: Tokyo, ngày 2-9-1966
Lá thư số 115: Tokyo, ngày 2-9-1966
Tokyo, ngày 2-9-1966,
Lâm Thị Nhủ thân mến,
Rất cám ơn Nhủ đã có lòng viết thơ thăm tôi. Những lời của Nhủ đã hỏi trong thơ, tôi có một vài ý kiến như sau đây:
Rất cám ơn Nhủ đã có lòng viết thơ thăm tôi. Những lời của Nhủ đã hỏi trong thơ, tôi có một vài ý kiến như sau đây:
Mê cũng tự mình mê,
Tỉnh cũng tự mình tĩnh.
Mê tỉnh vốn tại tâm,
Tỉnh Mê không tại cảnh.
Tu tâm chớ tu cảnh,
Cảnh phụ tâm là chánh.
Tâm được làm chủ rồi,
Cảnh không cần phải lánh.
Toàn cảnh đời là phàm,
Chỉ có tâm là Thánh.
Tu phải chủ nơi tâm,
Hành chớ chấp nơi cảnh.
Tâm đâu cũng chơn tu,
Cảnh nào cũng cứu cánh.
Tu mình tu chúng sanh,
Độ thân độ bá tánh.
Từ bi phải rộng sâu,
Chí nguyện phải vững mạnh.
Ở đâu cũng như đâu,
Tự do Bồ Tát hạnh.
Tôi xin chúc cho Nhủ, quý quyến và anh chị em ở quê nhà đều được vạn sự an lành.
Thanh Sĩ
P.B.: Nếu mượn cảnh để tu, sự tu ấy dễ bị trả lại cho cảnh. Cảnh ấy mất, sự tu ấy cũng sẽ mất theo. Hãy tự phát tâm Bồ Đề. Và nhớ lấy tâm Phật Đạo để hành Nhân Đạo. Học với mục đích ban vui cứu khổ cho người đó cũng là từ bi rất tốt.
THANH SĨ
Lá thư số 116: Tokyo, ngày 20-9-1966
Lá thư số 116: Tokyo, ngày 20-9-1966
Tokyo, ngày 20-9-1966
Trường, Yến thân mến,
Có mây trời vẫn là Trời,
Mây tan Trời chẳng có thời nào tan.
Tìm Trời qua đám mây giăng,
Đừng tìm Trời ở giữa làn mây che.
Xin chúc cho Trường, Yến luôn luôn khỏe mạnh và đạo hạnh viên thông và xin báo cho Trường, Yến biết tôi đã đổi địa chỉ mới:
Mr. KIYOSHI c/o Sanrakuso 30-19/4 Chome
Higashinakano Nakanotu, Tokyo, Japan.
THANH SĨ
Lá thư số 117: Tokyo, ngày 27-9-1966
Lá thư số 117: Tokyo, ngày 27-9-1966
Tokyo, ngày 27-9-1966,
Thưa Má,
Con đã đi miền núi bốn hôm mới về tới. Vội vả gởi thơ về cho Má. Ở Nhựt mấy ngày qua rồi đã bị mưa bão lớn. Trận bão thứ 26. Kỳ bão nầy đã gây thiệt hại, hơn ba trăm người chết, gần một ngàn người bị thương và hằng vạn căn nhà bị trôi sụp. Hầu hết các thứ xe điện, xe đò ở trong thành phố Đông Kinh và ở những tỉnh bị mưa bão trong những ngày giờ ấy đều bị ngừng cả. Gió thật mạnh, không biết bao nhiêu cây to hàng trăm năm đã bị gãy đổ làn khan. Những nhà ở gần triền núi bị đất núi sụp chôn sống rất nhiều người. Mùa màng rẫy bái bị hư hại với con số quá sức tưởng tượng. Ở Nhựt thường có mưa bão, những trận mưa bão nầy thật là dữ dội. Sức phá hoại của nó cũng chẳng kém gì bom đạn.
Con đã đi miền núi bốn hôm mới về tới. Vội vả gởi thơ về cho Má. Ở Nhựt mấy ngày qua rồi đã bị mưa bão lớn. Trận bão thứ 26. Kỳ bão nầy đã gây thiệt hại, hơn ba trăm người chết, gần một ngàn người bị thương và hằng vạn căn nhà bị trôi sụp. Hầu hết các thứ xe điện, xe đò ở trong thành phố Đông Kinh và ở những tỉnh bị mưa bão trong những ngày giờ ấy đều bị ngừng cả. Gió thật mạnh, không biết bao nhiêu cây to hàng trăm năm đã bị gãy đổ làn khan. Những nhà ở gần triền núi bị đất núi sụp chôn sống rất nhiều người. Mùa màng rẫy bái bị hư hại với con số quá sức tưởng tượng. Ở Nhựt thường có mưa bão, những trận mưa bão nầy thật là dữ dội. Sức phá hoại của nó cũng chẳng kém gì bom đạn.
Ở Nhựt ngoài nạn mưa bão, còn có nạn giao thông (tức là nạn xe cộ). Trong năm nay những người bị chết vì nạn xe cộ mới tháng 9 mà đã gần mười ngàn người rồi. Còn số người bị thương có hàng mấy chục vạn. Thật là không thua gì chết giặc giã! Lý do xe cộ càng ngày càng đông. Rêng dân cư trong thành phố Tokyo đã lên tới 11 triệu người rồi, Ban ngày những người ở ngoại ô vào làm việc, tính ra tới 13, 14 triệu người. Thế cho nên, đi đâu cũng thấy đầy người. Người đông như rừng!
Leo lên xe mạnh ai nấy chen, mạnh ai nấy dành chỗ ngồi. Xe đò, xe điện đi dưới mặt đất cũng thế. Độ 5 phút một chuyến, một chuyến kéo dài mười toa, mà toa nào cũng đầy. Có thể nói thành phố Đông Kinh giống như một tổ mối. Thưa Má, nghe tin mùa nước năm nay có thể lên cao lắm. Má và anh chị em nơi quê nhà rán cẩn thận và chuẩn bị trước những vật liệu cần thiết cho sự an toàn sanh hoạt thường ngày. Giữa anh chị em đồng đạo rán đoàn kết trông nom giúp đỡ lẫn nhau khi hữu sự.
Vắn tắt có mấy lời, con xin cầu chúc cho Má được dồi dào sức khỏe. Xin Má trao lời con kính thăm tất cả anh chị em đồng đạo xa gần.
Con của Má
Lá thư số 118: Tokyo, ngày 29-9-1966
Lá thư số 118: Tokyo, ngày 29-9-1966
Tokyo, ngày 29-9-1966,
Hoài Ân thân mến,
Hơi vắng thơ của Ân, nhưng độ nầy Ân và anh chị em đồng đạo ở quê nhà vẫn được mạnh lành hay có sự gì thay đổi không? Bên nầy tôi vẫn như thường, chẳng có điều gì đáng lo. Xin Ân và anh chị em nên an lòng. Vừa mới hết nghỉ hè, tôi đã phải đi dạy học trở lại rồi.
Hơi vắng thơ của Ân, nhưng độ nầy Ân và anh chị em đồng đạo ở quê nhà vẫn được mạnh lành hay có sự gì thay đổi không? Bên nầy tôi vẫn như thường, chẳng có điều gì đáng lo. Xin Ân và anh chị em nên an lòng. Vừa mới hết nghỉ hè, tôi đã phải đi dạy học trở lại rồi.
Đường đạo đức giữa lúc nầy có được mở rộng hơn và anh chị em có được đoàn kết và tiến mạnh hơn không? Quyển “Tình Đạo Phật” sắp in ra chưa? nên phương tiện phổ biến đều và rộng giảng kinh để nâng cao và làm sáng tinh thần đạo đức giữa anh chị em khắp chốn. Rán khéo chân mạnh bước trên đường phước huệ và giải thoát cho mình và cho người. Khá tu tích cực và chơn lý.
Khó tiến rán tiến chớ lùi,
Tiến đường giải thoát cho người cho ta.
Vắn tắt có mấy hàng, tôi xin chúc cho Ân và anh chị em ở quê nhà đều được mạnh lành và tu hành sáng suốt.
THANH SĨ
Lá thư số 119: Tokyo, ngày 29-9-1966
Lá thư số 119: Tokyo, ngày 29-9-1966
Ông Huầng thân mến,
Rất cám ơn ông viết thơ thăm tôi, được tin ông và anh chị em đồng đạo nơi quê nhà vẫn bình yên mạnh lành, tôi hết sức vui mừng. Từ ngày tách chơn ra hải ngoại tới nay kể cũng gần mười năm rồi, nhưng trong lòng tôi vẫn như lúc còn ở nhà, không hề quên ông và tất cả anh chị em đồng đạo. Tôi hằng ngày mơ ước thời cơ sớm xuôi thuận như lòng để tôi về gặp ông và tất cả anh chị em đồng đạo để cùng nhau tay bắt mặt kề, và dìu dắt lẫn nhau tiến mạnh trên đường đạo đức hơn bao giờ hết, cho trên chẳng hạn với Tổ Thầy, dưới được hài lòng huynh đệ.
Rất cám ơn ông viết thơ thăm tôi, được tin ông và anh chị em đồng đạo nơi quê nhà vẫn bình yên mạnh lành, tôi hết sức vui mừng. Từ ngày tách chơn ra hải ngoại tới nay kể cũng gần mười năm rồi, nhưng trong lòng tôi vẫn như lúc còn ở nhà, không hề quên ông và tất cả anh chị em đồng đạo. Tôi hằng ngày mơ ước thời cơ sớm xuôi thuận như lòng để tôi về gặp ông và tất cả anh chị em đồng đạo để cùng nhau tay bắt mặt kề, và dìu dắt lẫn nhau tiến mạnh trên đường đạo đức hơn bao giờ hết, cho trên chẳng hạn với Tổ Thầy, dưới được hài lòng huynh đệ.
Giờ phút nào còn xa cách ông và anh chị em đồng đạo là tôi cảm thấy lòng nóng như lửa đốt và đau tợ kim châm! Nhiều khi tôi muốn bay về ngay, nhưng ngó lại thời trời còn lắm điều trái ngược, nên cứ mãi chờ đợi chưa thể cất cánh. Tuy tôi ở cách xa muôn dặm trùng dương, nhưng tôi vẫn được biết rõ tình cảnh nước nhà và tình cảnh trong đạo, Tôi rất đau buồn cảnh "Gà nhà bôi mặt đá nhau" và thứ "Trống đánh xuôi kèn thổi ngược" trong đoàn thể.
Đó là cái chướng ngại lớn nhứt trên bước đường tiến triển của đoàn thể và cũng là cái tai hại to tát cho vận mạng của mối đạo Đức Thầy. Tôi rất xót ruột, nên đã thường viết thơ từ, thi phú gởi về khuyên anh chị em trong đoàn thể nên để mắt nhìn kỹ cái hiểm họa của nước nhà đang chập chờn trước mặt, mau mau cương quyết dẹp bỏ thành kiến cá nhân, dẹp bỏ quan niệm tranh giành bè phái nhỏ hẹp và dẹp bỏ tánh củng cố địa vị quyền lợi riêng tư, hãy đoàn kết nhau làm một để cùng đi một đường lối chánh nghĩa, một tư tưởng đạo đức, ngõ hầu có đủ sức mạnh bảo vệ lẫn nhau, làm cho phát triển và hoàn thành mục đích tốt đẹp cao siêu của nước nhà và đạo giáo.
Ở giai đọan nầy khác hơn bao nhiêu giai đọan trước, nếu anh chị em trong đoàn thể cứ ôm chặt thành kiến cá nhân, quan niệm bè phái và quyền lợi riêng tư, không chịu đoàn kết lẫn nhau là tự đưa mình đến con đường cùng. Anh chị em trong đoàn thể cần phải đoàn kết, cần phải thương yêu và cần phải hành động đạo đức và chánh nghĩa mới có thể cứu vãn và tồn tại vĩnh viễn được. Và có được như thế mới không phụ lòng giáo hóa của Đức Thầy và mới tỏ ra là một tín đồ trung thành của đạo Phật Giáo Hòa Hảo.
Nước nhà đứng trước cảnh tình chung,
Thời cuộc đổi thay nói chẳng cùng,
Đoàn kết mới mong qua ách biến,
Chia ly tất khó tránh tai hung.
Rắn rồng thêm khổ nên hòa giải,
Trâu ngựa càng đau khó vẫy vùng,
Yêu nước, yêu dân, yêu đạo lý,
Lo riêng hãy dẹp để lo chung.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc ông và tất cả anh chị em đồng đạo gần xa ở quê nhà đều được vạn sự bình an và tu hành sáng suốt.
Thanh Sĩ
P.B.: Nếu đa số dân chúng muốn chùa thì nên để chùa, ý dân là lòng trời không nên đi ngược ý dân, nhứt là thời kỳ dân chủ thì càng cần phải lấy ý muốn của đa số dân chúng đã quyết định đó là hợp pháp hơn hết.
THANH SĨ
Lá thư số 120 : Tokyo, ngày 4-10-1966
Lá thư số 120 : Tokyo, ngày 4-10-1966
Tokyo, ngày 4-10-1966,
Hoài Ân thân mến,
Thơ để ngày 26-9-66 tôi đã nhận được. Hôm nay Ân được bình phục hẳn chưa? Ân nên bổ dưỡng cho lúc nào cũng có đủ sức khỏe để phụng hành Phật pháp. Sức khỏe là điều kiện vô cùng quan trọng đối với công việc tu hành và cứu giúp người đời. Ân và anh chị em ở quê nhà nên thận trọng cơ thể, không nên coi thường vô lý. Tôi xin khuyên như thế.
Thơ để ngày 26-9-66 tôi đã nhận được. Hôm nay Ân được bình phục hẳn chưa? Ân nên bổ dưỡng cho lúc nào cũng có đủ sức khỏe để phụng hành Phật pháp. Sức khỏe là điều kiện vô cùng quan trọng đối với công việc tu hành và cứu giúp người đời. Ân và anh chị em ở quê nhà nên thận trọng cơ thể, không nên coi thường vô lý. Tôi xin khuyên như thế.
Đã phải đi dạy lại ở đại học từ hồi tháng 9, nhưng tôi vẫn chiết thì giờ để đi đó đây thăm viếng nhiều kỳ tích ở Nhựt mà từ trước tới nay tôi chưa có dịp đi đến. Do đó, mà lúc nào người tôi cũng có vẻ bận rộn. Tuy nhiên, tôi vẫn được khỏe mạnh, không có sự gì thay đổi đáng lo. Xin Ân và anh chị em đồng đạo ở quê nhà nên an lòng và rán cố gắng hành đạo chơn chánh.
Kế đó, nhớ tùy phương tiện xây dựng đạo đức tạo tác phước điền cho ngày càng được lớn rộng và sau cùng tôi xin khuyên:
-Chớ nên chấp trách tiếng nói và ý nghĩ nhỏ mọn của những người còn kém giác ngộ, nên nhắm vào tinh thần từ bi, công nghĩa đại đồng của chư Phật Thánh để tiến tới chánh đạo.
Ai cho sao cũng mặc tình,
Có Thầy Tổ biết, có mình người hay.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Ân và anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được luôn luôn mạnh lành và tu hành sáng suốt.
THANH SĨ
Lá thư số 121: Tokyo, ngày 11-10-1966
Lá thư số 121: Tokyo, ngày 11-10-1966
Tokyo, ngày 11-10-1966,
Gởi Trường, Yến
Trường, Yến thân mến,
Trường, Yến thân mến,
Thơ ngày 1-10-1966 tôi đã nhận được. Xin cám ơn Trường, Yến. Hiện thời tôi vẫn được khỏe mạnh, không có sự gì đáng lo, xin Trường, Yến nên an tâm. Ở Nhựt đã bắt đầu lạnh rồi, nhưng chưa lạnh lắm. Xác chất của tôi không mấy hạp với mùa lạnh. Tuy nhiên tôi vẫn chịu được. Chỉ có điều là khi đi ra ngoài phải mặc nhiều đồ ngự hàn và ở trong nhà phải có sưởi. Vì thế mà mỗi lần sắp đến mùa đông là phải dự bị trước. Kể ra cũng hơi phiền phức và mất công đấy.
Trường, Yến dù phải lo sanh nhai vất vả, nhưng chớ nên cho phút nào ngưng máy chèo đạo đức nhé! Đừng cho đời sống hạn chế tâm linh của mình, phải luôn luôn đặt mình sống trong cái sống có tự chủ có mục đích cao siêu, Sống cho mình và cho người trên đường giải thoát mọi nỗi thống khổ hiện hữu và tương lai nhé! Tôi không ngớt hy vọng không riêng Trường, Yến mà cả đến ai ai cũng đều có cái sống như vậy.
Sống hạnh phúc, sống thoát phàm,
Sống thời nào cũng vẫn làm chủ tâm.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Trường, Yến và tất cả anh chị em ở quê nhà đều được vạn sự an lành.
THANH SĨ
Lá thư số 122: Tokyo, ngày19-12-1966
Lá thư số 122: Tokyo, ngày19-12-1966
Tokyo, ngày19-12-1966,
Trường, Yến thân mến,
Thơ của Trường, Yến ở bên nầy tôi đều có nhận được hết. Rất cám ơn Trường, Yến. Ở bên nầy tôi vẫn được mạnh khỏe, chẳng có sự gì đáng lo, xin Trường, Yến và anh chị em ở quê nhà nên yên tâm.
Trường, Yến rán chủ tâm hành đạo cho được mở tỏ ánh quang minh vi diệu để có đủ phương tiện thể hiện đường lành và hoàn thành đạo cả. Đó là điều tôi thường ước mong.
Thơ của Trường, Yến ở bên nầy tôi đều có nhận được hết. Rất cám ơn Trường, Yến. Ở bên nầy tôi vẫn được mạnh khỏe, chẳng có sự gì đáng lo, xin Trường, Yến và anh chị em ở quê nhà nên yên tâm.
Trường, Yến rán chủ tâm hành đạo cho được mở tỏ ánh quang minh vi diệu để có đủ phương tiện thể hiện đường lành và hoàn thành đạo cả. Đó là điều tôi thường ước mong.
Trường rán tu tâm
Yến rán luyện tánh
Tâm tánh bình minh
Giác đạo giác hạnh
Trường tu cho được tâm bình.
Yến luyện cho được tánh minh tánh lành.
Cùng nhau nhứt quyết tu hành.
Tây Phương Tịnh Độ sẵn dành Tòa Sen.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Trường, Yến, quý quyến và tất cả anh chị em ở quê nhà đều được đạo thể khương an.
THANH SĨ
Lá thư số 123: Tokyo, ngày 2-12-1966
Lá thư số 123: Tokyo, ngày 2-12-1966
Tokyo, ngày 2-12-1966,
Tàng thân mến,
Thơ đề ngày 25-11-66 tôi đã nhận được, xin cám ơn Tàng. Được biết Tàng và anh chị em đồng đạo ở quê nhà vẫn được an lành tôi rất yên tâm một phần nào. Tôi ở bên nầy cũng được mạnh khỏe, mặc dù khí hậu đã trở nên lạnh dưới không độ mỗi buổi sáng. Xin Tàng và anh chị em ở quê nhà nên vững lòng.
Thơ đề ngày 25-11-66 tôi đã nhận được, xin cám ơn Tàng. Được biết Tàng và anh chị em đồng đạo ở quê nhà vẫn được an lành tôi rất yên tâm một phần nào. Tôi ở bên nầy cũng được mạnh khỏe, mặc dù khí hậu đã trở nên lạnh dưới không độ mỗi buổi sáng. Xin Tàng và anh chị em ở quê nhà nên vững lòng.
Còn việc đạo, Tàng và anh chị em đồng đạo nên đồng tâm đồng tiến trên chánh đạo từ bi trí huệ. Nhân từ bi thì quả từ bi, nhân trí huệ thì quả trí huệ. Tu nhân nào thì quả nấy, không sai chạy. Nên tin chắc như vậy và rán tu như vậy đừng ngược lại (nghĩa là đừng tu lối gian ác mê si).
Trong hoàn cảnh nào cũng rán tự tỉnh và phản tỉnh. Nên phát tâm lành. Khởi ý tốt cho mọi hành động. Rán nhẫn nại và rán phát triển tất cả việc nhân thiện dù rất khó. Và sau hết, xin (cùng nhau) hành đạo, minh đạo và thành đạo. Nên thương nhau không nên ghét nhau, nên giúp nhau không nên hại nhau. Thế mới là tu, thế mới là đồng đạo.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Tàng và tất cả anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được luôn luôn mạnh lành sáng suốt.
lá thư số 124: Tokyo, ngày 5-11-1966,
Tokyo, ngày 5-11-1966,
Bảo thân mến,
Tôi rất cám ơn Bảo đã có lòng viết thơ thăm tôi. Được biết Bảo có nhiệt tâm cầu đạo tôi rất lấy làm quí mến
Tôi rất cám ơn Bảo đã có lòng viết thơ thăm tôi. Được biết Bảo có nhiệt tâm cầu đạo tôi rất lấy làm quí mến
Đạo là giải mê khai ngộ,
Đạo là đường tế độ chúng sanh.
Đạo là trọn sáng trọn lành,
Bảo ơi! Đạo muốn đắc thành, thành tâm.
Đạo được tỏ nhờ tâm thấy tánh,
Đạo mau nên do hạnh thường trau.
Đạo là siêu thoát trần lao,
Bảo ơi! Đạo chuyển kiếp vào Phật Tiên.
Đạo nếu chẳng có duyên khó gặp,
Đạo gặp rồi rán sức tiến lên.
Đạo cao ma khảo chớ quên,
Bảo ơi! Rán được đề tên Sen Vàng.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Bảo, quý quyến và anh chị em ở quê nhà được luôn luôn mạnh lành và tu hành mau tỏ ngộ.
THANH SĨ
Lá thư số 125: Tokyo, ngày 19-12-1966
Lá thư số 125: Tokyo, ngày 19-12-1966
Tokyo, ngày 19-12-1966,
Hoài Ân thân mến,
Nơi quê nhà Ân, anh chị em đồng đạo và Bà Mười vẫn được mạnh lành như thường chớ? Ở bên nầy, tôi cũng được khỏe mạnh luôn chẳng có sự gì thay đổi. Xin Ân, anh chị em cũng như Bà Mười nên an lòng. Ân và anh chị em đồng đạo rán nâng đỡ nhau lướt qua mọi chướng ngại gian khổ, để tu cho trọn lành và hành cho đạt đạo.
Nơi quê nhà Ân, anh chị em đồng đạo và Bà Mười vẫn được mạnh lành như thường chớ? Ở bên nầy, tôi cũng được khỏe mạnh luôn chẳng có sự gì thay đổi. Xin Ân, anh chị em cũng như Bà Mười nên an lòng. Ân và anh chị em đồng đạo rán nâng đỡ nhau lướt qua mọi chướng ngại gian khổ, để tu cho trọn lành và hành cho đạt đạo.
Đã tu đồng đạo rán tu thành,
Chớ ngán đường tu lắm sỏi sành,
Cảnh khổ mong ra đừng sựng bước,
Rừng mê muốn khỏi hãy đi nhanh.
Gậy thiền dắt lẫn khi bê bết,
Đèn trí soi chung khúc quẹo quanh,
Hướng Phật giúp nhau đi đến chốn,
Đã tu đồng đạo rán tu thành.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Ân và tất cả cả anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được vạn an.
THANH SĨ
Lá thư số 126: Tokyo, ngày 19-12-1966
Lá thư số 126: Tokyo, ngày 19-12-1966
Tokyo, ngày 19-12-1966,
Gởi Đoàn văn Tông
Đoàn văn Tông thân mến,
Rất cám ơn Tông đã có lòng viết thơ thăm tôi. Ở bên nầy tôi vẫn được khỏe mạnh, không có sự gì thay đổi. Xin Tông và anh chị em đồng đạo ở quê nhà nên an lòng. Theo những điều của Tông hỏi, tôi xin có ý kiến như sau đây:
Đoàn văn Tông thân mến,
Rất cám ơn Tông đã có lòng viết thơ thăm tôi. Ở bên nầy tôi vẫn được khỏe mạnh, không có sự gì thay đổi. Xin Tông và anh chị em đồng đạo ở quê nhà nên an lòng. Theo những điều của Tông hỏi, tôi xin có ý kiến như sau đây:
-Hạng tu tại gia không cấm việc vợ chồng mà chỉ cấm việc tà dâm. Có vợ chồng mà không có tâm tà dâm, vẫn không trở ngại việc đạo đức. Trái lại, không có vợ chồng mà có tâm tà dâm thì rất có hại cho việc tu hành, có hại cho nền luân lý và sẽ gây nghiệp ngu độn về sau.
Tuy nhiên, việc đạo cốt ở lòng mình tự chủ được hay không là căn bản chánh, còn việc có vợ chồng hay không là vấn đề phụ. Cho nên, có thể nói: Có những người có vợ chồng mà như là không có vợ chồng, còn có những người không có vợ chồng mà như là có vợ chồng. Lý do khác nhau ở chỗ có tâm tà dâm hay không có tà dâm. Nên lấy đó làm mực thước để vạch phương hướng cho mình trên đường đạo.
Nhớ rằng vạn sự do Tâm,
Tâm hư thì chẳng việc làm nào nên.
Sau hết, tôi xin khuyên thêm rằng: tội phước do mình, thanh trược do mình và ma Phật cũng do mình không do người khác. Cho nên mình phải tự quyết định và thi hành lấy thì cái thành quả mới vững chắc lâu bền được.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Tông và tất cả anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được đạo thể khương an.
THANH SĨ
Lá thư số 127: Tokyo...năm 1967
Lá thư số 127: Tokyo...năm 1967
Tokyo...năm 1967,
Tặng ông Nho
Thanh tâm trước được sự điều thanh,
Sĩ ước mau thành khắp thế tình,
Xứ xứ tự do hằng muốn thấy,
Người người hạnh phúc mãi trông tin.
Chúc cầu vui Tết Nam cùng Bắc,
Xuân vọng hòa xuân ăn kẻ với mình.
Quê Việt nếu đồng yêu nước Việt,
Nội tình đâu đến cảnh đao binh.
THANH SĨ
Lá thư số 128: Tokyo, Quà Xuân Đinh Mùi – 1967
Lá thư số 128: Tokyo, Quà Xuân Đinh Mùi – 1967
Tokyo, Quà Xuân Đinh Mùi – 1967
Quà Xuân
Thanh lọc bợn đời việc đáng toan,
Sĩ phu chí cả phải đeo mang,
Thân tình bốn bể, ly tình khổ,
Tặng nghĩa muôn phương, nghĩa thoát nàn.
Trường rán đạo Trường siêu tục lụy,
Yến lo hạnh Yến vượt trần gian.
Quà cho nhau chỉ tâm hồn ấy,
Xuân đặt Xuân trên cõi Niết Bàn.
THANH SĨ
Lá thư số 129: Tokyo, ngày 16-1-1967
Lá thư số 129: Tokyo, ngày 16-1-1967
Tokyo, ngày 16-1-1967,
Gởi Anh Em Giảng Viên
Anh Em Giảng Viên thân mến,
Anh Em Giảng Viên thân mến,
Hồi đầu tháng 12 năm 1966 phái đoàn Trung ương Giáo hội Phật Giáo Hòa Hảo đã sang Nhựt. Phái đoàn chẳng có người nào gọi điện thoại với tôi. Nhưng phái đoàn đã đi gặp tôn phái nào và nói ra những gì tôi đều được biết cả. Hôm ngày 1-1-67 vừa qua ông Milbusozum Hội trưởng Phật giáo Hòa Bình Nhựt Bổn có thơ cho tôi, nói về Hội nghị các tôn giáo hòa bình thế giới lần thứ 3 sẽ khai mạc vào khoảng tháng 7 năm 1967 tới đây. Bên cạnh lá thơ ông có viết mấy lời chỉ trích mấy câu nói của Phái đoàn Phật Giáo Hòa Hảo. Chính bức thơ nầy tôi còn giữ đây.
Những chuyện của Phái đoàn Phật Giáo Hòa Hảo sang đây như thế nào, tôi không muốn đề cập đến nhiều hơn phạm vi của bức thơ nầy. Tôi chỉ muốn nhắc lại một lần nữa là trong Phái đoàn không có người nào điện thoại với tôi và cũng không có gặp tôi, mà hình như sau khi về nước có người ở trong phái đoàn dám nói rằng: Tôi không có dạy ở đại học Waseda. Tại sao người ấy không sợ mang tội vọng ngữ. Đã không có sự liên lạc gì với tôi, nghĩa là không biết rõ sự thật. Thế mà dám buông lời nói càn bướng như vậy.
Đại học Waseda chiếm cả một vùng rộng mấy cây số, có gần 50 ngàn sinh viên và 1.500 giáo sư. Ví dụ có gọi số điện thoại đại biểu của trường mà không nói rõ tên họ giáo sư ở khoa bộ nào và số điện thoại riêng ở văn phòng thì rất khó biết. Có thể nói là nếu gọi ấp ờ thì không thể tìm được.
Bà Lê Thị Ẩn vừa rồi đã từ Phi Luật Tân ghé qua Đông Kinh, Bà có gọi điện thoại với tôi và có gặp tôi tại nhà con của Bà ở Tokyo, tôi có tặng Bà một bài thơ, bài thơ ấy như sau đây:
Thanh mình thanh kẻ tạo đời thanh,
Sĩ chí siêu phàm bất chí danh.
Thị hiện cứu dân trong khổ hiện,
Ẩn tình giác thế giữa mê tình.
Tái khai Nghiêu Thuấn là phương hướng,
Ngộ Hội Liên Hoa ấy lộ trình.
Đông tẩu Tây bôn chung thỉ chí,
Kinh thành Phật Quốc dạ đinh ninh.
Những người trong phái đoàn của Chánh phủ và những người trong phái đoàn Phật giáo sang đây đa số đều có gặp tôi rất thân mật. Thế mà phái đoàn Giáo hội Phật Giáo Hòa Hảo (gọi là đồng đạo) đến Nhựt mà chẳng có sự gì liên lạc với tôi cả.
Người đồng đạo đến ngoại quốc mà còn diễn cảnh lạnh lùng giữa nhau như vậy, thật là đau lòng. Người một đạo với nhau mà còn không thân thiện được, thì làm sao thân thiện được với những người khác.
THANH SĨ
P.B.: Bài thơ trên viết để trả lời anh em giảng viên ở Mỹ Hội Đông về những tin đồn của Phái đoàn Phật Giáo Hòa Hảo sau khi ở Nhựt về.
Lá thư số 130: Tokyo, ngày 17-1-1967
Lá thư số 130: Tokyo, ngày 17-1-1967
Tokyo, ngày 17-1-1967,
Gởi Nguyễn Hoàng Cầu
Nguyễn Hoàng Cầu thân mến,
Tôi đã nhận được thơ, xin cám ơn Cầu. Tôi xin chúc cho Cầu và anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được mạnh lành và trên đường tu hành mau sáng tỏ.
Kế đây tôi xin khuyên mấy lời:
Tu tâm thanh tịnh như Di Đà,
Luyện tánh từ bi như Phật Tổ.
Cảnh nào cũng không lòng nhiễm ô,
Người nào cũng tùy phương tế độ.
Lành lời, lành ý, lành thân,
Mình lành khuyến giúp vạn dân cùng lành.
Nguyễn Hoàng Cầu thân mến,
Tôi đã nhận được thơ, xin cám ơn Cầu. Tôi xin chúc cho Cầu và anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được mạnh lành và trên đường tu hành mau sáng tỏ.
Kế đây tôi xin khuyên mấy lời:
Tu tâm thanh tịnh như Di Đà,
Luyện tánh từ bi như Phật Tổ.
Cảnh nào cũng không lòng nhiễm ô,
Người nào cũng tùy phương tế độ.
Lành lời, lành ý, lành thân,
Mình lành khuyến giúp vạn dân cùng lành.
THANH SĨ
Lá thư số 131: Tokyo, ngày 11-2-1967
Lá thư số 131: Tokyo, ngày 11-2-1967
Tokyo, ngày 11-2-1967,
Trường, Yến thân mến, Bức thơ đề ngày 28-1-67 của Trường, Yến đã bị đi lạc qua Manila, hôm nay họ gởi trở lại Nhựt tôi vừa mới nhận được. Xin cám ơn Trường, Yến. Suốt mấy ngày nay ở Đông Kinh tuyết rơi liên tiếp và hiện còn đang rơi. Tất cả đường phố ở Đông Kinh đều đầy ngập những tuyết. Nóc nhà nào cũng bị tuyết phủ trắng dã cao cả mấy tấc. Cây cối cũng đều bị tuyết phủ trắng hết không còn thấy lá. Hơn mười năm rồi, ở Đông Kinh mới có đại tuyết trở lại như năm nay. Cái sân trước phòng tôi đang ở bị tuyết ngập lên chút ba tấc hơn. Từ ở ngoài tôi mới về tới trên áo còn bám đầy tuyết trắng, thấy lạnh hơn mọi khi nên tôi vừa mới đi ngâm nước nóng xong. Tuy năm nay có tuyết nhiều và lạnh nhiều, nhưng tôi vẫn được khỏe mạnh chẳng có sự gì thay đổi, xin Trường, Yến và anh chị em ở quê nhà chớ có lo ngại.
Trên con đường tu, Trường, Yến và anh chị em ở quê nhà rán phương tiện xúc tiến một cách tích cực và đại đồng. Rán tu cho mình và tu cho mọi người cũng được an vui và tỏ ngộ. Tu cho không còn mê, không còn khổ trong đời. Tu cho cả thân tâm đều được hoàn toàn tự do tự tại. Nói tóm lại là tu cho được làm chủ đường sanh tử và giải thoát mọi nỗi thống khổ mê lầm của kiếp chúng sanh. Tu đúng chơn lý và tu cho có phước huệ đại đồng. Đó là chơn tu là điều đáng kính mến của sự tu. Trường, Yên và anh chị em ở quê nhà rán nâng đỡ nhau được tiến lên một cách vững mạnh sâu xa trên đường tu. Tôi hy vọng lắm.
TU giải khổ mê kẻ với mình,
TU siêu khi tử, phước khi sinh.
TU tan phiền não, tan xiềng xích,
TU ấy chơn tu khá tiến hành.
Vắn tắt có mấy hàng, tôi xin chúc cho Trường, Yến và anh chị em ở quê nhà đều được vạn sự an lành.
THANH SĨ
Lá thư số 132: Tokyo, ngày 11-2-1967
Lá thư số 132: Tokyo, ngày 11-2-1967
Hoài Ân thân mến,
Mấy hôm nay tuyết cứ rơi luôn và vẫn còn tiếp tục rơi. Thành phố Đông Kinh hôm nay đâu cũng đầy tuyết. Nóc nhà nào cũng bị phủ tuyết cao hàng mấy tấc. Tất cả cây lá cũng biến thành cây tuyết trắng như bông. Tôi đã phải đi ra và vừa mới về. Trên áo choàng còn bán đầy những tuyết. Lạnh quá! Tôi vừa mới đi ngâm nước nóng xong. Tuy đang giữa mùa lạnh nhưng tôi vẫn được mạnh như thường. Xin Ân và anh chị em và Bà Mười nên an tâm.
Hơi lâu rồi tôi không thấy thơ của Ân chẳng hay Ân, anh chị em đồng đạo và Bà Mười hiện thời có được an lành không? Tôi lấy làm lo và rất trông tin. Vậy khi được thơ nầy,Ân nhớ viết thơ cho tôi biết. Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Ân, anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà đều được mạnh lành và tu hành quang minh tinh tấn.
Nhắn Nhủ Đồng Đạo
Thanh gươm trí huệ nhớ mài luôn,
Sĩ khí đừng nao trước bạo cường.
Nhắn bạn tu hành, hành chớ bỏ,
Nhủ người đạo đức, đức đừng buông.
Đồng qui phước chúng là cơ bản,
Đạo hướng thiện dân ấy cội nguồn.
Quê Phật muốn về theo lối Phật,
Nhà nào cũng Phật sự đều suông.
THANH SĨ
Lá thư số 133: Tokyo, ngày 24-2-1967
Lá thư số 133: Tokyo, ngày 24-2-1967
Tokyo, ngày 24-2-1967,
Hồ Nam thân mến,
Rất cám ơn Hồ Nam đã có lời chúc xuân tôi. Tôi vẫn được khỏe mạnh. Xin Hồ Nam và anh chị em ở quê nhà nên an tâm. Hồ Nam, quý quyến và anh chị em ở quê nhà rán phương tiện lo phát Bồ Đề tâm, hành từ bi đạo cho được chóng đạt đến mức toàn thiện toàn minh. Hồ Nam và anh chị em chớ tự cho mình hoặc để người làm lùi bước trước sự thử thách cám dỗ hay gian khổ gian nguy. Nên luôn luôn làm chủ lấy tâm và cương quyết tu hành đúng như bổn nguyện:
Rất cám ơn Hồ Nam đã có lời chúc xuân tôi. Tôi vẫn được khỏe mạnh. Xin Hồ Nam và anh chị em ở quê nhà nên an tâm. Hồ Nam, quý quyến và anh chị em ở quê nhà rán phương tiện lo phát Bồ Đề tâm, hành từ bi đạo cho được chóng đạt đến mức toàn thiện toàn minh. Hồ Nam và anh chị em chớ tự cho mình hoặc để người làm lùi bước trước sự thử thách cám dỗ hay gian khổ gian nguy. Nên luôn luôn làm chủ lấy tâm và cương quyết tu hành đúng như bổn nguyện:
Sanh tử vẫn Phật tâm,
Thăng trầm vẫn Phật sự.
Tu cho hết thăng trầm,
Hành cho hết sanh tử.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Hồ Nam, quý quyến và anh chị em ở quê nhà đều được mạnh lành và tu hành viên mãn.
THANH SĨ
Lá thư số 134: Tokyo, ngày 24-2-1967
Lá thư số 134: Tokyo, ngày 24-2-1967
Tokyo, ngày 24-2-1967,
Tông thân mến,
Cám ơn Tông đã có lời chúc Tết cho tôi. Tôi vẫn được như thường chẳng có sự gì thay đổi. Xin Tông và anh chị em đồng đạo ở quê nhà nên yên lòng. Những cảnh thiên tai nhơn họa ở nước nhà tôi đều được biết. Tôi không ngớt lo ngại và u buồn! Lúc nào tôi cũng cầu nguyện ơn trên trời Phật cứu độ dân chúng sớm được nạn khỏi tai qua.
Cám ơn Tông đã có lời chúc Tết cho tôi. Tôi vẫn được như thường chẳng có sự gì thay đổi. Xin Tông và anh chị em đồng đạo ở quê nhà nên yên lòng. Những cảnh thiên tai nhơn họa ở nước nhà tôi đều được biết. Tôi không ngớt lo ngại và u buồn! Lúc nào tôi cũng cầu nguyện ơn trên trời Phật cứu độ dân chúng sớm được nạn khỏi tai qua.
Tông và anh chị em ở quê nhà, dù ở trong cảnh huống nào cũng rán nuôi mạnh trí đạo và cố gắng lướt qua mọi gian khổ để theo dõi chí nguyện tu hành đạo đức thiêng liêng cao cả.
Tu hành cho sáng cho lành,
Tu hành cho kiếp phàm thành Phật Tiên.
Tu hành cho bá tánh yên,
Tu hành cho hết khổ miền trần gian.
Tôi xin chúc cho Tông và anh chị em ở quê nhà đều được vạn sự an lành.
THANH SĨ
P.B.: Nên tiếp tục làm việc và tiếp tục tu hành bằng mọi hình thức phương tiện. Trong khi làm việc mà cũng là trong khi tu hành trong lúc nào cũng vẫn tự chủ lấy tâm, nên tu hành như vậy.
Lá thư số 135: Tokyo, ngày 24-2-1967
Lá thư số 135: Tokyo, ngày 24-2-1967
Tokyo, ngày 24-2-1967,
Gởi Dương Văn Hai
Dương Văn Hai thân mến,
---
Đạo nghĩa đi đâu cũng rán lo,
Làm lành nhứt định có lành cho.
Cảnh nào cũng nhớ làm chơn chánh,
Ở tục mà Tiên chỗ hẹn hò.
Dương Văn Hai thân mến,
---
Đạo nghĩa đi đâu cũng rán lo,
Làm lành nhứt định có lành cho.
Cảnh nào cũng nhớ làm chơn chánh,
Ở tục mà Tiên chỗ hẹn hò.
THANH SĨ
Lá thư số 136: Tokyo, ngày 24-2-1967
Lá thư số 136: Tokyo, ngày 24-2-1967
Tokyo, ngày 24-2-1967,
Thưởng thân mến,
Thưởng và anh chị em đồng đạo ở quê nhà có được an lành không? Bên nầy tôi vẫn được mạnh khỏe, không có sự gì thay đổi đáng lo. Xin thưởng và anh chị em ở quê nhà nên an tâm. Thưởng và anh chị em đồng đạo rán thắt chặt tình đồng đạo trong mọi hoàn cảnh và rán nâng đỡ nhau để chung lo công việc tu hành đạo nghĩa. Còn tình nhà cảnh nước, tôi thường có tin luôn. Tôi thấy lòng lúc nào cũng tràn ngập nỗi đau buồn!
Lòng dân sớm được thanh,
Việc nước sẽ mau bình,
Mầm mống thanh bình ấy,
Từ lòng dân mà sinh.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Thưởng và anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được vạn sự an lành và tu hành được toàn thiện toàn minh.
Thưởng và anh chị em đồng đạo ở quê nhà có được an lành không? Bên nầy tôi vẫn được mạnh khỏe, không có sự gì thay đổi đáng lo. Xin thưởng và anh chị em ở quê nhà nên an tâm. Thưởng và anh chị em đồng đạo rán thắt chặt tình đồng đạo trong mọi hoàn cảnh và rán nâng đỡ nhau để chung lo công việc tu hành đạo nghĩa. Còn tình nhà cảnh nước, tôi thường có tin luôn. Tôi thấy lòng lúc nào cũng tràn ngập nỗi đau buồn!
Lòng dân sớm được thanh,
Việc nước sẽ mau bình,
Mầm mống thanh bình ấy,
Từ lòng dân mà sinh.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Thưởng và anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được vạn sự an lành và tu hành được toàn thiện toàn minh.
THANH SĨ
Lá thư số 137: Tokyo, ngày 26-2-1967
Lá thư số 137: Tokyo, ngày 26-2-1967
Tokyo, ngày 26-2-1967,
Gởi Lưu Hữu Nghĩa
Lưu Hữu Nghĩa thân mến,
Lưu Hữu Nghĩa thân mến,
Tôi có nhận được thơ của Nghĩa, xin cám ơn nghĩa. Hiện thời tôi vẫn được mạnh khỏe. Xin nghĩa và anh chị em đồng đạo ở nhà nên an tâm. Nghĩa và anh chị em rán tin tấn hành đạo. Hành đạo cho tận thiện tận mỹ, toàn giác toàn minh. Trên đường tu có nhiều chướng ngại rán vượt qua, đừng lùi bước. Lúc nào cũng nên hăng hái tiến tới mục đích. Quyết Học Phật, Tu Phật và Thành Phật. Luôn luôn đem lòng mình nối liền với đức từ bi và đem tánh từ bi thực hiện trong đại chúng. Đem cái chơn tu, cái đạo chánh ra trừ mê giải khổ cho đời. Tự giác giác tha, tự lợi lợi tha là như vậy. Nghĩa và anh chị em rán cố gắng.
Sau hết, Nghĩa và anh chị em đồng đạo trong hoàn cảnh nào cũng rán đoàn kết lẫn nhau để cùng sống cùng tu và cùng phát triển việc đạo.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Nghĩa, quý quyến và anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được vạn sự an lành và tu hành mau sáng tỏ.
THANH SĨ
Lá thư số 138: Tokyo, ngày 6-3-1967
Lá thư số 138: Tokyo, ngày 6-3-1967
Tokyo, ngày 6-3-1967,
Hoài Ân thân mến,
Tôi đã nhận được thơ của Ân, biết được tin nhà Ân và anh chị em đồng đạo và Bà Mười vẫn được mạnh lành tôi rất an tâm. Riêng tôi ở bên nầy, hiện giờ cũng được mạnh khỏe, không có sự gì đáng lo. Xin Ân và anh chị em cũng như Bà Mười ở quê nhà nên vững lòng. Ân và anh chị em đồng đạo tuy phải đương đầu với nhiều khó khăn trái ngược trên con đường tu thân hành đạo, nhưng cũng nên chung tâm gắng sức giữa nhau để tiến lên một cách dẻo dai cứng rắn cho đến mức trọn sáng trọn lành như bổn nguyện.
Tôi đã nhận được thơ của Ân, biết được tin nhà Ân và anh chị em đồng đạo và Bà Mười vẫn được mạnh lành tôi rất an tâm. Riêng tôi ở bên nầy, hiện giờ cũng được mạnh khỏe, không có sự gì đáng lo. Xin Ân và anh chị em cũng như Bà Mười ở quê nhà nên vững lòng. Ân và anh chị em đồng đạo tuy phải đương đầu với nhiều khó khăn trái ngược trên con đường tu thân hành đạo, nhưng cũng nên chung tâm gắng sức giữa nhau để tiến lên một cách dẻo dai cứng rắn cho đến mức trọn sáng trọn lành như bổn nguyện.
Phải lấy chánh để thắng tà, lấy giác để trừ mê, đừng bao giờ để mình bị hôn loạn trong ý chí đến đỗi phải bị ngẩn ngơ hay lùi bước trước sự mê hoặc hay lấn át nào (của trào lưu hay là bất cứ của thế nhân nào). Rán đeo đuổi và đi mạnh mẽ trên con đường chánh đạo mà mình đã nghĩ biết và thấy chắc chắn. Bao giờ cũng duy nhứt thân tâm trên chánh đạo và lấy từ bi trí huệ làm căn bản để tiến tới. Xin Ân và anh chị em đồng đạo rán tinh tấn mãi mãi.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Ân, quý quyến, anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà đều được chư vị Phật Thần gia hộ cho được mọi việc an lành.
Thanh Sĩ
P.B.: Tôi có kèm gởi theo đây ba tấm ảnh màu của tôi đã chụp lúc trước ở phòng tôi đang trong lúc tuyết rơi mùa đông năm nay. Nếu anh chị em bên nhà có ai muốn rửa thêm thì Ân biên thơ cho tôi biết tôi sẽ gởi phim về.
P.B.: Tôi có kèm gởi theo đây ba tấm ảnh màu của tôi đã chụp lúc trước ở phòng tôi đang trong lúc tuyết rơi mùa đông năm nay. Nếu anh chị em bên nhà có ai muốn rửa thêm thì Ân biên thơ cho tôi biết tôi sẽ gởi phim về.
THANH SĨ
Lá thư số 139: Tokyo, ngày 6-3-1967
Lá thư số 139: Tokyo, ngày 6-3-1967
Tokyo, ngày 6-3-1967,
Trường. Yến thân mến,
Đây là hình tôi vừa mới chụp ngay trước căn phòng tôi đang ở, trong lúc Tuyết rơi hồi mùa đông năm nay 1967. Tôi xin gởi về biếu Trường, Yến làm kỷ niệm và cũng để biết cảnh tuyết ở Đông Kinh hầu có thông cảm cho nhau nhiều hơn. Tuyết giống như nước đá bào. Sau khi nó rơi xuống rồi dần dần đông lại thành nước đá. Lạnh lắm Trường, Yến ơi!
Trường, Yến có mạnh lành không? Rán giữ sức khỏe nhé! Sức khỏe của thân thể và sức khỏe của tâm hồn cả hai đều quan trọng, không nên để yếu cái nào. Tôi rất hy vọng được chứng thật sự phát triển từ bi trí huệ của Trường, Yến một ngày một được lớn rộng. Trường, Yến rán công phu tu tập cho chu đáo.
Nhớ phản chiếu nơi tâm mình và hành động của mình mỗi ngày đêm, giờ khắc. Rán kiểm thu và tập trung tâm ý, đừng để nó hỗn loạn phóng túng theo đường tục. Rán bắt cho đúng luồn sóng điện, cho nghe được tiếng, thấy được bóng của máy vô tuyến truyền hình.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Trường, Yến và anh chị em ở quê nhà đều được vạn an.
THANH SĨ
P.B.: Xin trao hộ tấm ảnh cho Hồng Liên.
Lá thư số 140: Tokyo, ngày 7-3-1967
Lá thư số 140: Tokyo, ngày 7-3-1967
Tokyo, ngày 7-3-1967,
Gởi Nguyễn Hoàng Cầu
Nguyễn Hoàng Cầu thân mến,
Nguyễn Hoàng Cầu thân mến,
Tôi đã nhận được thơ của Cầu. Rất cám ơn Cầu. Tôi có mấy lời vắn tắt như sau:
Khi tự định trong mọi lúc bất định,
Tự minh trong mọi lúc bất minh.
Tự hùng dũng trên đường giải thoát,
Tự phát Bồ Đề trên thế tình.
Xin chúc cho Cầu và anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được vạn sự an lành.
THANH SĨ
Lá thư số 141: Tokyo, ngày 18-3-1967
Lá thư số 141: Tokyo, ngày 18-3-1967
Tokyo, ngày 18-3-1967,
Trứ thân mến,
Tôi đã tiếp được thơ của Trứ, Rất cảm ơn Trứ. Được biết Trứ, anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà vẫn được mạnh lành, tôi lấy làm an tâm một phần nào. Ở bên nầy, hiện thời tôi đang nghỉ lễ mùa xuân cho đến ngày 19 tháng Tư mới đi dạy trở lại ở Đại học. Và tôi cũng được sức khỏe như thường, không có sự gì thay đổi đáng ngại cả. Xin Trứ, anh chị em đồng đạo và Bà Mười nên vững lòng.
Về mặt tu hành đạo đức Trứ, anh chị em đồng đạo và Bà Mười rán tùy cơ thích ứng đồng tu, đồng tiến và đồng lo tương trợ lẫn nhau cả hai phương diện vật chất và tinh thần. Đừng bao giờ để lạc hướng vào con đường độc thiện hoặc ích kỷ. Rán đề cao ý chí tương thân tương tế giữa nhau và với mọi người cho rộng lớn. Đồng thời rán phát tâm như sau:
Phát tâm kính Phật tất vâng lời Phật.
Phát tâm thương Phật tất chẳng phụ Phật.
Phát tâm nhớ Phật tất muốn gặp Phật.
Phát tâm phụng Phật tất độ chúng sanh.
---
Vâng lời Phật phải tự quyết tâm quy.
Chẳng phụ Phật phải tự quyết hành y.
Muốn gặp Phật phải tự quyết tu tiến.
Độ chúng sanh phải tự quyết từ bi.
Tự quyết tâm quy duy nhứt Niết Bàn.
Tự quyết hành y duy nhứt chánh đạo.
Tự quyết tu tiến duy nhứt giải mê.
Tự quyết từ bi duy nhứt cứu khổ.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Trứ, quý quyến, anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà đều được vạn sự an lành.
THANH SĨ
P.B: Có kèm gởi theo đây một tấm ảnh màu của tôi.
Lá thư số 142 : Tokyo, ngày 6-4-1967
Lá thư số 142 : Tokyo, ngày 6-4-1967
Tokyo, ngày 6-4-1967,
Vạn thân mến,
Tôi đã được thơ của Vạn. Rất cám ơn Vạn. Bên nầy tôi vẫn được khỏe mạnh. Không có sự gì thay đổi. Xin Vạn và anh chị em ở quê nhà nên an tâm và rán lo tu hành chơn chánh lương thiện. Con người thường lộ chân tướng trong lúc hỗn loạn, gà nào theo mẹ nấy. Thế cho nên, Vạn và anh chị em đồng đạo đừng lấy làm lạ khi thấy những người đã từ con đường phải mà chạy sang con đường trái.
Tôi đã được thơ của Vạn. Rất cám ơn Vạn. Bên nầy tôi vẫn được khỏe mạnh. Không có sự gì thay đổi. Xin Vạn và anh chị em ở quê nhà nên an tâm và rán lo tu hành chơn chánh lương thiện. Con người thường lộ chân tướng trong lúc hỗn loạn, gà nào theo mẹ nấy. Thế cho nên, Vạn và anh chị em đồng đạo đừng lấy làm lạ khi thấy những người đã từ con đường phải mà chạy sang con đường trái.
Và có những con người mới hôm nào đó rất hiền hậu tốt lành mà bây giờ lại trở nên hung ác tồi tệ. Những người đó bị các thị dục trong lòng nổ tung ra, do sự đục khoét khiêu gợi của mọi cảnh và do sức đè nén nhịn chịu của họ đã bị yếu ớt mòn mỏi đi. Có thể nói những người ấy đã bị lậm phép của lũ tam bành lục tặc.
Nếu họ không cố gắng thức tỉnh, thì sẽ bị đưa sâu vào vòng tội lỗi tai hại. Nên tội nghiệp cho đời họ, không nên ghét. Nếu có cách nào giúp cho họ sớm cãi hối là tốt nhứt. Tình thương của đạo Phật cần được biểu lộ ở chỗ đó. Vạn và anh chị em có nghĩ như thế không? Rán lập chí quảng đại cao siêu trên đường tu hành đạo đức.
Đêm dài mấy cũng là phải sáng,
Giông to bao cũng lặng chẳng không.
Hãy nuôi tin tưởng trong lòng,
Đừng nao núng trước gai chông con đường.
Chí muốn đạt phải cương quyết tiến,
Tu mong thành nên luyện tập luôn.
Lúc hành đạo khổ chớ buồn,
Khi tâm bừng tỏ là nguồn an vui.
Tà không thể thắng người chơn chánh,
Chớ ngã lòng trước cảnh ma trêu.
Ánh trời khi rựng sáng đều,
Bóng hình ma quỉ sẽ tiêu tan lần.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Vạn và anh chị em đồng đạo lớn nhỏ ở quê nhà đều được vạn sự an lành và tu hành chóng đắc đạo quả.
THANH SĨ
Lá thư số 143: Tokyo, ngày 10-4-1967
Lá thư số 143: Tokyo, ngày 10-4-1967
Tokyo, ngày 10-4-1967,
Mỹ Lệ thân mến,
Rất cám ơn Mỹ Lệ đã viết thơ thăm tôi. Tôi vẫn được mạnh khỏe. Xin Mỹ Lệ, Bà Mười và anh chị em ở quê nhà nên an lòng. Mỹ Lệ còn nhỏ tuổi mà đã biết tu hành là tốt lắm. Chính đó cũng là nhờ có sâu duyên với Phật pháp. Mỹ Lệ rán cố gắng tu học và rán trau giồi hạnh đức cho được chọn lành trọn tốt. Trên con đường tu của tuổi trẻ thường gặp nhiều thử thách khó khăn, Mỹ Lệ nên luôn luôn nỗ lực làm chủ ý chí. Phải biết ngăn biết lùi trên con đường quấy, và phải biết gìn biết tiến trên con đường phải. Đồng thời rán tập cho quen tánh biết suy nghĩ việc phải trái trước khi hành động.
Rất cám ơn Mỹ Lệ đã viết thơ thăm tôi. Tôi vẫn được mạnh khỏe. Xin Mỹ Lệ, Bà Mười và anh chị em ở quê nhà nên an lòng. Mỹ Lệ còn nhỏ tuổi mà đã biết tu hành là tốt lắm. Chính đó cũng là nhờ có sâu duyên với Phật pháp. Mỹ Lệ rán cố gắng tu học và rán trau giồi hạnh đức cho được chọn lành trọn tốt. Trên con đường tu của tuổi trẻ thường gặp nhiều thử thách khó khăn, Mỹ Lệ nên luôn luôn nỗ lực làm chủ ý chí. Phải biết ngăn biết lùi trên con đường quấy, và phải biết gìn biết tiến trên con đường phải. Đồng thời rán tập cho quen tánh biết suy nghĩ việc phải trái trước khi hành động.
Còn theo pháp môn thiền tịnh song tu là rất thích hợp với căn cơ của người đời nay lắm. Vì pháp môn nầy vừa tự lực vừa nhờ tha lực trợ trưởng sẽ giúp cho sự tu có nhiều hiệu quả hơn, như chèo thuyền mà được người ở trên bờ kéo tiếp sẽ được mau tới nơi. Và khi dùng pháp quán chiếu bổn tâm nên tự thấy rõ mọi việc nơi lòng như là thấy mình trong khi đứng trước tấm gương. Phải thấy như vậy cho đến khi nào được như nhiên, khỏi phải dụng tâm khỏi phải trước chấp… cái chơn tâm sẽ được hiện thấy từ đấy.
Tâm nội được thông,
Vật ngoại được suốt.
Tâm nội ngăn che,
Vật ngoại trói buộc.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Mỹ Lệ, Bà Mười và anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được luôn luôn mạnh lành và tu hành cùng nhau tiến hành một nhịp.
THANH SĨ
Lá thư số 144: Tokyo, ngày 17-4-1967
Lá thư số 144: Tokyo, ngày 17-4-1967
Tokyo, ngày 17-4-1967,
Sĩ Hiền thân mến,
Rất cám ơn Sĩ Hiền đã có lòng viết thơ thăm tôi. Hiện thời tôi vẫn được mạnh khỏe như thường, chẳng có sự gì thay đổi. Xin Sĩ Hiền và anh chị em ở quê nhà nên an lòng. Sĩ Hiền và anh chị em ở quê nhà rán cùng nhau trước sau một lòng theo dõi con đường Phật pháp. Nên luôn luôn bình tĩnh tiến bước. Bước đều và bước vững từ bước, như vậy sẽ đi đến chỗ của mình đã nguyện ước.
Rất cám ơn Sĩ Hiền đã có lòng viết thơ thăm tôi. Hiện thời tôi vẫn được mạnh khỏe như thường, chẳng có sự gì thay đổi. Xin Sĩ Hiền và anh chị em ở quê nhà nên an lòng. Sĩ Hiền và anh chị em ở quê nhà rán cùng nhau trước sau một lòng theo dõi con đường Phật pháp. Nên luôn luôn bình tĩnh tiến bước. Bước đều và bước vững từ bước, như vậy sẽ đi đến chỗ của mình đã nguyện ước.
Thời buổi nầy ở đâu cũng như đâu, đa số người ta đều nghiêng mạnh về phía cạnh tranh đời sống vật chất ở trước mặt, còn về phương tu hành giải thoát kiếp sanh tử mê muội khổ ách của con người thì ít ai chịu lưu tâm đến. Trái lại, còn có nhiều người ác ý thọc gậy bánh xe của nhà tu và tìm đủ cách phá phách cho hoại đạo.
Vì lẽ ấy, nhà tu hành đạo chơn chánh đúng thuyết từ bi, có thể nói là rất khó khăn hơn việc đi qua trăm ngàn núi rừng đầy yêu tinh ác thú. Vậy Sĩ Hiền và các anh chị em đồng đạo rán giữ vững đức tin và ý chí trên đường tu. Rán phát tâm Bồ Đề và hành động tốt trong mọi hoàn cảnh xấu xa hung dữ, rán nhẫn nhục và tinh tấn lướt tới trong mọi trường hợp khó nhẫn nhục và khó tinh tấn được.
Muốn đạt mục đích lớn thì phải có ý chí lớn và phải nỗ lực càng nhiều. Đạo càng cao thì công tu luyện càng dày. Tu luyện cho tâm vọng được huờn chơn. Tu luyện cho được Minh tâm Kiến tánh, kết quả mau hay chậm của sự tu đều do nơi sức trau luyện và và rán nuôi chí lớn trên đường đạo cả, nên nhớ "hữu trí cánh thành".
Xưa nay chư Bồ Tát,
Lòng hết mê được giác,
Đạo quả được viên thành,
Do chí ta bất bạt.
---
Gian lao khó thắng chí tu,
Chí tu là gốc trổ hoa Bồ Đề.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Sĩ Hiền, Bà Mười và anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được an lành và tu hành phát triển.
THANH SĨ
Lá thư số 145: Tokyo, ngày 5-5-1967
Lá thư số 145: Tokyo, ngày 5-5-1967
Tokyo, ngày 5-5-1967,
Khanh thân mến,
Khanh, quý quyến và anh chị em đồng đạo ở quê nhà có được mạnh lành không? Ở bên này tôi vẫn được sức khỏe như thường, không có sự gì thay đổi. Xin Khanh và anh chị em ở quê nhà nên yên tâm và rán chung lo tu hành chơn chánh lương thiện.
Khanh, quý quyến và anh chị em đồng đạo ở quê nhà có được mạnh lành không? Ở bên này tôi vẫn được sức khỏe như thường, không có sự gì thay đổi. Xin Khanh và anh chị em ở quê nhà nên yên tâm và rán chung lo tu hành chơn chánh lương thiện.
Mỗi một khó khăn trong sự tu là mỗi một nấc thang của vị quả. "Khó khăn càng nhiều, vị quả càng cao". Khanh và anh chị em đồng đạo rán lướt qua những khó khăn trong lúc hành đạo. Nên luôn luôn tăng cường sức tự tín và tự giác. Tội lỗi nào cũng quyết chừa xong và phước thiện nào cũng quyết làm được. Lúc nào cũng cố gắng treo gương tốt lành và noi dấu tốt lành.
Xem sự giải thoát mọi nỗi thống khổ cho mình và cho tất cả người khác là trước hết trên đường tu.
Rán nuôi chí lớn để hành đạo cả, Vậy Khanh và anh chị em ở quê nhà hãy cùng nhau hăng hái theo dõi chí nguyện đại đồng phúc lợi quang minh ấy. Tôi không ngớt trông chờ sự trọn lành trọn sáng trên đường đạo hạnh của Khanh và của tất cả anh chị em ở quê nhà.
Rán tu trong cảnh khó tu,
Rán hành giữa lúc âm u khó hành.
Tu cho hết dữ ra lành,
Hành cho hết trược ra thanh cuộc đời.
Khổ nay chịu được vui mơi,
Chớ buồn những lúc tình đời khô khan.
Rán tu cho kiếp khỏi tàn,
Rán hành để có lấp bằng sông mê.
Phật chờ nơi chốn Liên Huê,
Khó khăn mấy cũng rán về tới nơi.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Khanh, quý quyến và anh chị em ở quê nhà đều được luôn luôn mạnh lành và tu hành sáng suốt.
THANH SĨ
P.B: Có kèm gởi theo đây một tấm ảnh của tôi.
Lá thư số 146: Tokyo, ngày 6-5-1967
Lá thư số 146: Tokyo, ngày 6-5-1967
Tokyo, ngày 6-5-1967,
Châu Thị Thanh Nguyên
Châu Thị Thanh Nguyên thân mến,
Châu Thị Thanh Nguyên thân mến,
Tôi đã tiếp được thơ của Thanh Nguyên. Rất cám ơn Thanh Nguyên. Bên nầy tôi vẫn được mạnh luôn luôn, không có sự gì đáng lo. Xin Thanh Nguyên, Bà Mười và anh chị em ở quê nhà nên an lòng. Theo lời của Thanh Nguyên đã hỏi trong thơ nơi đây tôi xin có ý kiến vắn tắt là:
- Con người vì đã tập nhiễm tục lụy từ lâu, cho nên trong tâm thường hay vọng niệm, nhưng khi người đã tự chủ được tâm rồi thì các vọng niệm ấy sẽ không còn, hoặc là nó sẽ trở lại sự điều khiển của mình. Trong lúc đó tuy ở trong vọng niệm mà vẫn được định giác, các sự vật không thể nào ám ảnh được. Đó, ví như mặt Nhựt giữa trời bão tố mà vẫn tự nhiên không lay động. Vậy muốn tự chủ được tâm trước hết cần phải tự soi thấy rốt ráo mọi sự sanh khởi trong lòng mình và phải nhứt quyết làm chủ nó.
- Sự vật trên đời đều là tạm giả, cái xác thân của con người cũng là một thứ tạm giả nốt. Chính cái xác thân còn tạm giả thì những thứ phụ thuộc của xác thân đâu có thiệt bao giờ. Cho nên trong "Tâm Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa" Đức Phật đã bảo là: "Chẳng những soi thấy Ngũ uẩn là không, mà cả đến Lục căn, Lục trần, Thập nhị Nhân duyên, v..v... Cũng là không cả, không như hư không.
Tất cả đều do nhân thứ nọ duyên với thứ kia mà thành có thôi. Một khi các nhân duyên ấy tan rã rồi thì nó vẫn huờn lại không. Không là vốn của vạn vật, biết chắc vạn vật thế nào cũng huờn không, Cho nên lòng không tham nhiễm, không tham nhiễm tất không tạo nghiệp, không tạo nghiệp tất không bị lôi cuốn vào vòng đau khổ. Tức là giải thoát đấy.
Còn hai câu hỏi cuối cùng của Thanh Nguyên, tôi xin đưa ý kiến bằng bốn câu thơ như sau:
Đạo nào cũng chẳng chấp chi,
Miễn là đạo ấy được phi phàm tình.
Tình phàm ô trược hóa thanh,
Thanh trên tất cả cái danh tầm thường.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Thanh Nguyên, Bà Mười và anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được tâm thể khương an tu hành sáng tỏ.
THANH SĨ
Lá thư số 147: Tokyo, ngày 30-5-1967
Lá thư số 147: Tokyo, ngày 30-5-1967
Tokyo, ngày 30-5-1967,
Gởi Nguyễn Hoàng Cầu
Nguyễn Hoàng Cầu thân mến,
Nguyễn Hoàng Cầu thân mến,
Bức thơ đề ngày 18-5-1967 tôi đã nhận được. Xin cám ơn Cầu. Ở bên nầy tôi vẫn được khỏe mạnh như thường. Xin Cầu và anh chị em ở quê nhà nên an tâm. Kế đó Cầu và anh chị em ở quê nhà bất chấp hoàn cảnh nào cũng rán chung lo giúp đỡ nhau tu hành chơn chánh phước huệ chung cho mọi người. Theo những lời của Cầu đã hỏi trong thơ, nơi đây tôi xin tóm tắt ý kiến vào tám câu thơ sau đây:
Tu trong hơn mượn cảnh tu ngoài,
Trong chẳng tu thì cảnh khó thay.
Đọa kiếp tại mình không tại kẻ,
Siêu phàm do tánh chẳng do ai.
Muốn thân Phật hóa nên cương quyết,
Mong nghiệp trần tan phải dẻo dai.
Khá lấy chơn tâm bình vạn sự,
Ý nguyền sẽ được toại nay mai.
Vắn tắt có mấy hàng, tôi xin chúc cho Cầu và anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được vạn sự an lành và tu hành được toàn thiện toàn minh.
THANH SĨ
Lá thư số 148: Tokyo, ngày 31-5-1967
Lá thư số 148: Tokyo, ngày 31-5-1967
Tokyo, ngày 31-5-1967,
Đinh Thị Mới thân mến,
Thành thật cám ơn Mới đã viết thơ thăm tôi. Hiện thời tôi vẫn được mạnh như thường. Xin Mới và anh chị em đồng đạo ở quê nhà nên an lòng và nên hăng hái tiếp tục rèn luyện tâm hồn đạo pháp cho được mỗi ngày mỗi trong sạch chơn chánh và sáng suốt thêm lên. Những điều của Mới đã hỏi trong thơ tôi thiết nghĩ như vầy:
Thành thật cám ơn Mới đã viết thơ thăm tôi. Hiện thời tôi vẫn được mạnh như thường. Xin Mới và anh chị em đồng đạo ở quê nhà nên an lòng và nên hăng hái tiếp tục rèn luyện tâm hồn đạo pháp cho được mỗi ngày mỗi trong sạch chơn chánh và sáng suốt thêm lên. Những điều của Mới đã hỏi trong thơ tôi thiết nghĩ như vầy:
Ai tà thì mặc người tà,
Nhà tu phải giữ đúng là chơn tu.
Ai ngu mình chớ để ngu,
Đã tu khó mấy cũng tu cho thành.
Tu cho nghiệp chướng tan tành,
Tu cho khổ ách chúng sanh không còn.
Tu cho Đạo hạnh vuông tròn,
Ai lay chuyển cũng không mòn đức tin.
Tu như Tam Tạng thỉnh kinh,
Tu như Phật thắng muôn nghìn Ma Vương.
Cứ tu tinh tấn một đường,
Tin rằng có Phật mười phương hộ Trì.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Mới và anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được vạn an.
THANH SĨ
Lá thư số 149: Tokyo, ngày 11-6-1967
Lá thư số 149: Tokyo, ngày 11-6-1967
Tokyo, ngày 11-6-1967,
Duy Liên thân mến,
(Trích một đọan)
Tôi đã nhận được thơ Liên. Xin cám ơn Liên. Người tu hành ngoài mục đích để giải thoát, còn có mục đích để sanh sống cho nhân thiện. Nhân thiện là mẹ đẻ hạnh phúc của xã hội loài người. Con người sẵn sàng chia bớt vui khổ và san sẻ cơm áo cho nhau là vì có lòng nhân thiện. Lòng nhân thiện lại còn khiến người không gây tội ác.
(Trích một đọan)
Tôi đã nhận được thơ Liên. Xin cám ơn Liên. Người tu hành ngoài mục đích để giải thoát, còn có mục đích để sanh sống cho nhân thiện. Nhân thiện là mẹ đẻ hạnh phúc của xã hội loài người. Con người sẵn sàng chia bớt vui khổ và san sẻ cơm áo cho nhau là vì có lòng nhân thiện. Lòng nhân thiện lại còn khiến người không gây tội ác.
Thế nên, nhân thiện có thể nói là cái đức tánh tuyệt mỹ của con người, thế hệ loài người dù có thay đổi đến mức nào đi nữa, việc nhân thiện vẫn y như từ nghìn xưa và con người vẫn phải cần có nó luôn trong sự sống. Thế cho nên, người tu hành bất luận xuất gia hay tại gia cũng đều trước hết là phát tâm và hành động nhân thiện. Có nhân thiện tức có từ bi, có từ bi tức có công đức, có công đức tức có thành trì ngăn chặn các việc sanh tử luân hồi v.v…
Nhân thiện ấy là trí chẳng ngu,
Con đường nhân thiện vốn đường tu,
Muốn vui lúc sống siêu khi thác,
Nhân thiện nên lo mặc dãi dù.
Liên ơi! Đạo đi ngược các ý muốn của đời, cho nên người hành đạo thường gặp nhiều chướng ngại do đời gây ra. Những chướng ngại ấy không gì khác hơn là những điều của bản nhân đã từng sống, từng muốn và từng quen biết từ lâu, bây giờ chúng nó đem ra khiêu khích cám dỗ để cho nhớ lại, muốn lại và sống lại cuộc đời như xưa của bản nhân và như chúng nó đang sống ở hiện thời. Cách sống ấy hầu hết là không có tình cảm, không có đạo đức và cũng không có lương tâm thường thức của con người. Sống trong lối sống mạnh hiếp yếu như muôn động vật, vì lẽ chỉ biết sống cho mình và sống theo vật chất hiện tại mà thôi. Do đó, khiến cho đời gây tạo đủ thứ tội ác.
Những chướng ngại tức là ngững thứ khiêu khích cám dỗ theo những lối sống như đã nói trên. Ở quê nhà Liên và anh chị em rán có đủ tự lực tự tín vượt qua để được chí thiện chí minh.
Rán sống theo cách sống của đạo,
Sống lành nay, sống lành mai mốt,
Sống phúc cho thân, sống phúc người.
Sống xác nhẹ nhàng, hồn cởi mở,
Sống không ân hận, thác an vui
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin cầu nguyện ơn trên các đấng siêu hình âm thầm phù hộ cho Liên và tất cả anh chị em gần xa ở quê nhà đều được khỏe mạnh và lo tu hành cho tăng trưởng nhiều phước đức trí huệ.
THANH SĨ
Lá thư số 150: Tokyo, ngày 19-6-1967
Lá thư số 150: Tokyo, ngày 19-6-1967
Tokyo, ngày 19-6-1967,
Bà Ẩn thân mến,
Tôi rất hân hạnh vừa mới nhận được thơ của Bà. Xin cám ơn Bà. Được tin Bà và anh chị em ở quê nhà vẫn được mạnh lành, tôi lấy làm yên tâm nhiều. Ở bên nầy, tôi cũng được mạnh khỏe như thường, không có sự gì thay đổi. Xin Bà và anh chị em ở quê nhà nên an lòng.
Tôi rất hân hạnh vừa mới nhận được thơ của Bà. Xin cám ơn Bà. Được tin Bà và anh chị em ở quê nhà vẫn được mạnh lành, tôi lấy làm yên tâm nhiều. Ở bên nầy, tôi cũng được mạnh khỏe như thường, không có sự gì thay đổi. Xin Bà và anh chị em ở quê nhà nên an lòng.
Đời đang tiến mạnh vào cuộc sống thế lực vật chất. Người ta xô đẩy chen lấn nhau ở mọi phương diện. Đời sống của con người bị ảnh hưởng sâu sắc vào đó, mà thường dùng đầu óc hơn dùng trái tim. Bởi lý trí với tình cảm không cân đối nhau, cho nên đời sống vật chất càng tối tân, thì con người cũng càng gian ác. Người ta thường gây cho nhau khổ, hơn làm cho nhau vui. Vì thế, đời sống của con người hình như lúc nào cũng bị bức bách, bất an. Đặt tai mắt tâm tư vào những cảnh đó, thử hỏi ai người có nhân đạo, có từ tâm há chẳng xót dạ đau lòng. Riêng tôi luôn luôn thiết nghĩ rằng:
Tham ác bao nhiêu khổ bấy nhiêu,
Khổ vì vật chất tội thêm nhiều.
Cực hình nhân loại do tham kết,
Địa ngục trần gian tại ác chiêu.
Xưa thế, ông cha không giải thoát,
Nay vầy, con cháu khó tiêu diêu.
Mong ai cũng nhớ ngày mai hậu,
Trở lại đường tu chớ đánh liều.
Trong lúc đa số người ta mòn mỏi tinh thần đạo đức, thì việc đạo đức rất cao quí và rất cần thiết hơn bao giờ hết. Tôi rất hy vọng Bà và anh chị em ở quê nhà rán treo gương sáng của đạo đức và hành động tốt của đạo đức trên tâm hồn hướng về công việc phước huệ đại đồng, giữa xã hội đầy dẫy tà ác xấu xa mà đem việc chơn chánh tốt lành ra thực hiện, cố nhiên, có nhiều chướng ngại khó khăn. Xin Bà và anh chị em ở quê nhà nên nghĩ vì sự cứu khổ chung và siêu thoát chung rán nhẫn nại và tinh tấn lướt tới mục đích của mình đã quyết định.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc Bà và anh chị em ở quê nhà đều được vạn an.
THANH SĨ
Lá thư số 151 : Tokyo, ngày 19-6-1967
Lá thư số 151 : Tokyo, ngày 19-6-1967
Tokyo, ngày 19-6-1967,
Hoài Ân thân mến,
Thơ ngày 8-6-67 tôi đã nhận được. Được biết Ân. anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà vẫn được mạnh lành. Nhưng cũng rất buồn khi được tin Đức Bà đã quá vãng. Trong lúc Đức Thầy vắng mặt mà cả Đức Ông và Đức Bà nối nhau từ trần ấy là điều đáng buồn và đáng tiếc nhứt ở trong đoàn thể Phật Giáo Hòa Hảo. Song xét lại đã mang xác phàm thì ai cũng có ngày mạng chung dù là hạng người nào. Ngay như song thân của Đức Thích Ca cũng vẫn tạ thế. Và Đức Thích Ca cũng phải nhập tịch, nhưng mà mặc dù phụ mẫu của Đức Thích Ca và Đức Thích Ca có bỏ xác đi nữa người tín đồ Phật giáo vẫn không bỏ con đường Đức Thích Ca vạch ra. Họ tin tưởng chắc chắn rằng đi theo con đường ấy sẽ được khỏi sông mê biển khổ và sẽ được gặp Đức Thích Ca trở lại.
Thơ ngày 8-6-67 tôi đã nhận được. Được biết Ân. anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà vẫn được mạnh lành. Nhưng cũng rất buồn khi được tin Đức Bà đã quá vãng. Trong lúc Đức Thầy vắng mặt mà cả Đức Ông và Đức Bà nối nhau từ trần ấy là điều đáng buồn và đáng tiếc nhứt ở trong đoàn thể Phật Giáo Hòa Hảo. Song xét lại đã mang xác phàm thì ai cũng có ngày mạng chung dù là hạng người nào. Ngay như song thân của Đức Thích Ca cũng vẫn tạ thế. Và Đức Thích Ca cũng phải nhập tịch, nhưng mà mặc dù phụ mẫu của Đức Thích Ca và Đức Thích Ca có bỏ xác đi nữa người tín đồ Phật giáo vẫn không bỏ con đường Đức Thích Ca vạch ra. Họ tin tưởng chắc chắn rằng đi theo con đường ấy sẽ được khỏi sông mê biển khổ và sẽ được gặp Đức Thích Ca trở lại.
Đó mới thật là chơn Phật thân và chơn trường tồn bất diệt. Kể từ ngày đó tới nay, Phật giáo đã hơn 2500 năm rồi mà vẫn được hàng muôn triệu tín đồ nối nhau tu hành và truyền bá luôn ở khắp thế giới. Và từ đây trở đi cũng sẽ được tiếp tục mãi mãi. Trên đây, tôi muốn nói là tuy Đức Ông, Đức Bà đã quá cố, đành rằng đó là một điều đáng buồn, nhưng tôi rất mong anh chị em trong đạo không thối chí, trái lại mỗi người đều biết chung lo bảo vệ mối đạo và dìu dắt nhau tiếp tục tiến mạnh trên con đường Phật pháp của Đức Thầy đã chỉ giáo.
Muốn bảo vệ chắc chắn mối đạo, trong giờ phút nầy anh chị em tín đồ cần phải nghĩ ngay đến sự nghiệp chung mà cùng nhau thật tâm đoàn kết hơn lúc nào hết. Nếu không đoàn kết sẽ không có triển vọng tốt đẹp sáng sủa ở trong tương lai và có thể do thời gian, do hoàn cảnh và do mình làm cho mòn yếu dần đi… Những điểm ấy đáng lo ngại nhứt và nên nhớ rằng được có lực lượng và được thành công lớn lao hầu hết là do sức đại đoàn kết không phải do sức của một cá nhân. Tôi thuyết tưởng như vậy và tôi cũng hy vọng được anh chị em đồng đạo cùng nghĩ đến như thế.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Ân, anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà đều được luôn luôn mạnh lành và tu hành sáng suốt.
THANH SĨ
Lá thư số 152: Tokyo 30-6-1967
Lá thư số 152: Tokyo 30-6-1967
Tokyo 30-6-1967,
Hoài Ân thân mến,
Ân, quý quyến, anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà có được an lành không? Ở bên nầy tôi vẫn được mạnh khỏe và độ vài tuần nữa là tôi sẽ được nghỉ hè. Mọi việc vẫn như thường không có sự gì thay đổi. Xin Ân và anh chị em ở quê nhà nên an lòng. Còn việc nhà việc nước tôi vẫn được nghe biết đến luôn… Nhưng nơi đây, tôi chỉ muốn nói về việc đạo. Đạo ở trong tình thế nào nó cũng vẫn là đạo. Lòng người có nhiều thay đổi, nhưng tánh đạo không bao giờ thay đổi.
Ân, quý quyến, anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà có được an lành không? Ở bên nầy tôi vẫn được mạnh khỏe và độ vài tuần nữa là tôi sẽ được nghỉ hè. Mọi việc vẫn như thường không có sự gì thay đổi. Xin Ân và anh chị em ở quê nhà nên an lòng. Còn việc nhà việc nước tôi vẫn được nghe biết đến luôn… Nhưng nơi đây, tôi chỉ muốn nói về việc đạo. Đạo ở trong tình thế nào nó cũng vẫn là đạo. Lòng người có nhiều thay đổi, nhưng tánh đạo không bao giờ thay đổi.
Tánh đạo là tánh thiện. Tánh thiện của đạo trước sau vẫn là thiện dù nó ở giữa cõi đời đầy tội ác. Đạo biết chắc rằng nếu làm ác thì sẽ gặp ác. Ác sẽ đưa đến kết quả thù hận đau khổ. Thế cho nên, đạo không bao giờ làm ác và cũng chẳng muốn cho ai làm ác. Đạo còn dám quả quyết rằng tạo ác tức là tạo địa ngục. Địa ngục trong khi sống và địa ngục sau khi chết. Vì vậy mà đạo luôn luôn khuyên người ta đừng làm việc ác và lúc nào cũng vạch cho người ta con đường thiện, chơn thiện.
Tánh đạo là tánh thiện, cho nên người đạo bao giờ cũng muốn hòa mình với tất cả mọi người để lo vừa cứu độ cho người được hết đau khổ và vừa giúp đỡ cho người được sự an vui. Trái lại, nếu có ai chẳng chịu hòa mình với người, chẳng làm điều an vui cho người mà là chỉ gây cho người những việc đau thương khốn khổ, như thế là người ấy đi sai tánh thiện của đạo.
Vậy Ân và anh chị em ở quê nhà nên xem nơi người ở những điểm như thế đó, để nhận định lẽ thiện ác. Rán noi làm gương thiện và rán tránh mọi việc ác.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Ân, quý quyến, anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà đều được vạn sự an lành và tu hành mau sáng tỏ.
THANH SĨ
Lá thư số 153: Tokyo, ngày 7-7-1967
Lá thư số 153: Tokyo, ngày 7-7-1967
Tokyo, ngày 7-7-1967,
Trường, Yến thân mến,
Lá thơ đề ngày 18-6-67 tôi đã nhận được. Cám ơn Trường, Yến. Trường, Yến, quý quyến và anh chị em ở quê nhà có được mạnh lành như thường không? Rán thận trọng cơ thể nhé! tôi lúc nầy cũng vẫn được sức khỏe, và kể từ hôm qua 6-7-67 tôi đã được nghỉ hè cho tới ngày 13-9-67. Tuy nhiên, có nhiều công việc tôi phải bận luôn. Nhưng mình bận để cho người khác được huệ ích tôi rất hoan hỷ không thấy chán ngán.
Lá thơ đề ngày 18-6-67 tôi đã nhận được. Cám ơn Trường, Yến. Trường, Yến, quý quyến và anh chị em ở quê nhà có được mạnh lành như thường không? Rán thận trọng cơ thể nhé! tôi lúc nầy cũng vẫn được sức khỏe, và kể từ hôm qua 6-7-67 tôi đã được nghỉ hè cho tới ngày 13-9-67. Tuy nhiên, có nhiều công việc tôi phải bận luôn. Nhưng mình bận để cho người khác được huệ ích tôi rất hoan hỷ không thấy chán ngán.
Trường, Yến! Trong lúc khô hạn rẫy bái khó làm và đã làm thì dễ bị khô héo. Người trồng rẫy muốn đám rẫy ngày mai được kết quả tươi tốt thì chớ nệ sợ nắng nôi khó nhọc, hãy ra công vun phân tưới nước cho thường. Nên tin chắc rằng sức cố gắng tưới tăng của mình sẽ có thể làm cho rẫy bái tươi tốt được và vượt qua được lúc khô hạn.
Vậy Trường, Yến rán nỗ lực tưới tăng săn sóc đám rẫy của mình nhé! (đám rẫy đạo pháp). Rán làm cho đám rẫy của chính mình được có kết quả tốt đẹp dồi dào để cung cấp cho giữa mình và mọi người. Xin đừng lúc nào cũng lãng quên mục đích ấy. Rán cố gắng phát huy mạnh mẽ ý chí giải mê cứu khổ một cách đại đồng. Trường, Yến khá nhớ luôn điều ấy và nên phương tiện khuyến khích những anh chị em khác được nhớ với.
Tu để độ mình và độ thế,
Khổ mình khổ khổ thế độ cho tan.
Độ nhau qua khỏi sông mê khổ,
Đồng được an vui cõi Niết bàn.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Trường, Yến, quý quyến và anh chị em xa gần ở quê nhà đều được vạn sự an lành.
THANH SĨ
Lá thư số 154: Tokyo, ngày 29-7-1967
Lá thư số 154: Tokyo, ngày 29-7-1967
Tokyo, ngày 29-7-1967,
Gởi Huỳnh Trung Tín
Huỳnh Trung Tín thân mến,
Thơ của Tín ngày 30-6-67 tôi đã nhận được. Rất cám ơn Tín. Ở bên nầy tôi vẫn được mạnh khỏe luôn và hiện thời còn đang trong vòng nghỉ hè (nghỉ hè cho đến ngày 13 tháng 9). Mọi việc chẳng có sự gì thay đổi đáng lo. Xin Tín, anh chị em đồng đạo và Bà Mười nên an tâm. Kế đó, Tín và tất cả anh chị em rán tương thân tương trợ lẫn nhau trong mọi việc an nguy và lo giúp đỡ khuyến khích nhau tu hành chơn chánh lương thiện trong mọi hoàn cảnh xuôi ngược.
Huỳnh Trung Tín thân mến,
Thơ của Tín ngày 30-6-67 tôi đã nhận được. Rất cám ơn Tín. Ở bên nầy tôi vẫn được mạnh khỏe luôn và hiện thời còn đang trong vòng nghỉ hè (nghỉ hè cho đến ngày 13 tháng 9). Mọi việc chẳng có sự gì thay đổi đáng lo. Xin Tín, anh chị em đồng đạo và Bà Mười nên an tâm. Kế đó, Tín và tất cả anh chị em rán tương thân tương trợ lẫn nhau trong mọi việc an nguy và lo giúp đỡ khuyến khích nhau tu hành chơn chánh lương thiện trong mọi hoàn cảnh xuôi ngược.
Gặp lúc đáng nhẫn nhục nên nhẫn nhục, gặp phải lúc đáng tinh tấn nên tinh tấn. Tất cả sự nhẫn nhục hay tinh tấn đều nhắm vào mục đích hoàn thành chánh đạo. Chánh đạo ấy luôn luôn gắn liền với cuộc đời của mình. Sống vì chánh đạo mà thác cũng vì chánh đạo. Cái chánh đạo ấy có quyết tâm cởi mở xiềng xích đau khổ mê muội của mình và của mọi người ở hiện nay và sau nầy. Chánh đạo rất có chung thỉ, rất có từ bi. Thế cho nên, cần phải sống theo chánh đạo và hành theo chánh đạo.
Có được như vậy mới có thể cứu được mình cứu được người ra khỏi kiếp sống đầy những ngang trái và tội lỗi. Vậy Tín và anh chị em ở quê nhà sáng nổ lực kiềm chế sửa chữa cho tâm hạnh được đi đúng chánh đạo. Anh chị em đồng đạo rán tu hành đúng chánh đạo mới không làm buồn lòng Đức Thầy, không hổ thẹn phận mình và cũng không khiến cho tủi nhục tổ tiên.
Chánh Đạo mới là đạo Thích Ca,
Rán hành chánh đạo hỡi quê nhà.
Tu lành giữa lúc người tu dữ,
Sống chánh trong khi kẻ sống tà.
Nẻo ác gian không về Phật Quốc,
Đường nhân thiện mới đến Liên Hoa.
Đạo mầu gặp được duyên xưa có,
Khá chánh chơn tu bớ trẻ già.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Tín, anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà đều được mạnh lành may mắn và huệ phát tâm khai.
THANH SĨ
Lá thư số 155: Tokyo, ngày 2-8-1967
Lá thư số 155: Tokyo, ngày 2-8-1967
Tokyo, ngày 2-8-1967,
Nho thân mến,
Nho và anh chị em ở quê nhà rán cố gắng công phu tô điểm, chớ vì thời gian kéo dài mờ mịt, vì tình thế gay go chua chát mà để cho thối chuyển đạo tâm. Những khi trong lòng xao lảng nhớ mật niệm câu "Nam mô Thường Tinh Tấn Bồ tát Ma ha tát". Và gặp lúc tâm vọng động nhớ thầm niệm câu "Nam mô Định Tâm Vương Bồ tát Ma ha tát". Đồng thời phải cương quyết tự chủ và tự trị lấy thân để đưa mình đến chỗ toàn giác toàn thiện, và nên nhứt nguyện trọn đời vì đạo, mà tử cũng vì đạo. Đạo từ bi và giải thoát cuộc đời mê si thống khổ của mình và tất cả vạn dân thiên hạ.
Nho và anh chị em ở quê nhà rán cố gắng công phu tô điểm, chớ vì thời gian kéo dài mờ mịt, vì tình thế gay go chua chát mà để cho thối chuyển đạo tâm. Những khi trong lòng xao lảng nhớ mật niệm câu "Nam mô Thường Tinh Tấn Bồ tát Ma ha tát". Và gặp lúc tâm vọng động nhớ thầm niệm câu "Nam mô Định Tâm Vương Bồ tát Ma ha tát". Đồng thời phải cương quyết tự chủ và tự trị lấy thân để đưa mình đến chỗ toàn giác toàn thiện, và nên nhứt nguyện trọn đời vì đạo, mà tử cũng vì đạo. Đạo từ bi và giải thoát cuộc đời mê si thống khổ của mình và tất cả vạn dân thiên hạ.
Rán trau giồi tư tưởng ngôn ngữ và hành vi đúng đạo từ bi giải thoát. Vậy Nho và anh chị em ở quê nhà rán tự mình và cũng nhớ giúp đỡ lẫn nhau tu hành cho tội lỗi càng ngày càng tiêu, công đức càng ngày càng lớn và trí huệ càng ngày càng sáng tỏ.
Cùng nhau kẻ chống người chèo,
Đưa nhau khỏi cảnh hiểm nghèo sông mê.
THANH SĨ
Lá thư số 156: Tokyo, ngày 12-8-1967
Lá thư số 156: Tokyo, ngày 12-8-1967
Tokyo, ngày 12-8-1967,
Hoài Ân thân mến,
Độ nầy Ân, quý quyến, anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà có được bình yên mạnh giỏi không? Bên nầy tôi vẫn được sức khỏe luôn và đang nghỉ hè. Mọi việc vẫn bình thường. Xin Ân và anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà nên an tâm. Tình trạng nội bộ của đoàn thể vẫn còn trong vòng lẩn quẩn lục đục nhau luôn phải không? Mỗi lần nhớ tới là mỗi lần lòng tôi thấy xốn xang luôn.
Nếu cứ lo ngao cò giữa nhau mãi như thế đó thì chỉ chiêu lấy những hậu quả bất lành hay nói một cách khác là chỉ xô nhau đến con đường không có lối thoát. Điều ấy, nếu anh em cùng nhau chịu lưu tâm xét nghĩ đến, tất sẽ thấy rõ sự lợi hại của nó như một với một là hai, giữa anh em trong đoàn thể phải biết phản tỉnh những khuyết điểm và phải có tinh thần giác ngộ sự nghiệp chung của Đạo và sự sanh tồn chung của giữa nhau, để cùng đồng tâm hiệp lực vạch cho nhau một con đường tiến tới rộng lớn sáng sủa, rất có nhiều hứa hẹn và hy vọng tốt đẹp ở hiện tại và sau nầy. Thế mới là sáng suốt.
Tốt xấu tại mình chẳng tại đâu,
Non sông phủ khắp khói mây sầu.
Con đường tương cứu bao người kiếm?
Họa phước ngày mai mấy kẻ âu?
Tội ác quyền oai lo chất đống,
Lỗi lầm danh vọng mãi đào sâu.
Khổ vui hậu quả suy thì biết,
Cứu được dân sanh chỉ đạo mầu.
Ân và anh chị em ở quê nhà rán nâng cao tâm hồn đạo đức và ở trong hoàn cảnh nào cũng rán tạo không khí hiền hòa. Đừng bao giờ quên mình là người có tôn giáo và nhớ luôn luôn đặt con người của mình trong giới hạnh luật nghi của tôn giáo một cách nghiêm chỉnh. Trong những việc nghe thấy nói làm mình nên học những điều tốt lành và nên răn những điều tội ác. Và nhớ khuyến khích nhau tin mạnh ở luật báo ứng. Sau hết là rán khích lệ giữa nhau khối tình tương thân tương trợ ở sự sống và sự tu.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Ân, quý quyến và tất cả anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được khương an.
Độ nầy Ân, quý quyến, anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà có được bình yên mạnh giỏi không? Bên nầy tôi vẫn được sức khỏe luôn và đang nghỉ hè. Mọi việc vẫn bình thường. Xin Ân và anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà nên an tâm. Tình trạng nội bộ của đoàn thể vẫn còn trong vòng lẩn quẩn lục đục nhau luôn phải không? Mỗi lần nhớ tới là mỗi lần lòng tôi thấy xốn xang luôn.
Nếu cứ lo ngao cò giữa nhau mãi như thế đó thì chỉ chiêu lấy những hậu quả bất lành hay nói một cách khác là chỉ xô nhau đến con đường không có lối thoát. Điều ấy, nếu anh em cùng nhau chịu lưu tâm xét nghĩ đến, tất sẽ thấy rõ sự lợi hại của nó như một với một là hai, giữa anh em trong đoàn thể phải biết phản tỉnh những khuyết điểm và phải có tinh thần giác ngộ sự nghiệp chung của Đạo và sự sanh tồn chung của giữa nhau, để cùng đồng tâm hiệp lực vạch cho nhau một con đường tiến tới rộng lớn sáng sủa, rất có nhiều hứa hẹn và hy vọng tốt đẹp ở hiện tại và sau nầy. Thế mới là sáng suốt.
Tốt xấu tại mình chẳng tại đâu,
Non sông phủ khắp khói mây sầu.
Con đường tương cứu bao người kiếm?
Họa phước ngày mai mấy kẻ âu?
Tội ác quyền oai lo chất đống,
Lỗi lầm danh vọng mãi đào sâu.
Khổ vui hậu quả suy thì biết,
Cứu được dân sanh chỉ đạo mầu.
Ân và anh chị em ở quê nhà rán nâng cao tâm hồn đạo đức và ở trong hoàn cảnh nào cũng rán tạo không khí hiền hòa. Đừng bao giờ quên mình là người có tôn giáo và nhớ luôn luôn đặt con người của mình trong giới hạnh luật nghi của tôn giáo một cách nghiêm chỉnh. Trong những việc nghe thấy nói làm mình nên học những điều tốt lành và nên răn những điều tội ác. Và nhớ khuyến khích nhau tin mạnh ở luật báo ứng. Sau hết là rán khích lệ giữa nhau khối tình tương thân tương trợ ở sự sống và sự tu.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Ân, quý quyến và tất cả anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được khương an.
THANH SĨ
Lá thư số 157: Tokyo, ngày 13-8-1967
Lá thư số 157: Tokyo, ngày 13-8-1967
Tokyo, ngày 13-8-1967,
Thưởng thân mến,
Thơ vừa rồi của Thưởng ở bên nầy tôi đã nhận được. Tình người cảnh nhà tuy ở đất khách xa xôi nhưng tôi vẫn biết rõ lắm. Tôi không vơi được nỗi buồn mặc dù tôi vẫn biết đó là một sự thử thách, một sự mài giũa như từ ngàn xưa đã nhỏ giọt đến nay. Tôi rất ước mong hầu hết anh chị em đồng đạo được có sự thấy biết và nhận định sáng suốt để tránh những sự cuốn lôi xúi giục của những kẻ đi trên con đường tà vạy bất nghĩa.
Nhìn đâu cũng thấy cảnh điêu linh,
Việc tới có ai được biết mình.
Sống chánh cho đời là giác ngộ,
Ở hòa với kẻ ấy thông minh.
Dữ thì dữ trả đừng làm dữ,
Lành có lành sanh rán tạo lành.
Đời loạn chớ rằng Trời cũng loạn,
Chớ theo bất nghĩa với ô danh.
Thơ vừa rồi của Thưởng ở bên nầy tôi đã nhận được. Tình người cảnh nhà tuy ở đất khách xa xôi nhưng tôi vẫn biết rõ lắm. Tôi không vơi được nỗi buồn mặc dù tôi vẫn biết đó là một sự thử thách, một sự mài giũa như từ ngàn xưa đã nhỏ giọt đến nay. Tôi rất ước mong hầu hết anh chị em đồng đạo được có sự thấy biết và nhận định sáng suốt để tránh những sự cuốn lôi xúi giục của những kẻ đi trên con đường tà vạy bất nghĩa.
Nhìn đâu cũng thấy cảnh điêu linh,
Việc tới có ai được biết mình.
Sống chánh cho đời là giác ngộ,
Ở hòa với kẻ ấy thông minh.
Dữ thì dữ trả đừng làm dữ,
Lành có lành sanh rán tạo lành.
Đời loạn chớ rằng Trời cũng loạn,
Chớ theo bất nghĩa với ô danh.
Thưởng và anh chị em đồng đạo ở quê nhà rán nâng cao trình độ nhận thức sự tà chánh giữa nhau và giúp nhau sống đúng đạo người, Tu đúng tình Phật. Nên khuyên nhau trong công việc làm nào cũng cần phải lưu tâm đến cái kết quả tốt xấu ở ngày mai.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Thưởng và anh chị em đồng đạo ở quê nhà được vạn an.
THANH SĨ
Lá thư số 158: Tokyo, ngày 26-8-1967
Lá thư số 158: Tokyo, ngày 26-8-1967
Tokyo, ngày 26-8-1967,
Hoài Ân thân mến,
Đọan thứ nhứt của quyển "Đến Liên Hoa" Ân đã nhận được chưa? Vài hôm nữa tôi sẽ gởi đọan thứ hai về. Mỗi đọan Ân nên phương tiện truyền bá cho anh chị em xa gần được xem đến.
Phật hóa thân trong mạt hạ kỳ,
Giáo trần bằng vạn lẽ huyền vi.
Hòa người với Phật Liên Hoa Hội,
Hảo dịp nầy đây có mấy khi.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Ân, quý quyến, anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà đều được khương an.
Đọan thứ nhứt của quyển "Đến Liên Hoa" Ân đã nhận được chưa? Vài hôm nữa tôi sẽ gởi đọan thứ hai về. Mỗi đọan Ân nên phương tiện truyền bá cho anh chị em xa gần được xem đến.
Phật hóa thân trong mạt hạ kỳ,
Giáo trần bằng vạn lẽ huyền vi.
Hòa người với Phật Liên Hoa Hội,
Hảo dịp nầy đây có mấy khi.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Ân, quý quyến, anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà đều được khương an.
THANH SĨ
Lá thư số 159: Tokyo, ngày 29-8-1967
Lá thư số 159: Tokyo, ngày 29-8-1967
Tokyo, ngày 29-8-1967,
Kính Thưa Má,
Lúc nầy Má có được mạnh khỏe không? Sự mạnh khỏe của Má tức là sự mạnh khỏe của con đấy. Xin Má nhớ ngủ cho đồng đều, ăn uống cho có điều độ bổ dưỡng để giữ gìn sức khỏe. Thoảng như có ươn yếu thì Má nhớ vừa cầu Phật hộ trì vừa lo uống thuốc men cho mau lành mạnh.
Không tiếc thân nhưng chẳng hủy thân,
Thân là thuyền của cái tinh thần.
Tinh thần muốn được qua sông khổ,
Mạnh khỏe cho thân việc đáng cần.
---
Mạnh khỏe cho thân việc đáng cần,
Điều hòa giấc ngủ với đồ ăn,
Đau vừa cầu Phật vừa thang thuốc,
Hai sức hòa nhau chóng mạnh hơn.
Ở bên nầy lúc nào con cũng cầu Phật Thần nhứt là Đức Phật Quan Âm hộ độ cho Má luôn luôn mạnh khỏe và tất cả anh chị em đồng đạo đều được an lành.
Vắn tắt có mấy lời, con xin cầu chúc cho Má đạo thể khương an và xin Má trao lời con kính thăm tất cả anh chị em đồng đạo.
Lúc nầy Má có được mạnh khỏe không? Sự mạnh khỏe của Má tức là sự mạnh khỏe của con đấy. Xin Má nhớ ngủ cho đồng đều, ăn uống cho có điều độ bổ dưỡng để giữ gìn sức khỏe. Thoảng như có ươn yếu thì Má nhớ vừa cầu Phật hộ trì vừa lo uống thuốc men cho mau lành mạnh.
Không tiếc thân nhưng chẳng hủy thân,
Thân là thuyền của cái tinh thần.
Tinh thần muốn được qua sông khổ,
Mạnh khỏe cho thân việc đáng cần.
---
Mạnh khỏe cho thân việc đáng cần,
Điều hòa giấc ngủ với đồ ăn,
Đau vừa cầu Phật vừa thang thuốc,
Hai sức hòa nhau chóng mạnh hơn.
Ở bên nầy lúc nào con cũng cầu Phật Thần nhứt là Đức Phật Quan Âm hộ độ cho Má luôn luôn mạnh khỏe và tất cả anh chị em đồng đạo đều được an lành.
Vắn tắt có mấy lời, con xin cầu chúc cho Má đạo thể khương an và xin Má trao lời con kính thăm tất cả anh chị em đồng đạo.
Con của Má
Lá thư số 160: Tokyo, ngày 5-9-1967
Lá thư số 160: Tokyo, ngày 5-9-1967
Tokyo, ngày 5-9-1967,
Nho thân mến,
Đường tu giống như đường đi thỉnh kinh Đông Độ của Tam Tạng, có nhiều hùm beo yêu quái đón ngỏ ngăn truông. Nếu thiếu can đảm, nhẹ đức tin và thiếu tinh thần tự chủ thì dễ bị xô ngã giữa đường, không thể đi đến chốn được. Vậy Nho và anh chị em ở quê nhà rán đi đến nơi đến chốn như Tam Tạng thời xưa.
Sống trong cái sống tu hành,
Chết trong cái chết vãng sanh Phật đài.
Đường tu giống như đường đi thỉnh kinh Đông Độ của Tam Tạng, có nhiều hùm beo yêu quái đón ngỏ ngăn truông. Nếu thiếu can đảm, nhẹ đức tin và thiếu tinh thần tự chủ thì dễ bị xô ngã giữa đường, không thể đi đến chốn được. Vậy Nho và anh chị em ở quê nhà rán đi đến nơi đến chốn như Tam Tạng thời xưa.
Sống trong cái sống tu hành,
Chết trong cái chết vãng sanh Phật đài.
THANH SĨ
Lá thư số 161: Tokyo, ngày 11-9-1967
Lá thư số 161: Tokyo, ngày 11-9-1967
Tokyo, ngày 11-9-1967,
Ngọc Ẩn thân mến,
Tôi đã nhận được thơ Ẩn. Rất cám ơn Ẩn. Đọc thơ thấy Ẩn biểu lộ ý chí tu hành tôi rất cảm động! Ẩn đã biết rằng: "Vạn sự do tâm" thì phải rán làm chủ cái tâm. Tâm sanh ma được thì nhứt định Tâm sanh Phật được, phải tự đem cái Tâm sanh ma đổi ra cái Tâm sanh Phật. Phải tự điều khiển cái tâm đi theo con đường của mình đã định:
- Phải dùng pháp quán tưởng vạn vật giai không để diệt trừ cái tâm say mê tài sắc hồng trần.
- Phải có chí can đảm bỏ được những điều khó bỏ và làm được những điều khó làm. Mình biết lòng mình rõ hơn ai hết. Những thói hư tật xấu của mình thì mình phải tự bỏ không ai bỏ thay cho mình được. Tu mà không có chí cương quyết sắt thép thì không thể nào tu cho thành đạo.
- Phải cương quyết tu tâm luyện tánh cho thanh tịnh quang minh từ bi chí nguyện đúng như chánh pháp. Nếu nay không được thì nhứt định mai mốt cũng phải cho được.
- Phải luôn luôn cương quyết theo đuổi chí nguyện cao siêu, đừng bao giờ để mình bị các chướng ngại, các thử thách làm cho lùi bước.
Vạn sự do tâm, phải chủ tâm,
Cho tâm sanh Phật chớ sanh phàm.
Nhiệt tâm cầu Phật cầu siêu thoát,
Đời sẽ tan dần những muốn ham.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Ẩn, quý quyến và anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được vạn sự an lành.
Tôi đã nhận được thơ Ẩn. Rất cám ơn Ẩn. Đọc thơ thấy Ẩn biểu lộ ý chí tu hành tôi rất cảm động! Ẩn đã biết rằng: "Vạn sự do tâm" thì phải rán làm chủ cái tâm. Tâm sanh ma được thì nhứt định Tâm sanh Phật được, phải tự đem cái Tâm sanh ma đổi ra cái Tâm sanh Phật. Phải tự điều khiển cái tâm đi theo con đường của mình đã định:
- Phải dùng pháp quán tưởng vạn vật giai không để diệt trừ cái tâm say mê tài sắc hồng trần.
- Phải có chí can đảm bỏ được những điều khó bỏ và làm được những điều khó làm. Mình biết lòng mình rõ hơn ai hết. Những thói hư tật xấu của mình thì mình phải tự bỏ không ai bỏ thay cho mình được. Tu mà không có chí cương quyết sắt thép thì không thể nào tu cho thành đạo.
- Phải cương quyết tu tâm luyện tánh cho thanh tịnh quang minh từ bi chí nguyện đúng như chánh pháp. Nếu nay không được thì nhứt định mai mốt cũng phải cho được.
- Phải luôn luôn cương quyết theo đuổi chí nguyện cao siêu, đừng bao giờ để mình bị các chướng ngại, các thử thách làm cho lùi bước.
Vạn sự do tâm, phải chủ tâm,
Cho tâm sanh Phật chớ sanh phàm.
Nhiệt tâm cầu Phật cầu siêu thoát,
Đời sẽ tan dần những muốn ham.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Ẩn, quý quyến và anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được vạn sự an lành.
THANH SĨ
Lá thư số 162: Tokyo … năm 1967
Lá thư số 162: Tokyo … năm 1967
Tokyo … năm 1967
Bửu Lảng thân mến,
Gương xưa đất nước nếu cùng soi,
Đâu đến tóc tang cả giống nòi.
Quả trước tất không cơ nẩy nở,
Tội nay tất chẳng cớ sanh sôi.
Rồng đâu lộn kiếp bò như rắn,
Tiên há ra thân khổ tợ giòi.
Mong mỏi toàn dân đều giác ngộ,
Dừng trang sử máu lại đi thôi.
Gương xưa đất nước nếu cùng soi,
Đâu đến tóc tang cả giống nòi.
Quả trước tất không cơ nẩy nở,
Tội nay tất chẳng cớ sanh sôi.
Rồng đâu lộn kiếp bò như rắn,
Tiên há ra thân khổ tợ giòi.
Mong mỏi toàn dân đều giác ngộ,
Dừng trang sử máu lại đi thôi.
THANH SĨ
Lá thư số 163: Tokyo, ngày 19-9-1967
Lá thư số 163: Tokyo, ngày 19-9-1967
Tokyo, ngày 19-9-1967,
Trường, Yến thân mến,
Lá thơ vừa rồi của Trường, Yến Tôi đã nhận được. Tôi vẫn mạnh như thường, xin Trường, Yến nên an tâm. Tôi đã đi dạy ở đại học hồi tuần rồi. Suốt mùa nghỉ hè năm nay tôi chỉ đi viếng một vài danh thiền thắng tích mà thôi. Không đi nhiều nơi như những năm qua, vì lý do phải bận việc và cũng vì không đủ phương tiện.
Chùa yên núi vắng như nhau,
Do người qua lại làm xao núi chùa.
Trước bàn Tam bảo tôi thưa,
Phật ơi! Được mấy người ưa tu hành.
Tai nghe như Phật ứng thinh,
Rằng là ít kẻ hữu tình đường tu!
Tàn nhang cúng đốt lu bù
Cầu đời hết chín, cầu tu một người.
Trường, Yến rán tiến đều, vững tiến trên con đường đạo nhé! Tôi rất hoan hỷ được nghe có bao nhiêu người đã thức tâm qua cuốn "Hiển Đạo" do Trường tặng cho.
Bảy báu khó so lời khuyến thiện,
Một người tu được phước muôn cân.
Chuông từ sớm tối nên đem dộng,
Thức kẻ đang say giữa mộng trần.
---
Chớ nản những khi đời khảo đảo,
Đừng buồn trong lúc bước chông chênh.
Kiếp nầy rán vẹn trên đường đạo,
Cõi Tịnh Đài Sen sẽ đáp đền.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Trường. Yến, quý quyến và anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được vạn sự an lành.
Lá thơ vừa rồi của Trường, Yến Tôi đã nhận được. Tôi vẫn mạnh như thường, xin Trường, Yến nên an tâm. Tôi đã đi dạy ở đại học hồi tuần rồi. Suốt mùa nghỉ hè năm nay tôi chỉ đi viếng một vài danh thiền thắng tích mà thôi. Không đi nhiều nơi như những năm qua, vì lý do phải bận việc và cũng vì không đủ phương tiện.
Chùa yên núi vắng như nhau,
Do người qua lại làm xao núi chùa.
Trước bàn Tam bảo tôi thưa,
Phật ơi! Được mấy người ưa tu hành.
Tai nghe như Phật ứng thinh,
Rằng là ít kẻ hữu tình đường tu!
Tàn nhang cúng đốt lu bù
Cầu đời hết chín, cầu tu một người.
Trường, Yến rán tiến đều, vững tiến trên con đường đạo nhé! Tôi rất hoan hỷ được nghe có bao nhiêu người đã thức tâm qua cuốn "Hiển Đạo" do Trường tặng cho.
Bảy báu khó so lời khuyến thiện,
Một người tu được phước muôn cân.
Chuông từ sớm tối nên đem dộng,
Thức kẻ đang say giữa mộng trần.
---
Chớ nản những khi đời khảo đảo,
Đừng buồn trong lúc bước chông chênh.
Kiếp nầy rán vẹn trên đường đạo,
Cõi Tịnh Đài Sen sẽ đáp đền.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Trường. Yến, quý quyến và anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được vạn sự an lành.
THANH SĨ
Lá thư số 164 : Tokyo, ngày 20-9-1967
Lá thư số 164 : Tokyo, ngày 20-9-1967
Tokyo, ngày 20-9-1967,
Gởi Dương Trung Tín
Dương Trung Tín thân mến,
Tôi đã nhận được thơ của Tín lâu rồi, nhưng vì bận nhiều việc nên hôm nay mới hồi tin được. Xin Tín thông cảm cho. Hiện thời tôi vẫn được mạnh khỏe, mọi việc vẫn như thường, không có sự gì thay đổi. Xin Tín và anh chị em đồng đạo ở quê nhà an lòng và rán nâng đỡ lẫn nhau trong sự sống cũng như trong sự tu cho có nhiều phát triển tốt đẹp.
Dương Trung Tín thân mến,
Tôi đã nhận được thơ của Tín lâu rồi, nhưng vì bận nhiều việc nên hôm nay mới hồi tin được. Xin Tín thông cảm cho. Hiện thời tôi vẫn được mạnh khỏe, mọi việc vẫn như thường, không có sự gì thay đổi. Xin Tín và anh chị em đồng đạo ở quê nhà an lòng và rán nâng đỡ lẫn nhau trong sự sống cũng như trong sự tu cho có nhiều phát triển tốt đẹp.
Về mặt vật chất cũng như tinh thần của con người, do ảnh hưởng thời gian chiến tranh mà có lắm điều thay đổi. Ngoài sự tưởng tượng bình thường, thay đổi tốt thì ít mà thay đổi xấu thì nhiều, đó là cái tánh chung. Song những người có đạo mà thay đổi đến mất đạo tâm, trở lại mê đời hơn người đời, điều ấy thật đáng tiếc.
Đạo tâm để mất đi rồi,
Bạc muôn cũng khó cho người chuộc ra.
Thà mất mạng chớ không để mất đạo tâm. Vì nếu để mất đạo tâm thì cuộc đời bị chìm sâu trong biển khổ. Đạo tâm là mầm mống hạnh phúc là mối dường giải thoát của con người. Thế cho nên cần phải giữ chặt đạo tâm, dù ở trong thời cuộc nào và hoàn cảnh nào. Được có như vậy mới là người biết sống có hy vọng cao siêu tốt đẹp ở tương lai. Tôi rất mong mỏi cái đạo tâm của anh chị em đồng đạo ở quê nhà được giữ còn mãi mãi, và chỉ có lớn ra chớ không bị nhỏ lại, hay là bị mất đi. Nền đạo được sáng sủa, tình thương nhau ở trong khối tín đồ được thấm thía, và có con đường rộng rãi phúc lợi chung cho từ đây trở đi, chính là do cái đạo tâm ấy làm nguồn gốc. Tôi nhận thấy như vậy.
Tín! chinh phục các thử thách của đời để giữ còn đạo tâm, làm một điều rất khó khăn hơn đi ngang qua khu rừng đầy thú dữ mà giữ còn tánh mạng. Nhưng "Vạn sự do tâm" khi tâm đã nhứt quyết thì việc khó mấy cũng có thể làm được. Tôi hy vọng ở quê nhà, Tín cũng như tất cả anh chị em đồng đạo rán cố gắng chẳng những giữ được đạo tâm mà còn tiến đến chỗ đạt được đạo quả.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Tín và tất cả anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được vạn an.
THANH SĨ
Lá thư số 165: Tokyo, ngày 12-10-1967
Lá thư số 165: Tokyo, ngày 12-10-1967
Tokyo, ngày 12-10-1967,
Nho thân mến,
Cò và thơ đề ngày 25-9-67 Tôi đã nhận được. Xin cám ơn Nho. Bên nầy tôi vẫn được khỏe mạnh như thường. Xin Nho và anh chị em ở quê nhà nên an tâm. Nho ơi! Thấy Nho nói anh chị em ở quê nhà đều trông tôi về tôi rất cảm động. Chính tôi cũng rất muốn về chẳng kém gì anh chị em ở quê nhà trông tôi về, nhưng tôi chưa về là vì chưa có dịp mà thôi. Khi có dịp tôi sẽ về ngay để gặp tất cả anh chị em để thỏa lòng nhớ thương chờ đợi, tôi đâu có vui gì mà ở mãi xứ lạ.
Cò và thơ đề ngày 25-9-67 Tôi đã nhận được. Xin cám ơn Nho. Bên nầy tôi vẫn được khỏe mạnh như thường. Xin Nho và anh chị em ở quê nhà nên an tâm. Nho ơi! Thấy Nho nói anh chị em ở quê nhà đều trông tôi về tôi rất cảm động. Chính tôi cũng rất muốn về chẳng kém gì anh chị em ở quê nhà trông tôi về, nhưng tôi chưa về là vì chưa có dịp mà thôi. Khi có dịp tôi sẽ về ngay để gặp tất cả anh chị em để thỏa lòng nhớ thương chờ đợi, tôi đâu có vui gì mà ở mãi xứ lạ.
Có nhiều đêm suốt sáng tôi không thể nào ngủ được, vì trong đầu óc cứ suy tư nhớ tưởng đến cảnh giặc giã ở quê hương, nhớ đến mẹ già và nhớ đến anh chị em đồng đạo và đồng bào. Một ngày cầm chân nơi đất khách, tôi thấy dài như một năm. Điều nầy, chắc Nho và anh chị em ở quê nhà cũng cảm biết được.
Trong lúc chờ đợi ngày tương ngộ, tôi hy vọng Nho và tất cả anh chị em ở quê nhà rán đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong sự sống cũng như trong sự tu niệm cho được phát triển tốt lành. Đồng thời, rán tập trung hành động tư tưởng trên đường từ thiện, hòa bình và hạnh phúc chung và lo giải khổ cho nhau đừng bao giờ gây thêm sự khổ.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Nho, gia quyến và anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được luôn luôn mạnh lành và tu hành sáng suốt.
THANH SĨ
Lá thư số 166: Tokyo, ngày 27-10-1967
Lá thư số 166: Tokyo, ngày 27-10-1967
Tokyo, ngày 27-10-1967,
Đức Thắng thân mến,
Tôi vừa được thơ của Đức Thắng (vừa qua). Biết gia đình Thắng, anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà vẫn được mạnh lành tôi rất yên tâm nhiều. Ở bên nầy tôi vẫn được sức khỏe, không có gì thay đổi đáng lo. Xin Thắng và anh chị em ở quê nhà nên an lòng và nên dũng mãnh tinh tấn tu hành cho được toàn thiện toàn minh.
Tôi vừa được thơ của Đức Thắng (vừa qua). Biết gia đình Thắng, anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà vẫn được mạnh lành tôi rất yên tâm nhiều. Ở bên nầy tôi vẫn được sức khỏe, không có gì thay đổi đáng lo. Xin Thắng và anh chị em ở quê nhà nên an lòng và nên dũng mãnh tinh tấn tu hành cho được toàn thiện toàn minh.
Những chỗ nghi vấn của Thắng nơi đây tôi xin có ý kiến đại khái là: Người làm lành mà lòng không tự đắc (không trước tâm nhơn ngã) và cũng không mong được hưởng những phước báo thế gian thì sẽ không duyên cớ gì trói buộc vào cảnh luân hồi để chịu các thống khổ. Trái lại, tu mà làm được nhiều sự lành là được tăng trưởng công đức, có thể trợ giúp cho sự giải thoát hồng trần cho được mau lẹ, chớ không có trở ngại cho việc quán chiếu bổn tâm.
Cho nên, các Phật, các Tổ đều làm lành. Dám thí những cái khó thí cho người nghèo đói bịnh hoạn, dám chịu chết cho người được sống còn, dám chịu đau khổ để cho người được an vui, dám chịu vào địa ngục để giải cứu kẻ bị đày đọa và dám chịu lăn thân trong sáu đường (lục đạo) để tế độ chúng sanh v.v… Rất có vô số những việc làm lành như vậy, không thể kể hết được. Những việc làm lành ấy đều cho lòng từ bi và đều luôn luôn làm lành. Nhưng tất cả công đức của những việc làm lành đều hồi hướng về cõi Phật. Không mong hưởng phước ở cõi thế gian. Do phát tâm như vậy, cho nên quả thế gian không còn, chỉ còn quả Phật, nghĩa là chỉ về Phật. Ngoài ra còn mấy điều nữa của Thắng đã hỏi, tôi xin tóm lại là: Làm lành, bố thí, tu nhân, tu Phật và phát tâm gì cũng đều hồi hướng về cõi bất sanh bất diệt thì nhứt định sẽ được giải thoát, vì rằng chẳng còn sót lại những thứ nhân duyên nghiệp chủng luân hồi trong tam giới.
Trái lại, những người tụng Kim Cang niệm Di Đà hoặc hành tứ cú kệ mà vẫn còn vọng khởi tâm trần, còn chấp tướng nhân ngã, thì vẫn còn bị các điều ấy trói buộc trong cõi tương đối. Nghĩa là không được giải thoát. Đại khái như vậy, xin Thắng và anh chị em đồng đạo ở quê nhà nên căn cứ ở chân lý và chánh pháp để hiểu cho sát nghĩa chân như của đạo Phật.
Tôi rất hy vọng Thắng và anh chị em đồng đạo ở quê nhà đọc kinh phải hiểu nghĩa chơn của kinh và nên thể theo ý pháp của Đức Phật, của Chư Tổ và của Đức Thầy để mà tự mở gút mê cho mình mau chóng.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin cầu chúc cho Thắng, quý quyến, anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà đều được mạnh lành và tu hành mau tỏ ngộ.
THANH SĨ
P.B.: Vừa giúp đời vừa công phu, trong công phu mà vẫn giúp đời. Nên dung hòa cho đồng đều cả hai, chớ để thiên trệ. Nếu để thiên trệ thì còn bị thiên lệch tương đối. Như vậy là còn trong cảnh chấp mắc.
Lá thư số 167: Tokyo, ngày 7-11-1967
Lá thư số 167: Tokyo, ngày 7-11-1967
Tokyo, ngày 7-11-1967,
Duy Chúc thân mến,
Bức thơ của Chúc mới đây tôi đã nhận được, đọc thấy Chúc và anh chị em đồng đạo ở quê nhà vẫn được mạnh lành và vẫn hoài cổ và vẫn nhớ nghĩa cũ tình xưa, tôi rất cảm động. Riêng tôi ở bên nầy cũng được sức khỏe như thường. Xin Chúc và anh chị em ở quê nhà chớ lo ngại.
Bức thơ của Chúc mới đây tôi đã nhận được, đọc thấy Chúc và anh chị em đồng đạo ở quê nhà vẫn được mạnh lành và vẫn hoài cổ và vẫn nhớ nghĩa cũ tình xưa, tôi rất cảm động. Riêng tôi ở bên nầy cũng được sức khỏe như thường. Xin Chúc và anh chị em ở quê nhà chớ lo ngại.
Chúc ơi! bom đạn chiến tranh, không những phá hoại cảnh vật mà còn phá hoại lòng người. Cảnh vật bị phá hoại thì có thể tái lập, nhưng lòng người bị phá hoại rất khó phục hồi. Vậy Chúc và anh chị em ở quê nhà rán bảo tồn lòng mình, đi theo chí hướng của mình và cố gắng chinh phục được mọi chướng ngại thử thách cám dỗ bất lành trong chiến tranh.
Chiến tranh càng lâu, cảnh khổ càng nhiều, nên rất cần có sự giúp đỡ lẫn nhau trong lúc chiến tranh, có giá trị gấp bao nhiêu lần hơn lúc hòa bình? Một nắm khi đói bằng một gói khi no là thế, cho nên bất luận sự giúp đỡ tốt lành nào giữa đồng bào đồng đạo đều đáng được hoan nghinh khích lệ cả. Tôi rất hy vọng Chúc và anh chị em ở quê nhà đều được nhứt trí giúp đỡ lẫn nhau không ngừng về đời sống và đạo lý bằng mọi phương châm thích ứng.
Trong lúc hoạn nạn loạn lạc, những việc chơn chánh tốt lành đạo nghĩa đều rất cần như là cần những gào nước trong khi nhà cháy, nhưng rất khó làm được. Nếu muốn thực hiện được những điều ấy, trước hết phải có tinh thần đạo đức thật mạnh và có chí nhẫn nại cương quyết đầy đủ. Những điều nầy, Chúc và anh chị em ở quê nhà có thể có được, hãy rán tiến hành cho đến chỗ thỏa nguyện.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Chúc, gia quyến được vạn sự bình an và tu hành trọn lành trọn sáng.
THANH SĨ
Lá thư số 168: Tokyo, ngày 18-11-1967
Lá thư số 168: Tokyo, ngày 18-11-1967
Tokyo, ngày 18-11-1967,
Gởi Võ Trung Thành
Võ Trung Thành thân mến,
Tôi đã nhận được thơ của Trung Thành. Tôi rất cám ơn Trung Thành nhiều lắm. Đọc thấy tâm niệm của Trung Thành đã bày tỏ trong thơ, tôi vừa cảm thông, vừa ngậm ngùi đáo để. Trung Thành! Trong nước cũng như trong đoàn thể đã và đang có những gì tang thương khúc chiết ở bên nầy tôi vẫn có tin và vẫn được biết luôn. Tôi cũng rất đau lòng tủi dạ như Trung Thành và tất cả anh chị em ở quê nhà.
Do đó mà lòng muốn về nước trong người tôi cứ thúc đẩy dồn dập không ngừng. Nhưng, sau bao nhiêu lần xét lại thế nước và tình người, thấy rằng chưa phải lúc về thành thử ngày về của tôi vẫn còn trong vòng chờ đợi quá khổ tâm. Tuy nhiên, ngày về ấy nhứt định sẽ đến, tôi sẽ gặp lại tất cả anh chị em có thiện chí ở quê nhà. Tôi tin chắc như vậy. Trung Thành có tin như thế không? Riêng tôi lúc nào cũng nguyện là:
Võ Trung Thành thân mến,
Tôi đã nhận được thơ của Trung Thành. Tôi rất cám ơn Trung Thành nhiều lắm. Đọc thấy tâm niệm của Trung Thành đã bày tỏ trong thơ, tôi vừa cảm thông, vừa ngậm ngùi đáo để. Trung Thành! Trong nước cũng như trong đoàn thể đã và đang có những gì tang thương khúc chiết ở bên nầy tôi vẫn có tin và vẫn được biết luôn. Tôi cũng rất đau lòng tủi dạ như Trung Thành và tất cả anh chị em ở quê nhà.
Do đó mà lòng muốn về nước trong người tôi cứ thúc đẩy dồn dập không ngừng. Nhưng, sau bao nhiêu lần xét lại thế nước và tình người, thấy rằng chưa phải lúc về thành thử ngày về của tôi vẫn còn trong vòng chờ đợi quá khổ tâm. Tuy nhiên, ngày về ấy nhứt định sẽ đến, tôi sẽ gặp lại tất cả anh chị em có thiện chí ở quê nhà. Tôi tin chắc như vậy. Trung Thành có tin như thế không? Riêng tôi lúc nào cũng nguyện là:
Hoàng Pháp lòng tôi chẳng lợt màu,
Dẫu rằng gặp phải lắm gian lao,
Mượn ngàn phương tiện đường tu mở,
Tùy vạn căn lành mối đạo trao,
Phật Quốc nguyện đem thiên hạ đến,
Liên Hoa quyết dắt chúng sanh vào,
Ví nay tế thể chưa như ý,
Thệ nối làm ngay kiếp kế sau.
Trên đường tu, lúc nào tôi cũng hy vọng Trung Thành cũng như tất cả anh chị em đồng đạo khác ở quê nhà rán tu chơn chánh sáng suốt và tiến tới luôn, đừng bao giờ lùi bước trước các chướng ngại rủ quyến của mọi tình đời. Rán tu cho chánh tâm chánh hạnh để được minh Phật tánh và chứng đạo mầu. Đó là ý nguyện duy nhứt của người hành đạo. Có được minh chứng như vậy mới sớm hoàn thành được chí nguyện tự độ độ tha ngay kiếp đương đời. Tôi nghĩ rằng: Nước Việt Nam của dân Việt Nam, dân Việt Nam của nước Việt Nam chỉ là một và nhứt định phải được tự do hòa bình độc lập thật sự.
Những điều nầy mỗi người dân Việt Nam đều có bổn phận phải làm hoàn thành và có quyền đòi hỏi cho kỳ được. Nhứt là những người mang danh là nhà cách mạng ái quốc lại càng phải có đủ sáng suốt can đảm trong việc thay đổi vận mạng của nước nhà hơn ai hết. Nói tóm lại là phải làm cho nước nhà còn, chớ làm nước nhà mất.
Về việc đạo và việc nước, nơi đây tôi chỉ muốn nói sơ qua như vậy, tôi mong rằng Trung Thành và tất cả anh chị em ở quê nhà đối với nước, nhà đạo lý nên có chủ định chơn chánh, rõ rệt trong sự thăng trầm còn mất chung, để đem lại phúc ích cho nước nhà, quang minh cho nền đạo và cũng để tránh cho giữa mình với nhau khỏi những ân hận dở dang lầm lạc đáng tiếc.
Xin Trung Thành và anh chị em ở quê nhà rán cố gắng cho được mãn nguyện.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Trung Thành, quý quyến và tất cả anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được vạn sự an lành và tu hành sáng suốt.
THANH SĨ
Lá thư số 169: Tokyo, ngày 19-11-1967
Lá thư số 169: Tokyo, ngày 19-11-1967
Tokyo, ngày 19-11-1967,
Gởi Phạm Văn Bảo
Phạm Văn Bảo thân mến,
Phạm Văn Bảo thân mến,
Bảo và bà con quê nhà có được mạnh lành không? Ở bên nầy tôi vẫn được sức khỏe như thường, xin Bảo và anh chị em ở quê nhà nên an lòng và rán lo tu hành chơn chánh. Bảo ơi! ngọn lửa chiến tranh cháy đến cao độ, chất vàng thau trong người đã lọc đến đâu? Bảo đã được thấy biết nhiều chưa? Bảo rán tu thân và chú tâm trên đường thiện, dù rằng sống giữa hoàn cảnh xã hội đầy bắn giết hung hăng bạo ác.
Có thiện mới biến khổ thành vui, đổi họa ra phước và chuyển đọa ra siêu. Cho nên người đời muốn tương lai được giải thoát, muốn hiện hữu được thanh bình trước hết phải phát tâm thiện và hành thiện. Nên phát tâm thiện và hành thiện một cách vô ngã. Có được như vậy mới thật là chơn thiện. Có được chơn thiện mới được chơn giải thoát và chơn thanh bình.
Con người dù muốn dù không cũng phải sống trong luật nhân quả. Luật nhân quả vốn vô tư. Ai làm việc gì tất có sự đền trả đúng việc ấy. Cho nên dù sống trong cảnh trạng nào cũng đừng hành động ác và đừng suy nghĩ ác, luôn luôn thi thiết điều thiện và lo tưởng việc thiện.
Vả lại, xã hội con người vì có nhiều việc ác khiến có lắm cảnh đau khổ, xấu xa tồi tệ cho nên cần phải có nhiều việc thiện để đem lại sự an vui trong sạch tốt lành. Đó là bổn phận của người biết yêu đồng bào nhân loại, và cũng là một việc làm phước lợi cho nhân sanh của người đã giác ngộ Phật pháp. Thế nên, tôi rất hy vọng Bảo và tất cả anh chị em ở quê nhà nên cố gắng hành thiện và tùy phương tiện khuyến khích nhau mở rộng đường thiện ở khắp dân gian. Trong lúc thiên hạ đang đua nhau lo làm những việc ác thì kẻ muốn lo làm thiện, cố nhiên gặp nhiều chướng ngại khó khăn, nhưng với sự cương quyết, lòng tin tưởng mạnh mẽ của mình nhứt định sẽ vượt qua và sẽ đạt đến mục đích được.
Xin Bảo và anh chị em ở quê nhà rán kiên gan lướt tới để hoàn thành con đường thiện một cách mỹ mãn.
Cố gắng làm nên muôn việc thiện,
Dù rằng việc thiện ít ai làm,
Đời an do thiện vui do thiện,
Thiện vốn đường đi khỏi kiếp phàm.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Bảo, quý quyến và anh chị em gần xa ở quê nhà đều được vạn sự an lành.
THANH SĨ
Lá thư số 170: Tokyo, ngày 3-12-1967
Lá thư số 170: Tokyo, ngày 3-12-1967
Tokyo, ngày 3-12-1967,
Đoàn Văn Bá thân mến,
Cám ơn Bá đã có lòng viết thơ thăm tôi. Tôi vẫn còn nhớ Bá và vẫn hình dung được mặt mũi của Bá đấy. Ở bên nầy tôi vẫn được mạnh và vẫn còn đi dạy ở đại học. Bá, dù là quân nhân vẫn giữ căn bản đạo đức nhé! Đạo đức là ánh sáng trong gia đình, trong xã hội. Người có nhiều đạo đức sẽ có nhiều hạnh phúc an vui. Nhứt là trong lúc nước nhà chiến tranh tang tóc càng cần có nhiều đạo đức, nhiều tình thương để xoa dịu những nỗi đau khổ của đồng bào dân tộc.
Cám ơn Bá đã có lòng viết thơ thăm tôi. Tôi vẫn còn nhớ Bá và vẫn hình dung được mặt mũi của Bá đấy. Ở bên nầy tôi vẫn được mạnh và vẫn còn đi dạy ở đại học. Bá, dù là quân nhân vẫn giữ căn bản đạo đức nhé! Đạo đức là ánh sáng trong gia đình, trong xã hội. Người có nhiều đạo đức sẽ có nhiều hạnh phúc an vui. Nhứt là trong lúc nước nhà chiến tranh tang tóc càng cần có nhiều đạo đức, nhiều tình thương để xoa dịu những nỗi đau khổ của đồng bào dân tộc.
Và kể từ đây nước nhà rất cần đến những tâm hồn yêu nước trong trắng, những bàn tay xây dựng chơn thành của tuổi trẻ. Bá rán phương tiện bồi bổ khả năng đề cao ý chí để trở thành đứa con hữu dụng của tổ quốc và con người phước lợi của nhân sanh.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Bá và bửu quyến đều được vạn sự an lành.
THANH SĨ
Lá thư số 171: Tokyo, ngày 11-12-1967
Lá thư số 171: Tokyo, ngày 11-12-1967
Tokyo, ngày 11-12-1967,
Thưa Má,
Bức thơ ngày 12-11-67 con đã nhận được. Nhưng bận việc mãi đến hôm nay mới hồi tin được. Hiện thời Má có được thật mạnh khỏe không? Nghe Sáu Giò mất con rất buồn. Nhưng đến số phần ai cũng phải chịu. Song Sáu Giò đã qua đời sớm như vậy thật đáng tội nghiệp. Trong lúc con chưa về mà trong nhà, Tư Chấp Hai Ốm, Sáu Giò đều nối nhau tạ thế hết, thật là số trời quá khắt khe! Nhưng luật thiên công là như vậy. Con thường cầu nguyện vong linh của các anh em ấy được siêu sanh đất Phật.
Bức thơ ngày 12-11-67 con đã nhận được. Nhưng bận việc mãi đến hôm nay mới hồi tin được. Hiện thời Má có được thật mạnh khỏe không? Nghe Sáu Giò mất con rất buồn. Nhưng đến số phần ai cũng phải chịu. Song Sáu Giò đã qua đời sớm như vậy thật đáng tội nghiệp. Trong lúc con chưa về mà trong nhà, Tư Chấp Hai Ốm, Sáu Giò đều nối nhau tạ thế hết, thật là số trời quá khắt khe! Nhưng luật thiên công là như vậy. Con thường cầu nguyện vong linh của các anh em ấy được siêu sanh đất Phật.
Thưa Má, hiện thời ở bên nầy đang vào mùa đông và lạnh nhiều rồi, nhưng con vẫn được mạnh như thường và vẫn còn tiếp tục dạy ở đại học. Xin Má và anh chị em ở quê nhà nên an tâm. Kế đó, Má cũng như anh chị em đồng đạo xa gần rán tu cho nên gương, đạo cho thành quả, mặc dù trong chiến tranh và trong xã hội ít người tu niệm hiền lành. Rán cùng nhau đem nước từ bi đạo đức để dập tắt bao nhiêu ngọn lửa chém giết hận thù giữa đồng bào nhân loại.
Mối tương thân và lòng xây dựng là chủ yếu của vấn đề tế thế an bang. Và đạo đức càng phải đẩy mạnh trong khi đời thất đức. Vậy xin Má và anh chị em đồng đạo ở quê nhà rán cùng nhau tùy cơ phương tiện cố gắng tu hành có phước huệ cho mình và cho cả thế gian.
Vắn tắt có mấy lời, con kính chúc Má và anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được vạn sự an lành.
Con của Má
Lá thư số 172: Tokyo, ngày 27-12-1967
Lá thư số 172: Tokyo, ngày 27-12-1967
Tokyo, ngày 27-12-1967,
Hà Khê thân mến,
Đèn trí soi luôn minh thế sự,
Chuông từ dộng mãi thức nhơn sanh.
Chúc Hà Khê được tròn lành,
Chúc anh em được hoàn thành sự tu.
Đèn trí soi luôn minh thế sự,
Chuông từ dộng mãi thức nhơn sanh.
Chúc Hà Khê được tròn lành,
Chúc anh em được hoàn thành sự tu.
THANH SĨ
Lá thư số 173: Tokyo, ngày 11-12-1967
Lá thư số 173: Tokyo, ngày 11-12-1967
Tokyo, ngày 11-12-1967,
Hoài Ân thân mến,
Thơ đề ngày 24-11-67 tôi đã nhận được, tin buồn về sự mãn phần của Sáu Giò tôi đã biết trước. Tôi rất lấy làm buồn lắm. Đành rằng ai cũng phải bỏ thân trần, nhưng những anh em có thiện chí, có lòng mến tôi mà đã quá vãng trước ngày tôi về nước thật là đáng tiếc.
Thơ đề ngày 24-11-67 tôi đã nhận được, tin buồn về sự mãn phần của Sáu Giò tôi đã biết trước. Tôi rất lấy làm buồn lắm. Đành rằng ai cũng phải bỏ thân trần, nhưng những anh em có thiện chí, có lòng mến tôi mà đã quá vãng trước ngày tôi về nước thật là đáng tiếc.
Tôi luôn luôn cầu xin Đức Tiếp Dẫn đưa những vong linh của các anh chị em ấy về Phật, để chờ ngày Liên Hoa tái ngộ nhau. Và Hoài Ân, mưa bão càng nhiều, cây cối càng rung, trái bông càng rơi rụng, trong tình trạng thử thách nhiều đau khổ lắm, đa số anh em đã hư mất đạo tâm. Tôi thấy biết như trước tấm gương. Tôi rất đau lòng, nhưng bàn sàng của thiêng liêng vốn vô tư vị. Tôi không thể nói sao hơn là chỉ thiết tha cầu anh chị em đều được tỉnh tâm và giác tâm độ mình và độ chúng, trong công cuộc đầy gian nguy vật chất và đầy mê muội tâm hồn.
Riêng Ân và anh chị em đồng đạo cũng rán tiến mình trên đường thanh, đừng để rơi trong lòng đường trược. Muốn theo Phật là ở tâm chí ấy.
THANH SĨ
Lá thư số 174: Tokyo, ngày 30-10-1967
Lá thư số 174: Tokyo, ngày 30-10-1967
Tokyo, ngày 30-10-1967,
Hữu Duyên thân mến,
Bức thơ ngày 22-10-67 tôi đã nhận được. Xin cám ơn Hữu Duyên. Được biết Duyên và anh chị em đồng đạo ở quê nhà vẫn được mạnh lành. Tôi rất an tâm nhiều. Hữu Duyên và anh chị em ở quê nhà nên thận trọng, có thể nên chung lòng góp sức tùy cơ ứng biến bảo tồn mối đạo, bảo vệ lẫn nhau trong tình trạng nước sôi lửa bỏng.
Bức thơ ngày 22-10-67 tôi đã nhận được. Xin cám ơn Hữu Duyên. Được biết Duyên và anh chị em đồng đạo ở quê nhà vẫn được mạnh lành. Tôi rất an tâm nhiều. Hữu Duyên và anh chị em ở quê nhà nên thận trọng, có thể nên chung lòng góp sức tùy cơ ứng biến bảo tồn mối đạo, bảo vệ lẫn nhau trong tình trạng nước sôi lửa bỏng.
Còn việc Hữu Duyên và anh chị em ở quê nhà muốn xây cất lại ngôi chùa ở Đẩu Sấu, theo tôi nhận thấy hiện thời nước nhà đang còn trong vòng chiến tranh, không có một nơi nào có sự đảm bảo an toàn, thì chưa nên cất chùa vội ở giữa lúc nầy. Nhưng nếu anh chị em quá thiết tha muốn cất lại ngôi chùa ấy, thì chỉ nên cất bằng cây lá thường thôi (như lời của Đức Thầy đã bảo khi trước) không nên cất bằng ngói gạch đồ sộ tốn nhiều tiền bạc trong lúc anh chị em đồng đạo, đồng bào đa số đều bị tai nạn chiến tranh tàn phá đang nghèo khổ túng thiếu.
Hãy đợi khi nào tình thế nước nhà ổn định thật sự rồi, chừng đó anh chị em muốn xây cất ngôi chùa trở lại bao lớn cũng được, sẽ không khó gì và cũng được an tâm hơn. Tôi thiết nghĩ như vậy.
Vắn tắt có mấy hàng, tôi xin chúc cho Hữu Duyên và anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được gặp nhiều may mắn trên đường phụng sự đạo nghĩa.
THANH SĨ
Lá thư số 175: Tokyo, ngày 15-10-1967
Lá thư số 175: Tokyo, ngày 15-10-1967
Tokyo, ngày 15-10-1967,
Thưởng thân mến,
Cái thơ đề ngày 24-8-67 của Thưởng đã trễ gần chút tháng tôi mới nhận được. Ở bên nầy tôi vẫn được mạnh như thường. Xin Thưởng và anh chị em đồng đạo ở quê nhà nên an tâm. Thưởng ơi! con người thường sống trong nghịch cảnh, nhứt là người tu. Thế cho nên nghịch cảnh đối với người tu không có gì lạ. Con người cần phải có đủ sức nhẫn nái, khéo léo và can cường lướt qua mọi nghịch cảnh để tiến tới mục tiêu của mình đã nhắm. Thắng nghịch cảnh là thành công, thua nghịch cảnh là thất bại, mà thắng hay thua đều do ý chí mạnh hay yếu (và có mục tiêu rõ rệt hay không) của con người mà ra.
Đời hay đạo cũng như vậy. Tôi nghĩ thế, tôi hy vọng Thưởng và anh chị em ở quê nhà chớ hèn yếu trước nghịch cảnh, mà là phải can đảm để chinh phục nó, để hoàn thành công việc đạo nghĩa, nhứt là công việc xây dựng hòa bình hạnh phúc và tự do cho nước cho dân.
Vắn tắt có mấy lời, xin Thưởng và anh chị em đồng đạo suy rộng ra. Tôi xin chúc cho Thưởng và anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được vạn sự an lành.
Cái thơ đề ngày 24-8-67 của Thưởng đã trễ gần chút tháng tôi mới nhận được. Ở bên nầy tôi vẫn được mạnh như thường. Xin Thưởng và anh chị em đồng đạo ở quê nhà nên an tâm. Thưởng ơi! con người thường sống trong nghịch cảnh, nhứt là người tu. Thế cho nên nghịch cảnh đối với người tu không có gì lạ. Con người cần phải có đủ sức nhẫn nái, khéo léo và can cường lướt qua mọi nghịch cảnh để tiến tới mục tiêu của mình đã nhắm. Thắng nghịch cảnh là thành công, thua nghịch cảnh là thất bại, mà thắng hay thua đều do ý chí mạnh hay yếu (và có mục tiêu rõ rệt hay không) của con người mà ra.
Đời hay đạo cũng như vậy. Tôi nghĩ thế, tôi hy vọng Thưởng và anh chị em ở quê nhà chớ hèn yếu trước nghịch cảnh, mà là phải can đảm để chinh phục nó, để hoàn thành công việc đạo nghĩa, nhứt là công việc xây dựng hòa bình hạnh phúc và tự do cho nước cho dân.
Vắn tắt có mấy lời, xin Thưởng và anh chị em đồng đạo suy rộng ra. Tôi xin chúc cho Thưởng và anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được vạn sự an lành.
THANH SĨ
P.B.: Tôi kèm gởi theo đây một tấm phim màu của tôi chụp trong lúc tuyết rơi.
Lá thư số 176: Tết Mậu Thân 1968
Lá thư số 176: Tết Mậu Thân 1968
Tết Mậu Thân 1968,
Chúc Tết Họa Sĩ Hà Khê
Chúc Tết Hà Khê với quyến thân,
Được vui được mạnh gấp bao lần.
Đạo đời xử vẹn như tâm nguyện,
Mỗi một năm qua Phật mỗi gần.
Chúc Tết Hà Khê với quyến thân,
Được vui được mạnh gấp bao lần.
Đạo đời xử vẹn như tâm nguyện,
Mỗi một năm qua Phật mỗi gần.
THANH SĨ
Lá thư số 177: Tokyo, ngày 18-12-1967
Lá thư số 177: Tokyo, ngày 18-12-1967
Tokyo, ngày 18-12-1967,
Gởi Đỗ Thiện Ưng
Đỗ Thiện Ưng thân mến,
Bức thơ đề ngày 1-12-1967 tôi đã nhận được. Cám ơn Thiện Ưng. Tôi vẫn được mạnh khỏe luôn. Xin Ưng và anh chị em ở quê nhà nên yên tâm và rán lo tu hành tinh tấn cho đến lúc thật mãn nguyện.
Tùy ở bên nầy, nhưng tôi vẫn được biết luôn chuyện nhà chuyện nước, lòng tôi thấy đau xót cho cảnh tang tóc kéo dài và phân tranh tan nát từ trên đến dưới ở các thế lực và đoàn thể tôn giáo và chính trị một cách quá đáng. Ở ngoại quốc hầu hết người ta đều đánh dấu hỏi, trình độ yêu nước và ý thức chính trị đạo đức của dân tộc Việt Nam? Thường ngày ở trên báo chí. càng đọc tới càng cảm thấy buồn tủi không cùng. Nhưng Thiện Ưng ơi!
Đỗ Thiện Ưng thân mến,
Bức thơ đề ngày 1-12-1967 tôi đã nhận được. Cám ơn Thiện Ưng. Tôi vẫn được mạnh khỏe luôn. Xin Ưng và anh chị em ở quê nhà nên yên tâm và rán lo tu hành tinh tấn cho đến lúc thật mãn nguyện.
Tùy ở bên nầy, nhưng tôi vẫn được biết luôn chuyện nhà chuyện nước, lòng tôi thấy đau xót cho cảnh tang tóc kéo dài và phân tranh tan nát từ trên đến dưới ở các thế lực và đoàn thể tôn giáo và chính trị một cách quá đáng. Ở ngoại quốc hầu hết người ta đều đánh dấu hỏi, trình độ yêu nước và ý thức chính trị đạo đức của dân tộc Việt Nam? Thường ngày ở trên báo chí. càng đọc tới càng cảm thấy buồn tủi không cùng. Nhưng Thiện Ưng ơi!
Đạo vẫn đạo trong lúc loạn thời,
Tu dần tu giữa cảnh bom rơi,
Miễn làm an nước hòa dân chúng,
Ấy một tình yêu Phật với đời.
Thiện Ưng nên ý thức và lãnh hội thêm ý nghĩa nói trên để trợ trưởng giác tánh đạo diệu. Xin chúc Ưng và anh chị em ở quê nhà đều được mạnh lành.
THANH SĨ
Lá thư số 178: Tokyo, ngày 26-12-1967
Lá thư số 178: Tokyo, ngày 26-12-1967
Tokyo, ngày 26-12-1967,
Trường, Yến thân mến,
Bức thơ ngày 8-12-67 cũng như cái thơ hồi tháng 10 tôi đều nhận được. Nhưng vì cứ bận việc luôn, thành thử đến ngày hôm nay mới có dịp hồi tin được. Xin Trường, Yến vui lòng niệm thứ cho. Trường, Yến tôi rất thông cảm cảnh tình của Trường, Yến nơi quê nhà. Tôi thường khấn vái chư vị Phật Thần, nhứt là thường cầu xin Đức Quan Thế Âm gia hộ Trường, Yến cũng như tất cả thiện nam tín nữ có đạo tâm đều được tật bịnh tiêu trừ, nạn khỏi tai qua, tu hành tỏ ngộ và sanh sống trong an vui hạnh phúc.
Con lành hoạn nạn cõi Ta Bà,
Xin Đức Quan Âm mở lượng ra.
Nước phép trị lành thân bịnh tật,
Ánh mầu phá sạch bóng yêu ma.
Sống trong khỏe mạnh đầy khai ngộ,
Thác được an vui trụ Phật tòa.
Huệ mỏng nghiệp dầy đời Mạt Pháp,
Muôn điều nhờ Phật chở che qua.
Bức thơ ngày 8-12-67 cũng như cái thơ hồi tháng 10 tôi đều nhận được. Nhưng vì cứ bận việc luôn, thành thử đến ngày hôm nay mới có dịp hồi tin được. Xin Trường, Yến vui lòng niệm thứ cho. Trường, Yến tôi rất thông cảm cảnh tình của Trường, Yến nơi quê nhà. Tôi thường khấn vái chư vị Phật Thần, nhứt là thường cầu xin Đức Quan Thế Âm gia hộ Trường, Yến cũng như tất cả thiện nam tín nữ có đạo tâm đều được tật bịnh tiêu trừ, nạn khỏi tai qua, tu hành tỏ ngộ và sanh sống trong an vui hạnh phúc.
Con lành hoạn nạn cõi Ta Bà,
Xin Đức Quan Âm mở lượng ra.
Nước phép trị lành thân bịnh tật,
Ánh mầu phá sạch bóng yêu ma.
Sống trong khỏe mạnh đầy khai ngộ,
Thác được an vui trụ Phật tòa.
Huệ mỏng nghiệp dầy đời Mạt Pháp,
Muôn điều nhờ Phật chở che qua.
Tứ khổ, bát khổ là những cảnh khổ định nghiệp của chúng sanh, không ai tránh khỏi, cho nên dù gặp những cảnh đau khổ cũng đừng thối chí kinh tâm mà là nên cho là thường sự, chỉ cố gắng lo giải cứu cho qua mà thôi.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin cầu chúc cho Trường, Yến, bửu quyến và tất cả anh chị em ở quê nhà đều được tăng trưởng phước huệ song song.
THANH SĨ
Lá thư số 179: Tokyo, ngày 9-1-1968
Lá thư số 179: Tokyo, ngày 9-1-1968
Tokyo, ngày 9-1-1968,
Hoài Ân thân mến,
Lúc nầy, Ân, quý quyến, anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà có được bình yên khỏe mạnh không? Vừa rồi tôi có nhận thơ nói Bà Mười vẫn được mạnh, nhưng không bằng mọi khi. Có phải vậy không? Xin Ân và anh chị em ở quê nhà vui lòng phương tiện giúp đỡ Bà Mười và khuyến khích Bà Mười đừng bận tâm lo nghĩ nhiều, nên ăn uống những thứ rau cải trái cây có nhiều sinh tố (chất bổ) và khi thấy trong người yếu thì lo ngay thuốc men tịnh dưỡng khỏe mạnh.
Lúc nầy, Ân, quý quyến, anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà có được bình yên khỏe mạnh không? Vừa rồi tôi có nhận thơ nói Bà Mười vẫn được mạnh, nhưng không bằng mọi khi. Có phải vậy không? Xin Ân và anh chị em ở quê nhà vui lòng phương tiện giúp đỡ Bà Mười và khuyến khích Bà Mười đừng bận tâm lo nghĩ nhiều, nên ăn uống những thứ rau cải trái cây có nhiều sinh tố (chất bổ) và khi thấy trong người yếu thì lo ngay thuốc men tịnh dưỡng khỏe mạnh.
Nên nhớ rằng khỏe mạnh là lực lượng viện trợ đắc lực cho tinh thần đạo đức tu hành sáng suốt. Nhớ khuyên Bà Mười như vậy tôi khôn xiết cám ơn. Còn tôi ở bên nầy, hiện thời tuy tiết đông đã lạnh nhiều nhưng tôi vẫn được khỏe mạnh như thường và còn nghỉ lễ đầu năm dương lịch cho tới ngày 17 tháng nầy mới đi dạy trở lại ở đại học, mọi việc không có gì thay đổi đáng nói. Và sau đây tôi xin báo cho Ân hay số bánh ấy tôi vẫn chưa nhận được cái nào cả. Hôm 27-12-67 qua rồi, tôi có gọi điện thoại hỏi thăm họ bảo rằng chưa có tin tức gì về việc ấy. Từ ngày đó đến nay tôi chờ mãi mà chưa thấy ai cho hay. Sao mà lâu thế? Đến nhắc họ xem sao, và nhớ viết thơ cho tôi biết.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Ân, quý quyến, anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà đều được luôn luôn mạnh lành, tu hành sáng suốt.
THANH SĨ
Lá thư số 180: Tokyo, ngày 12-1-1968
Lá thư số 180: Tokyo, ngày 12-1-1968
Tokyo, ngày 12-1-1968,
Gởi Ngô Ngọc Tùng
Ngô Ngọc Tùng thân mến,
---
Nạn chung, chung chịu nghiệp trần gian,
Nên để mắt xem khắp xóm làng,
Nghịch cảnh có hàng muôn kẻ bị,
Khổ tâm nào phải một mình mang.
Biết câu nhân quả đừng phiền trách,
Rõ lý thăng trầm chớ thở than.
Hãy lấy chí to nhằm đạo cả,
Ấy muôn sự giải được chu toàn.
Ngô Ngọc Tùng thân mến,
---
Nạn chung, chung chịu nghiệp trần gian,
Nên để mắt xem khắp xóm làng,
Nghịch cảnh có hàng muôn kẻ bị,
Khổ tâm nào phải một mình mang.
Biết câu nhân quả đừng phiền trách,
Rõ lý thăng trầm chớ thở than.
Hãy lấy chí to nhằm đạo cả,
Ấy muôn sự giải được chu toàn.
THANH SĨ
Lá thư số 181: Tokyo, ngày 10-3-1968
Lá thư số 181: Tokyo, ngày 10-3-1968
Tokyo, ngày 10-3-1968,
Hoài Ân thân mến,
Thơ ngày 24-2-68 tôi đã nhận được. Được biết Ân, quý quyến, anh chị em đồng đạo và Bà Mười vẫn được an lành tôi an tâm nhiều lắm. Cuộc biến động ở thủ đô và ở các tỉnh thành hôm Tết tới nay, tôi vẫn được biết tin và rất lấy làm đau đớn cho cảnh tai hoạ tang tóc ở nước nhà cứ lan tràn càng lúc càng to. Tôi không ngớt van vái ơn trên Trời Phật cứu độ dân lành và tắt giùm ngọn lửa chiến tranh đang bao trùm đất nước Việt Nam.
Thơ ngày 24-2-68 tôi đã nhận được. Được biết Ân, quý quyến, anh chị em đồng đạo và Bà Mười vẫn được an lành tôi an tâm nhiều lắm. Cuộc biến động ở thủ đô và ở các tỉnh thành hôm Tết tới nay, tôi vẫn được biết tin và rất lấy làm đau đớn cho cảnh tai hoạ tang tóc ở nước nhà cứ lan tràn càng lúc càng to. Tôi không ngớt van vái ơn trên Trời Phật cứu độ dân lành và tắt giùm ngọn lửa chiến tranh đang bao trùm đất nước Việt Nam.
Riêng tôi độ nầy vẫn được bình thường, không có sự gì đáng lo. Xin Ân và anh chị em ở quê nhà nên vững lòng và rán lo tu hành chơn chánh. Đồng thời nên phương tiện cứu giúp lẫn nhau trong cảnh chiến tranh đau đói khổ sở nghèo nàn. Nhứt là rán nâng đỡ nhau ở tinh thần giác ngộ Phật pháp, để thắng qua mọi sự cố chấp phiền não ở vật chất thường tình.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Ân, quý quyến và anh chị em ở quê nhà đều được vạn sự an lành.
THANH SĨ
P.B.: Xin trao lời tôi cám ơn vợ chồng Chín Thợ Sơn đã có lời thăm tôi.
Lá thư số 182: Tokyo, ngày 21-4-1968
Tokyo, ngày 21-4-1968,
Hoài Ân thân mến,
Xin báo tin cho Ân hay tôi đã nhận được bánh. Rất cám ơn Ân, Răng, Út Lẹ và anh chị em ở quê nhà nhiều lắm. Độ nầy tôi vẫn mạnh khỏe và mọi việc vẫn như thường, không có sự gì thay đổi đáng lo. Xin Ân và anh chị em ở quê nhà nên an tâm và rán chung sức củng cố tình thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, phương tiện phát triển việc đạo đức tu hành chơn chánh phước huệ khắp xa gần.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Ân, quý quyến và anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được vạn sự an lành.
Xin báo tin cho Ân hay tôi đã nhận được bánh. Rất cám ơn Ân, Răng, Út Lẹ và anh chị em ở quê nhà nhiều lắm. Độ nầy tôi vẫn mạnh khỏe và mọi việc vẫn như thường, không có sự gì thay đổi đáng lo. Xin Ân và anh chị em ở quê nhà nên an tâm và rán chung sức củng cố tình thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, phương tiện phát triển việc đạo đức tu hành chơn chánh phước huệ khắp xa gần.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Ân, quý quyến và anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được vạn sự an lành.
THANH SĨ
Lá thư số 183: Tokyo, ngày 22-4-1968
Lá thư số 183: Tokyo, ngày 22-4-1968
Tokyo, ngày 22-4-1968,
Trường, Yến thân mến,
Vừa rồi Tôi đã liên tiếp nhận được cả hai bức thơ của Trường, Yến. Hiện thời tôi vẫn được mạnh khỏe, vẫn đi dạy ở đại học và mọi việc vẫn như thường, không có sự gì thay đổi. Xin Trường, Yến và anh chị em ở quê nhà nên an tâm. Công việc tu hành đạo đức Trường, Yến và anh chị em ở quê nhà rán tiếp tục tiến hành và nên tiến hành mạnh mẽ nhiều hơn trong khi thời cuộc quay cuồng khổ nạn.
Vừa rồi Tôi đã liên tiếp nhận được cả hai bức thơ của Trường, Yến. Hiện thời tôi vẫn được mạnh khỏe, vẫn đi dạy ở đại học và mọi việc vẫn như thường, không có sự gì thay đổi. Xin Trường, Yến và anh chị em ở quê nhà nên an tâm. Công việc tu hành đạo đức Trường, Yến và anh chị em ở quê nhà rán tiếp tục tiến hành và nên tiến hành mạnh mẽ nhiều hơn trong khi thời cuộc quay cuồng khổ nạn.
Nên phương tiện đem món thuốc tu hành đạo đức để hàn gắn vết thương lòng của đồng bào và nên đem ánh nắng tu hành đạo đức để soi ấm khối tình của dân tộc đang lúc lạnh lùng. Tu hành đạo đức sẽ cởi mở được dây oan, phá tan được thành kiến và xây dựng được xã hội và con người thành thật, cùng nhau vui, cùng nhau sống và cùng nhau tự do hạnh phúc thanh bình.
Con người nếu muốn sống được an lạc, và muốn thác được siêu sanh đều phải dùng con đường tu hành đạo đức. Tu hành chí chơn và đạo đức chí tâm. Sự tu hành ấy và đạo đức ấy cần phải tích cực khuyến khích và mở rộng trong cái xã hội đang lan tràn cảnh ô trược, tội ác như ngày nay. Vậy Trường, Yến và anh chị em ở quê nhà đối với vấn đề tu hành đạo đức nên đặt làm căn bản của sự sống tốt lành hiện hữu và của sự giải thoát kiếp trầm luân mê khổ sau nầy cho đời mình, cho quyến thuộc của mình và cho tất cả nhân gian. Rán cố gắng hoàn thành viên mãn cái đường lối tu hành đạo đức ấy trong kiếp sống nầy được là cao quí không có thứ châu ngọc nào so sánh bằng chắc chắn như vậy.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Trường, Yến và anh chị em ở nơi quê nhà đều được chư vị Phật Thần gia hộ được bình an mạnh khỏe luôn luôn.
THANH SĨ
Lá thư số 184: Tokyo, ngày 22-4-1968
Lá thư số 184: Tokyo, ngày 22-4-1968
Tokyo, ngày 22-4-1968,
Trường, Yến thân mến,
Rán tu
Quê nhà thiện tín gần xa,
Việc tu còn nhớ được là bao nhiêu?
Khổ nhiều cần phải tu nhiều,
Ít tu khổ sẽ thêm điều khổ hơn.
Đời như sắp chết đến cơn,
Tu như viên thuốc linh đơn hoàn hồn.
Biết lo tu niệm là khôn,
Ngơ đường đạo đức là chôn sớm đời.
Rán tu cho máu hết rơi,
Cho đời đau khổ ra đời an vui.
Mượn đường tu bá tánh ơi!
Để đưa nhau tới bầu trời quang minh.
Tu không những phước cho mình,
Mà còn phước nước, phước nghìn muôn dân.
Rán tu dù khó trăm phần,
Mình tu và khiến xa gần đều tu.
Khối tu lấp cạn hố thù,
Ruộng tu nuôi sống tình người Bắc Nam.
Có tu mới khỏi kiếp phàm,
Quê hương lão ấu rán kham tu hành.
Rán tu
Quê nhà thiện tín gần xa,
Việc tu còn nhớ được là bao nhiêu?
Khổ nhiều cần phải tu nhiều,
Ít tu khổ sẽ thêm điều khổ hơn.
Đời như sắp chết đến cơn,
Tu như viên thuốc linh đơn hoàn hồn.
Biết lo tu niệm là khôn,
Ngơ đường đạo đức là chôn sớm đời.
Rán tu cho máu hết rơi,
Cho đời đau khổ ra đời an vui.
Mượn đường tu bá tánh ơi!
Để đưa nhau tới bầu trời quang minh.
Tu không những phước cho mình,
Mà còn phước nước, phước nghìn muôn dân.
Rán tu dù khó trăm phần,
Mình tu và khiến xa gần đều tu.
Khối tu lấp cạn hố thù,
Ruộng tu nuôi sống tình người Bắc Nam.
Có tu mới khỏi kiếp phàm,
Quê hương lão ấu rán kham tu hành.
THANH SĨ
Lá thư số 185: Tokyo, ngày 25-4-1968
Lá thư số 185: Tokyo, ngày 25-4-1968
Tokyo, ngày 25-4-1968,
Võ Thị Mười thân mến,
---
Thời đại nầy tu chẳng dễ đâu,
Biết tu ngờ đã có căn sâu.
Con duyên khá bước theo đường Phật,
Trẻ thảo nên khêu tỏ đạo mầu.
Cõi khổ nhưng đừng gieo khổ nghiệp,
Đời mê song rán diệt mê sầu.
Làm lành niệm Phật trong muôn cảnh,
Một kiếp nầy siêu chẳng đọa lâu.
---
Thời đại nầy tu chẳng dễ đâu,
Biết tu ngờ đã có căn sâu.
Con duyên khá bước theo đường Phật,
Trẻ thảo nên khêu tỏ đạo mầu.
Cõi khổ nhưng đừng gieo khổ nghiệp,
Đời mê song rán diệt mê sầu.
Làm lành niệm Phật trong muôn cảnh,
Một kiếp nầy siêu chẳng đọa lâu.
THANH SĨ
Lá thư số 186: Tokyo, ngày 26-4-1968
Lá thư số 186: Tokyo, ngày 26-4-1968
Tokyo, ngày 26-4-1968,
Gởi Ngô Ngọc Tùng
Ngô Ngọc Tùng thân mến,
---
Phật đã bảo chúng sanh như là Phật,
Giác hay mê chỉ khác bấy nhiêu thôi.
Rán cho lòng được giác ớ con ôi!
Tâm mê mãi khiến đời con thêm khổ,
Ao sen Phật sẵn dành con một chỗ,
Chờ giống lành con gieo đó mà thôi.
Xưa nghiệp duyên con đã có nhiều rồi,
Nay gốc đạo con nhớ bồi cho mãn nguyện.
Đời mạt pháp ít người tâm hướng thiện,
Vì thế sanh lắm chuyện quá kinh hồn.
Nhưng chung qui là ác thất thiện tồn,
Con rán thiện chớ cho lòng theo ác,
Lời của Phật lòng con nên tin chắc,
Lo tu hành cho giải thoát phàm thân.
Con nhứt tâm tưởng niệm đến Phật Thần,
Phật Thần chẳng phụ con trên đường đạo.
Con chung thỉ với khối tình Phật giáo,
Đạo cho mình và đạo khắp nhân gian.
Cõi Di Đà là chỗ của con sang,
Con rán tiến dầu ngàn muôn chướng ngại.
Ngô Ngọc Tùng thân mến,
---
Phật đã bảo chúng sanh như là Phật,
Giác hay mê chỉ khác bấy nhiêu thôi.
Rán cho lòng được giác ớ con ôi!
Tâm mê mãi khiến đời con thêm khổ,
Ao sen Phật sẵn dành con một chỗ,
Chờ giống lành con gieo đó mà thôi.
Xưa nghiệp duyên con đã có nhiều rồi,
Nay gốc đạo con nhớ bồi cho mãn nguyện.
Đời mạt pháp ít người tâm hướng thiện,
Vì thế sanh lắm chuyện quá kinh hồn.
Nhưng chung qui là ác thất thiện tồn,
Con rán thiện chớ cho lòng theo ác,
Lời của Phật lòng con nên tin chắc,
Lo tu hành cho giải thoát phàm thân.
Con nhứt tâm tưởng niệm đến Phật Thần,
Phật Thần chẳng phụ con trên đường đạo.
Con chung thỉ với khối tình Phật giáo,
Đạo cho mình và đạo khắp nhân gian.
Cõi Di Đà là chỗ của con sang,
Con rán tiến dầu ngàn muôn chướng ngại.
THANH SĨ
Lá thư số 187: Tokyo, ngày 5-5-1968
Lá thư số 187: Tokyo, ngày 5-5-1968
Tokyo, ngày 5-5-1968,
Huỳnh Đạt Đa thân mến,
Những thơ từ của Đa tôi đều nhận được cả, nhưng vì gặp phải lúc giao thông đứt đọan và tôi cũng bận việc nhiều, thành thử hôm nay mới có thì giờ viết ngắn ít lời cho Đa an lòng.
Những thơ từ của Đa tôi đều nhận được cả, nhưng vì gặp phải lúc giao thông đứt đọan và tôi cũng bận việc nhiều, thành thử hôm nay mới có thì giờ viết ngắn ít lời cho Đa an lòng.
Xét tâm, thấy tâm, chủ tâm,
Chuyển phàm ra thánh tự làm lấy ta.
Tâm và cảnh phải thấy ra,
Nhưng tâm chớ để vướng qua cảnh đời.
Chuyện xưa như chuyện hiện thời,
Cũng là nhớ hết nhưng thôi không lầm.
Khi người thật chủ được tâm,
Tự do không cảnh nào làm cho mê.
Tại mình chớ có chấp nê.
Hãy xem sen chẳng hề chê bùn lầy.
Nam Mô Định Tâm Vương Bồ Tát Ma Ha Tát.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Đa và anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được vạn sự an lành tu hành sáng suốt.
THANH SĨ
Lá thư số 188: Tokyo, ngày 27-5-1968
Lá thư số 188: Tokyo, ngày 27-5-1968
Tokyo, ngày 27-5-1968,
Võ Thị Mười thân mến,
Bức thơ ngày 5-5-68 tôi đã nhận được. Tôi rất cám ơn Mười. Đồng thời tôi cũng cảm kích với cái xã hội sống động đầy thực tế nầy mà Mười biết hướng về Phật pháp để tìm lối thoát khỏi biển khổ sông mê. Tâm hồn ấy tốt đẹp lắm. Mười rán giữ còn và trau luyện cho nó đạt đến mức toàn giác toàn minh, dù rằng đang phải sống qua mọi hoàn cảnh xuôi ngược hằng ngày.
Con sống vẹn lòng từ trong đạo cả,
Tất là con hết quả khổ trần gian.
Đời người như giấc mộng để rồi tan,
Không ai khỏi kiếp dã tràng xe cát.
Có cõi Phật là nơi không khổ thác,
Con gắng tu cho cùng Phật đồng cư.
Đời ác bao con nhớ giữ lòng từ,
Con gắng sống thơm như sen trong trịn.
Đường qui Phật con chớ mờ ý định,
Giữa đời mê con khá tỉnh lòng luôn.
Thử thách bao con cũng chớ nên buồn,
Con rán tiến trên con đường tin tưởng.
Nếu con việc tu hiền không bỏ luống,
Ánh từ quang luôn chiếu xuống đời con.
Vậy con nên đạo hạnh rán lo tròn,
Con giải thoát Tổ Tông cùng giải thoát.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Mười, quý quyến và tất cả bà con ở quê nhà đều được vạn sự an lành và tu hành được chí chơn chí mỹ.
Bức thơ ngày 5-5-68 tôi đã nhận được. Tôi rất cám ơn Mười. Đồng thời tôi cũng cảm kích với cái xã hội sống động đầy thực tế nầy mà Mười biết hướng về Phật pháp để tìm lối thoát khỏi biển khổ sông mê. Tâm hồn ấy tốt đẹp lắm. Mười rán giữ còn và trau luyện cho nó đạt đến mức toàn giác toàn minh, dù rằng đang phải sống qua mọi hoàn cảnh xuôi ngược hằng ngày.
Con sống vẹn lòng từ trong đạo cả,
Tất là con hết quả khổ trần gian.
Đời người như giấc mộng để rồi tan,
Không ai khỏi kiếp dã tràng xe cát.
Có cõi Phật là nơi không khổ thác,
Con gắng tu cho cùng Phật đồng cư.
Đời ác bao con nhớ giữ lòng từ,
Con gắng sống thơm như sen trong trịn.
Đường qui Phật con chớ mờ ý định,
Giữa đời mê con khá tỉnh lòng luôn.
Thử thách bao con cũng chớ nên buồn,
Con rán tiến trên con đường tin tưởng.
Nếu con việc tu hiền không bỏ luống,
Ánh từ quang luôn chiếu xuống đời con.
Vậy con nên đạo hạnh rán lo tròn,
Con giải thoát Tổ Tông cùng giải thoát.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Mười, quý quyến và tất cả bà con ở quê nhà đều được vạn sự an lành và tu hành được chí chơn chí mỹ.
THANH SĨ
P.B: Mười đã hỏi tôi đang làm gì ở Nhựt? Tôi xin nói sơ là ngoài việc khác, hiện thời tôi vẫn đi dạy như bao nhiêu năm qua.
Lá thư số 189: Tokyo, ngày 7-7-1968
Lá thư số 189: Tokyo, ngày 7-7-1968
Tokyo, ngày 7-7-1968,
Gởi Nguyễn Khắc Trứ
Nguyễn Khắc Trứ thân mến,
Bức thơ ngày 3-6-68 tôi đã nhận được. Cám ơn Trứ. Được biết Trứ, anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà đều được lành mạnh, tôi thấy lòng nhẹ lo đôi phần. Riêng tôi ở bên nầy, vẫn được sức khỏe và sẽ bắt đầu nghỉ hè vào ngày 9 tháng 7 cho đến ngày 9 tháng 9. Ngoài ra, những việc khác không có sự gì thay đổi, xin Trứ và anh chị em xa gần ở quê nhà nên yên trí tiếp tục hăng hái tu hành chơn chánh trọn vẹn đạo nghĩa.
Trứ và anh chị em càng nhớ tôi bao nhiêu thì tôi càng nhớ Trứ và anh chị em bấy nhiêu, có thể nói là tôi còn nhớ hơn gấp bội, vì lý do tôi đang sống gởi mỗi ngày qua ở nước ngoài.
Nhưng Trứ và anh chị em ơi!
Nhớ nhau càng lắm đạo càng trau,
Trau đạo đến khi đạt pháp mầu.
Bất khả tư nghì Thầy giáng chứng,
Hốt nhiên được Phật ngõ huyền sâu.
Khắc kỳ núi nghiệp tan bằng mặt,
Chốc lát sông mê hiện giác cầu.
Đường đến Liên Hoa như ý nguyện,
Lành thay! tình đạo nhớ nhau lâu.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Trứ, anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà đều được bình an mạnh lành và tu hành mau được trọn lành trọn sáng.
Nguyễn Khắc Trứ thân mến,
Bức thơ ngày 3-6-68 tôi đã nhận được. Cám ơn Trứ. Được biết Trứ, anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà đều được lành mạnh, tôi thấy lòng nhẹ lo đôi phần. Riêng tôi ở bên nầy, vẫn được sức khỏe và sẽ bắt đầu nghỉ hè vào ngày 9 tháng 7 cho đến ngày 9 tháng 9. Ngoài ra, những việc khác không có sự gì thay đổi, xin Trứ và anh chị em xa gần ở quê nhà nên yên trí tiếp tục hăng hái tu hành chơn chánh trọn vẹn đạo nghĩa.
Trứ và anh chị em càng nhớ tôi bao nhiêu thì tôi càng nhớ Trứ và anh chị em bấy nhiêu, có thể nói là tôi còn nhớ hơn gấp bội, vì lý do tôi đang sống gởi mỗi ngày qua ở nước ngoài.
Nhưng Trứ và anh chị em ơi!
Nhớ nhau càng lắm đạo càng trau,
Trau đạo đến khi đạt pháp mầu.
Bất khả tư nghì Thầy giáng chứng,
Hốt nhiên được Phật ngõ huyền sâu.
Khắc kỳ núi nghiệp tan bằng mặt,
Chốc lát sông mê hiện giác cầu.
Đường đến Liên Hoa như ý nguyện,
Lành thay! tình đạo nhớ nhau lâu.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Trứ, anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà đều được bình an mạnh lành và tu hành mau được trọn lành trọn sáng.
THANH SĨ
Lá thư số 190: Tokyo, ngày 17-5-1968
Lá thư số 190: Tokyo, ngày 17-5-1968
Tokyo, ngày 17-5-1968,
Hường thân mến,
Bức thơ ngày 17-4-1968 tôi đã nhận được. Rất cám ơn Hường. Hường rán cố gắng tiến đều trên đường đạo nhé!
Bức thơ ngày 17-4-1968 tôi đã nhận được. Rất cám ơn Hường. Hường rán cố gắng tiến đều trên đường đạo nhé!
Sống trong xã hội vô tình,
Nhưng đừng để cuộc đời mình bất lương.
Khổ người nên giúp nên thương,
Rán khêu đuốc Phật giữa đường trần gian.
Tử sanh khá đổi Niết Bàn,
Ta Bà nên chuyển Tây Phang Phật Đài.
Noi gương Bồ Tát Như Lai,
Đem giờ sống tạm đổi ngày trường sanh,
Nhớ khuyên muôn triệu người lành,
Để đời khổ sớm trở thành đời vui.
Từ bi được thấm lòng người,
Sẽ làm cho xã hội đời hòa an.
Đường tu khó bước muôn ngàn,
Rán lo bước để khỏi đàng trầm luân.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Hường, quý quyến và tất cả anh chị em lớn nhỏ ở quê nhà được vạn sự an khương.
THANH SĨ
Lá thư số 191: Tokyo, ngày 23-5-1968
Lá thư số 191: Tokyo, ngày 23-5-1968
Tokyo, ngày 23-5-1968,
Lê Cảnh Nho thân mến,
Tôi đã nhận được thơ của Nho. Xin cám ơn Nho. Đọc thơ thấy Nho giàu lòng mộ đạo và đã dẻo dai tìm kiếm chân lý huyền diệu nơi đạo pháp tôi lấy làm hoan hỷ và rất cảm động. Tôi rất hy vọng Nho được duy trì và phát triển ý chí một cách vững mạnh cho đến khi nào được toại nguyện. Đồng thời, tôi cũng cầu xin chư vị Phật Thần gia hộ cho Nho trên đường tu hành chóng được viên chơn viên giác đạt đến chỗ giải thoát hoàn toàn.
Nho ơl!
Tôi đã nhận được thơ của Nho. Xin cám ơn Nho. Đọc thơ thấy Nho giàu lòng mộ đạo và đã dẻo dai tìm kiếm chân lý huyền diệu nơi đạo pháp tôi lấy làm hoan hỷ và rất cảm động. Tôi rất hy vọng Nho được duy trì và phát triển ý chí một cách vững mạnh cho đến khi nào được toại nguyện. Đồng thời, tôi cũng cầu xin chư vị Phật Thần gia hộ cho Nho trên đường tu hành chóng được viên chơn viên giác đạt đến chỗ giải thoát hoàn toàn.
Nho ơl!
Đời ai cũng chết như ai,
Người siêu thăng được, kẻ đày đọa luôn.
Nợ còn hoặc nợ hết vương,
Lý do khiến kiếp vô thường trầm thăng.
Nợ đời nếu hết trói trăn,
Thì đời được rảnh như hàng Tiên Ông.
Rảnh lòng, lòng tợ trời trong,
Rảnh thân, thân tợ lông hồng nhẹ bay.
Trời trong được nhật nguyệt khai,
Lông hồng được vãng lai đầy tự do.
Mấy lời xin nhắn cùng Nho!
Sống trong cởi mở chớ cho buộc ràng.
Nho ơi! đường Phật Tây Phang,
Thân tâm càng nhẹ thì càng tới mau.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Nho, bửu quyến và tất cả anh chị em cô bác ở quê nhà đều được vạn sự an lành và tu hành sáng tỏ.
THANH SĨ
Lá thư số 192: Tokyo, ngày 26-6-1968
Lá thư số 192: Tokyo, ngày 26-6-1968
Tokyo, ngày 26-6-1968
Gởi Nguyễn Thị Hường
Nguyễn Thị Hường thân mến,
Mấy gói chuối khô tôi đã nhận được. Thành thật cám ơn Hường. Nhưng gởi những gói quà nặng như vậy, tốn nhiều tiền cước phí, xin Hường chớ gởi như thế nữa. Độ nầy Hường và quý quyến có được mạnh khỏe không? Và tinh thần giác ngộ đạo đức được phát triển nhiều không? Trong khi nước loạn dân nguy, không biết bao nhiêu những nỗi buồn khổ xảy ra hằng ngày trong đời sống, tôi rất ước mong Hường cũng như tất cả anh chị em ở quê nhà biết lấy đại hùng đại lực vượt qua những nỗi buồn khổ ấy và lấy đại từ đại bi an ủi cứu giúp lẫn nhau chuyển họa ra phước, đổi oán ra Ân, để cùng được sống còn, cùng được yên vui no ấm hiện hữu và cùng được thoát kiếp sanh tử khổ ách sau nầy. "Hữu chí cánh thành", Hường và anh chị em rán tinh tấn trên đường chánh đạo.
Hường ơi! trong xã hội loài người gặp những lúc tai nạn đau khổ, thì xét ra không có sự gì cao quí bằng chơn đạo đức và không có sự gì cần thiết bằng rộng tình thương mà dù tư tưởng con người đời nay có khác tư tưởng con người đời xưa bao nhiêu thì cũng phải nhìn nhận như vậy. Cái chơn đạo đức và rộng tình thương trong con người càng có nhiều thì đời sống trong xã hội càng có lắm hạnh phúc thanh bình.
Tôi dám quả quyết như vậy. Hường có tin như tôi không? Trong hoàn cảnh nào cũng thế, con người trở nên thiện hay trở nên ác đều là do sự quyết định nơi tâm mình làm trước vậy. Hường nên luôn luôn chú tâm và cố gắng tu thân hành đạo cho được toàn thiện toàn mỹ, toàn giác toàn minh. Tôi hy vọng được thấy Hường chứng chơn đạo quả trên đường tu qua bao cơn hỗn độn.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Hường, quý quyến và anh chị em xa gần ở quê nhà đều được vạn sự an lành.
Nguyễn Thị Hường thân mến,
Mấy gói chuối khô tôi đã nhận được. Thành thật cám ơn Hường. Nhưng gởi những gói quà nặng như vậy, tốn nhiều tiền cước phí, xin Hường chớ gởi như thế nữa. Độ nầy Hường và quý quyến có được mạnh khỏe không? Và tinh thần giác ngộ đạo đức được phát triển nhiều không? Trong khi nước loạn dân nguy, không biết bao nhiêu những nỗi buồn khổ xảy ra hằng ngày trong đời sống, tôi rất ước mong Hường cũng như tất cả anh chị em ở quê nhà biết lấy đại hùng đại lực vượt qua những nỗi buồn khổ ấy và lấy đại từ đại bi an ủi cứu giúp lẫn nhau chuyển họa ra phước, đổi oán ra Ân, để cùng được sống còn, cùng được yên vui no ấm hiện hữu và cùng được thoát kiếp sanh tử khổ ách sau nầy. "Hữu chí cánh thành", Hường và anh chị em rán tinh tấn trên đường chánh đạo.
Hường ơi! trong xã hội loài người gặp những lúc tai nạn đau khổ, thì xét ra không có sự gì cao quí bằng chơn đạo đức và không có sự gì cần thiết bằng rộng tình thương mà dù tư tưởng con người đời nay có khác tư tưởng con người đời xưa bao nhiêu thì cũng phải nhìn nhận như vậy. Cái chơn đạo đức và rộng tình thương trong con người càng có nhiều thì đời sống trong xã hội càng có lắm hạnh phúc thanh bình.
Tôi dám quả quyết như vậy. Hường có tin như tôi không? Trong hoàn cảnh nào cũng thế, con người trở nên thiện hay trở nên ác đều là do sự quyết định nơi tâm mình làm trước vậy. Hường nên luôn luôn chú tâm và cố gắng tu thân hành đạo cho được toàn thiện toàn mỹ, toàn giác toàn minh. Tôi hy vọng được thấy Hường chứng chơn đạo quả trên đường tu qua bao cơn hỗn độn.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Hường, quý quyến và anh chị em xa gần ở quê nhà đều được vạn sự an lành.
THANH SĨ
Lá thư số 193: Tokyo, ngày 16-7-1968
Lá thư số 193: Tokyo, ngày 16-7-1968
Tokyo, ngày 16-7-1968,
Trường, Yến thân mến,
Chạm vào cảnh huống ngoài ý muốn và quá sức đối ứng của mình khiến Trường, Yến lo ngại đó không phải là vô lý. Nhưng nếu tin có số mạng, có Phật Thần chiếu giám, thì Trường, Yến thay vì lo ngại hãy rán tăng cao tâm lực tu hành, cố gắng phương tiện bồi bổ công đức và chí thành cầu nguyện chư vị Phật Thần hộ độ, chẳng những có nhiều cảm ứng mà cũng là đúng với tư cách của con người đã giác ngộ đạo pháp. Có phải không?
Trường, Yến ơi! Chiến tranh là nghiệp chung của dân họa chung của nước, mà đa số đồng bào đều phải chịu kẻ nhiều người ít, bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp dưới mọi hình thức khác nhau, không riêng ai đâu. Trường, Yến chớ quá nghĩ rằng mình thiếu phước mà sanh ra phiền não như thường tình làm tổn giảm đạo tâm và đức tin không nên. Chịu đủ thứ khổ là kiếp người, cho nên con người cần phải nên lo tu thân hành đạo để giải khổ là như vậy. Nếu không có mục đích cao cả ấy, thì sự tu đâu có ý nghĩa gì. Trường, Yến có nhận thế không?
Tóm lại là gặp cảnh khổ chừng nào càng thấy rõ cõi đời là khổ chừng nấy, chỉ nên thêm sức tu hành để xoi phá cả vỏ nghiệp nhân duyên sanh tử thống khổ mà thôi. Nếu không có chí nguyện ấy tất khó được giải thoát mau lẹ.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Trường, Yến, cả gia quyến đều được vạn sự an lành và xin chuyển hộ lời tôi thăm hỏi tất cả anh chị em thiện tín ở xa gần.
Chạm vào cảnh huống ngoài ý muốn và quá sức đối ứng của mình khiến Trường, Yến lo ngại đó không phải là vô lý. Nhưng nếu tin có số mạng, có Phật Thần chiếu giám, thì Trường, Yến thay vì lo ngại hãy rán tăng cao tâm lực tu hành, cố gắng phương tiện bồi bổ công đức và chí thành cầu nguyện chư vị Phật Thần hộ độ, chẳng những có nhiều cảm ứng mà cũng là đúng với tư cách của con người đã giác ngộ đạo pháp. Có phải không?
Trường, Yến ơi! Chiến tranh là nghiệp chung của dân họa chung của nước, mà đa số đồng bào đều phải chịu kẻ nhiều người ít, bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp dưới mọi hình thức khác nhau, không riêng ai đâu. Trường, Yến chớ quá nghĩ rằng mình thiếu phước mà sanh ra phiền não như thường tình làm tổn giảm đạo tâm và đức tin không nên. Chịu đủ thứ khổ là kiếp người, cho nên con người cần phải nên lo tu thân hành đạo để giải khổ là như vậy. Nếu không có mục đích cao cả ấy, thì sự tu đâu có ý nghĩa gì. Trường, Yến có nhận thế không?
Tóm lại là gặp cảnh khổ chừng nào càng thấy rõ cõi đời là khổ chừng nấy, chỉ nên thêm sức tu hành để xoi phá cả vỏ nghiệp nhân duyên sanh tử thống khổ mà thôi. Nếu không có chí nguyện ấy tất khó được giải thoát mau lẹ.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Trường, Yến, cả gia quyến đều được vạn sự an lành và xin chuyển hộ lời tôi thăm hỏi tất cả anh chị em thiện tín ở xa gần.
THANH SĨ
P.B.: Có gởi kèm một tấm ảnh của tôi theo đây để tặng Nho
Lá thư số 194: Tokyo, ngày 16-7-1968
Lá thư số 194: Tokyo, ngày 16-7-1968
Tokyo, ngày 16-7-1968,
Kinh Luân thân mến,
Được thơ Luân tôi rất cảm động. Xin cám ơn Luân và anh em luôn nhớ đến tôi. Được biết ở quê nhà Luân, anh chị em đồng đạo và Bà Mười được yên lành tôi rất an tâm. Hiện ở bên nầy tôi vẫn được sức khỏe và mọi việc vẫn như thường, không có điều gì đáng lo. Luân, anh chị em đồng đạo và Bà Mười hãy nên an lòng lo đoàn kết chặt chẽ tích cực phụng sự công cuộc đạo nghĩa.
Luân ơi! Mặc dù tôi đang ở cách nước nhà vạn dặm, nhưng những sự tệ hại diễn ra trong đoàn thể tôi rất được biết rõ, nhưng khi đọc thơ của Luân, càng xác nhận rõ thêm. Khiến cho lòng tôi rất buồn tủi. Buồn cho sự nghiệp thiêng liêng trọng đại của Tổ Thầy. Đáng lý ra, họ phải hợp sức với chúng ta để cùng lo vun quén xây đắp cho nền đạo Phật Giáo Hòa Hảo được triển khai rộng khắp, ngược lại họ chỉ mượn danh làm cho hoen ố nền đạo, càng ngày càng thêm lu mờ, không còn sáng tỏ được như xưa, nỡ đan tâm chiều theo những dục vọng thấp hèn, khiến cho mờ đi lương thức, tạo thêm nhiều xấu xa và tội lỗi vô cùng. Tôi tủi là vì mình không đủ đầy hạnh đức, mặc dù đã tiên liệu gởi cho họ những lời chân thành khuyến nhắc và cảnh tỉnh qua những vần thơ, thế mà họ chẳng hợp duyên, nên không hối quá cứ mãi lầm lũi đi vào vực thẳm hố sâu. Ở bên nầy tôi rất đau lòng khi gặp các giới hỏi đến.
Thôi kể từ đây, ở quê nhà nếu có diễn ra những gì xấu xa tội lỗi hơn nữa, tôi khuyên Luân, anh em đồng đạo hãy bình tâm, không nên oán hận họ chi cho mệt, mà là nên lấy lòng quảng ái thứ tha, nếu cứu độ được thì cứ lo cứu độ, bằng không được thì nên thương hại họ, vì họ đang lọt xuống hố sâu, chẳng biết bao giờ mới được giải thoát.
Về việc vắng mặt anh Toàn và Màng tôi rất buồn. Tôi luôn luôn cầu xin Đức Tiếp Dẫn đưa những vong linh của các anh ấy về Phật, để chờ ngày Liên Hoa tái ngộ nhau.
Cám ơn Luân đã có lòng nhớ tôi và viết thơ cho tôi, Luân đã thể hiện đầy nhiệt tình, chứng tỏ Luân đã biết bảo tồn vĩ nghiệp thiêng liêng cao quí của Tổ Thầy, tôi rất cảm kính nhiệt tình ấy.
Gởi lời thăm Sang, Phẩm, Điểm, Minh, Hinh xin chúc được luôn mạnh khỏe cố gắng lo tròn đạo nghĩa.
Riêng tôi với Luân, cũng như anh em đồng đạo, xin nguyện rằng:
Khối tình sắt đá thiêng liêng,
Không ai có thể đem nghiền cho tan.
Nguyện đem tiếng ngọc lời vàng,
Của Thầy của Tổ chỉ đàng đệ huynh.
Dẫu người chẳng hiểu lòng mình,
Tranh giành ngôi vị chống kình chớ lo.
Vì trên đã có hẹn hò,
Hiệp nhau dắt chúng mới lo như vầy.
Vưng trên lệnh của Tổ Thầy,
Quyết tâm đền đáp cho khuây tấc lòng.
Nhắn cùng nam nữ đạo đồng,
Quê nhà vững chí một lòng tưởng tin.
Bầu trời tuy rộng thinh thinh,
Nhân nào quả nấy hãy tin kẻo lầm.
Mưu sâu khó tránh họa thâm,
Xưa nay báo ứng không lầm một ai.
Mặc dù Thầy phải nạn tai,
Âm thầm lai viếng mỗi ngày chẳng xa.
Chừng khi trở lại quê nhà,
Mới lo hối quá thì ra muộn rồi.
Sớm nên tỉnh thức ai ơi!
Mấy lời, xin chúc Luân anh em lớn nhỏ quê nhà đều được bình an.
Được thơ Luân tôi rất cảm động. Xin cám ơn Luân và anh em luôn nhớ đến tôi. Được biết ở quê nhà Luân, anh chị em đồng đạo và Bà Mười được yên lành tôi rất an tâm. Hiện ở bên nầy tôi vẫn được sức khỏe và mọi việc vẫn như thường, không có điều gì đáng lo. Luân, anh chị em đồng đạo và Bà Mười hãy nên an lòng lo đoàn kết chặt chẽ tích cực phụng sự công cuộc đạo nghĩa.
Luân ơi! Mặc dù tôi đang ở cách nước nhà vạn dặm, nhưng những sự tệ hại diễn ra trong đoàn thể tôi rất được biết rõ, nhưng khi đọc thơ của Luân, càng xác nhận rõ thêm. Khiến cho lòng tôi rất buồn tủi. Buồn cho sự nghiệp thiêng liêng trọng đại của Tổ Thầy. Đáng lý ra, họ phải hợp sức với chúng ta để cùng lo vun quén xây đắp cho nền đạo Phật Giáo Hòa Hảo được triển khai rộng khắp, ngược lại họ chỉ mượn danh làm cho hoen ố nền đạo, càng ngày càng thêm lu mờ, không còn sáng tỏ được như xưa, nỡ đan tâm chiều theo những dục vọng thấp hèn, khiến cho mờ đi lương thức, tạo thêm nhiều xấu xa và tội lỗi vô cùng. Tôi tủi là vì mình không đủ đầy hạnh đức, mặc dù đã tiên liệu gởi cho họ những lời chân thành khuyến nhắc và cảnh tỉnh qua những vần thơ, thế mà họ chẳng hợp duyên, nên không hối quá cứ mãi lầm lũi đi vào vực thẳm hố sâu. Ở bên nầy tôi rất đau lòng khi gặp các giới hỏi đến.
Thôi kể từ đây, ở quê nhà nếu có diễn ra những gì xấu xa tội lỗi hơn nữa, tôi khuyên Luân, anh em đồng đạo hãy bình tâm, không nên oán hận họ chi cho mệt, mà là nên lấy lòng quảng ái thứ tha, nếu cứu độ được thì cứ lo cứu độ, bằng không được thì nên thương hại họ, vì họ đang lọt xuống hố sâu, chẳng biết bao giờ mới được giải thoát.
Về việc vắng mặt anh Toàn và Màng tôi rất buồn. Tôi luôn luôn cầu xin Đức Tiếp Dẫn đưa những vong linh của các anh ấy về Phật, để chờ ngày Liên Hoa tái ngộ nhau.
Cám ơn Luân đã có lòng nhớ tôi và viết thơ cho tôi, Luân đã thể hiện đầy nhiệt tình, chứng tỏ Luân đã biết bảo tồn vĩ nghiệp thiêng liêng cao quí của Tổ Thầy, tôi rất cảm kính nhiệt tình ấy.
Gởi lời thăm Sang, Phẩm, Điểm, Minh, Hinh xin chúc được luôn mạnh khỏe cố gắng lo tròn đạo nghĩa.
Riêng tôi với Luân, cũng như anh em đồng đạo, xin nguyện rằng:
Khối tình sắt đá thiêng liêng,
Không ai có thể đem nghiền cho tan.
Nguyện đem tiếng ngọc lời vàng,
Của Thầy của Tổ chỉ đàng đệ huynh.
Dẫu người chẳng hiểu lòng mình,
Tranh giành ngôi vị chống kình chớ lo.
Vì trên đã có hẹn hò,
Hiệp nhau dắt chúng mới lo như vầy.
Vưng trên lệnh của Tổ Thầy,
Quyết tâm đền đáp cho khuây tấc lòng.
Nhắn cùng nam nữ đạo đồng,
Quê nhà vững chí một lòng tưởng tin.
Bầu trời tuy rộng thinh thinh,
Nhân nào quả nấy hãy tin kẻo lầm.
Mưu sâu khó tránh họa thâm,
Xưa nay báo ứng không lầm một ai.
Mặc dù Thầy phải nạn tai,
Âm thầm lai viếng mỗi ngày chẳng xa.
Chừng khi trở lại quê nhà,
Mới lo hối quá thì ra muộn rồi.
Sớm nên tỉnh thức ai ơi!
Mấy lời, xin chúc Luân anh em lớn nhỏ quê nhà đều được bình an.
THANH SĨ
Lá thư số 195: Tokyo, ngày 2-8-1968
Lá thư số 195: Tokyo, ngày 2-8-1968
Tokyo, ngày 2-8-1968,
Lê Cảnh Nho thân mến,
Cả hai cái thơ vừa qua của Nho, ở bên đây tôi đã nhận được. Rất cám ơn Nho. Xin Nho vui lòng thứ cho sự hồi âm chậm trễ, vì độ nầy tôi có nhiều việc bận.
Trong thơ Nho đã đề cập đến mấy điều mà Nho nhận định và thú thiệt tôi thấy rất đúng. Đây có thể chứng minh cho sự trường kỳ truy cầu chân lý đã qua của Nho rất có ảnh hưởng tốt, không phải hoàn toàn vô ích như Nho đã bi quan, chẳng qua Nho chưa để ý đến mà thôi.
Còn vấn đề "Pháp Môn Thiền Định" mà Nho muốn cầu học, theo tôi nhận thấy khái yếu là nên nhựt nhựt thường hành như vầy:
Phải quán triệt tâm mình,
Tập trung tâm làm một.
Vượt qua biển tử sinh,
Đi thẳng vào cõi Phật.
---
Thấy tâm được thấy Phật,
Nguyện Phật với tâm thông.
Chớ kiếm tâm ngoài cảnh,
Phải tìm tâm trong lòng.
Ở đâu tâm cũng ngó,
Động tịnh tâm thường trông.
Khi chủ tâm vô ngại,
Phàm liền Phật cùng đồng.
Cả hai cái thơ vừa qua của Nho, ở bên đây tôi đã nhận được. Rất cám ơn Nho. Xin Nho vui lòng thứ cho sự hồi âm chậm trễ, vì độ nầy tôi có nhiều việc bận.
Trong thơ Nho đã đề cập đến mấy điều mà Nho nhận định và thú thiệt tôi thấy rất đúng. Đây có thể chứng minh cho sự trường kỳ truy cầu chân lý đã qua của Nho rất có ảnh hưởng tốt, không phải hoàn toàn vô ích như Nho đã bi quan, chẳng qua Nho chưa để ý đến mà thôi.
Còn vấn đề "Pháp Môn Thiền Định" mà Nho muốn cầu học, theo tôi nhận thấy khái yếu là nên nhựt nhựt thường hành như vầy:
Phải quán triệt tâm mình,
Tập trung tâm làm một.
Vượt qua biển tử sinh,
Đi thẳng vào cõi Phật.
---
Thấy tâm được thấy Phật,
Nguyện Phật với tâm thông.
Chớ kiếm tâm ngoài cảnh,
Phải tìm tâm trong lòng.
Ở đâu tâm cũng ngó,
Động tịnh tâm thường trông.
Khi chủ tâm vô ngại,
Phàm liền Phật cùng đồng.
Nho ơi! Người hành đạo trước hết phải có đầy đủ đức tin, kế đó phải cương quyết tu luyện cho kỳ được như đức tin ấy trên đường chuyển mê khai ngộ tiến đến tịch tịnh niết bàn. Những công việc siêu xuất thế gian hầu hết là rất khó, nhưng nó vẫn tùy theo quyết chí của con người. Do đó đã có vô số tiền nhân bắt đầu từ con người bình phàm mà được trở thành Phật hoàn toàn Chánh Đẳng Chạnh Giác. Vậy Nho rán củng cố ý chí và tinh tấn tu hành cho đến khi nào được mãn nguyện.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc Nho, quý quyến và tất cả anh chị em ở quê nhà đều được an lành.
Thanh Sĩ
P.B.: Có gởi kèm 1 tấm ảnh nhỏ theo đây để tặng Nho
THANH SĨ
Lá thư số 196: Tokyo, ngày 12-8-1968
Lá thư số 196: Tokyo, ngày 12-8-1968
Tokyo, ngày 12-8-1968,
Trường, Yến thân mến,
Bức thơ vừa rồi tôi đã nhận được. Cám ơn Trường, Yến. Hiện thời tôi vẫn được mạnh khỏe và đang nghỉ hè. Mọi việc không có gì thay đổi. Xin Trường, Yến và anh chị em ở quê nhà nên an tâm và rán tu hành tinh tấn, dù sống giữa thời cuộc hỗn độn khó khăn mọi mặt.
Bức thơ vừa rồi tôi đã nhận được. Cám ơn Trường, Yến. Hiện thời tôi vẫn được mạnh khỏe và đang nghỉ hè. Mọi việc không có gì thay đổi. Xin Trường, Yến và anh chị em ở quê nhà nên an tâm và rán tu hành tinh tấn, dù sống giữa thời cuộc hỗn độn khó khăn mọi mặt.
Trường, Yến và chư thiện tín ơi!
Mỗi ngày để mắt ngó gương đời.
Làm lành, lành trả, lành nên học,
Tạo dữ, dữ sanh, dữ chớ noi.
Đời khổ họa vì ma nghiệp rước,
Người an vui bởi Phật tâm mời,
Xưa nay nhân quả còn linh mãi,
Trường, Yến và chư thiện tín ơi!
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Trường, Yến, cả quyến thuộc và anh chị em lớn nhỏ gần xa ở quê nhà đều được mạnh lành may mắn và được chư vị Phật Thần trợ trưởng thêm rộng phước duyên, chóng khai trí huệ. Và xin chuyển giao bức thơ kèm theo đây cho Thanh Tịnh.
THANH SĨ
Lá thư số 197: Tokyo, ngày 15-8-1968
Lá thư số 197: Tokyo, ngày 15-8-1968
Tokyo, ngày 15-8-1968
Gởi các ông: ĐỀN, CHÚC, CHIA, NÊ, MƯA
Kính gởi: Lê Quang Đền, Trương Kính Chúc, Nguyễn Văn Chia, Trương Văn Nê, Nguyễn Văn Mưa,
Kính gởi: Lê Quang Đền, Trương Kính Chúc, Nguyễn Văn Chia, Trương Văn Nê, Nguyễn Văn Mưa,
Tôi rất hân hạnh đã nhận được thơ của mấy anh em, Thành thật tôi rất cám ơn mấy anh em đã nhã ý viết thơ thăm tôi. Hiện thời tôi được khỏe mạnh bình thường. Được biết mấy anh em có thiện chí và nhiệt tâm với đạo, tôi rất mừng lắm. Tâm trí ấy là tài sản thiêng liêng, mấy anh em rán bảo tồn và tùy tiện làm phát triển tốt trong mọi hoàn cảnh. Trên đường đạo đừng bao giờ để cho mình đi ngược chơn lý, hoặc làm thối chuyển tinh thần.
Đời càng cạnh tranh, càng hỗn độn thì đạo gặp càng nhiều khó khăn và càng ít người tinh tấn tu hành chơn chánh. Đó chẳng qua vì có nhiều xúi giục, thúc đẩy, thử thách, cám dỗ v.v… của đời mà bản thân còn nhiều tham dục phàm tâm. Ở đời mạt pháp mà biết tu hành gặp được chánh đạo là những người đã có phước lớn có duyên sâu với Phật, thế mà không giữ vẹn bước tu cho đến ngày thành tựu đạo quả thật là uổng hơn đem đổ ngàn vạn triệu tấn vàng giữa biển sâu.
Vì rằng:
Đời càng cạnh tranh, càng hỗn độn thì đạo gặp càng nhiều khó khăn và càng ít người tinh tấn tu hành chơn chánh. Đó chẳng qua vì có nhiều xúi giục, thúc đẩy, thử thách, cám dỗ v.v… của đời mà bản thân còn nhiều tham dục phàm tâm. Ở đời mạt pháp mà biết tu hành gặp được chánh đạo là những người đã có phước lớn có duyên sâu với Phật, thế mà không giữ vẹn bước tu cho đến ngày thành tựu đạo quả thật là uổng hơn đem đổ ngàn vạn triệu tấn vàng giữa biển sâu.
Vì rằng:
Mất vàng không chết con người,
Nhưng mà mất đạo muôn đời tiêu ma.
Đạo là đường cứu người ta,
Cho nên gặp đạo phải là nắm luôn.
Mấy anh em nên rán giữ vững đức tin nơi chánh đạo, rán củng cố tinh thần sắt thép trên đường tu và rán tùy tài tùy sức lo tròn việc đạo nghĩa. Mấy anh em tin câu "Nhơn hữu thiện nguyện, Thiên tất tùng chi". Điều nào cũng có mắt Phật Thần xem đến và sự thưởng phạt rất công minh, không sai đâu.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho mấy anh em và tất cả đồng đạo xa gần được vạn sự an lành.
THANH SĨ
Lá thư số 198: Tokyo, ngày 17-8-1968
Lá thư số 198: Tokyo, ngày 17-8-1968
Tokyo, ngày 17-8-1968
Nguyễn Văn Sen thân mến,
Cám ơn Sen đã có lòng tốt chịu khó viết thơ thăm tôi. Tôi vẫn được khỏe mạnh như thường. Được biết vợ chồng Sen có lòng mộ đạo tôi rất cảm kích. Nếu không có duyên với Phật, thì lòng bộ đạo ấy tất khó có được là vì thời đại gọi là vũ trụ, nguyên tử. văn minh vật chất như ngày nay. Lòng mộ đạo ấy có thể bắt nguồn với chư Phật để đi đến chỗ siêu thoát. Và lòng mộ đạo ấy là linh dược là đèn thần của đời sống hiện hữu, vợ chồng Sen nên gìn giữ, nên trau giồi và nên cố gắng làm cho nó được phát triển, không nên để nó bị phai mờ lạc mất trong hoàn cảnh nào. Còn Sen muốn biết cách tu niệm, nơi đây tôi xin tóm tắt vào mấy câu thơ như sau:
Trong lòng nhớ niệm Phật Di Đà,
Tin có vô hình thấy rõ ta.
Việc ác lợi bao đừng ngó tới,
Điều lành khó mấy rán làm ra.
Tâm Trần khá lóng ra tâm Phật,
Niệm Chánh đem thay các niệm tà.
Tu cố thắng đời bao chướng ngại,
Cõi mầu nhiệm có thể thông qua.
Sau đây về việc con cái đối với cha mẹ có hiếu hay không, ngoài cái nghiệp trước và ngoài cái bản chất ra, còn có một phần lớn do ảnh hưởng nơi cách dạy dỗ, cách sanh hoạt của cha mẹ và do sự hấp thụ không khí xã hội chung quanh mà ra. Nên căn cứ theo đó để truy nguyên, để cải thích và để an ủi là không lầm. Đồng thời, nên tin ở đời việc gì cũng có nhân có quả, ấy do tư tưởng ngôn ngữ và hành vi của mình sanh ra.
Thế cho nên, mình có thể cải tạo nó được, nếu lòng mình biết giác ngộ biết cương quyết. Tôi hy vọng vợ chồng Sen biết lấy chơn lý đạo Phật để cân nhắc đời mình hầu có đổi buồn ra vui, đổi mê ra tỉnh và đổi xấu ra tốt lành.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho cả gia đình Sen và anh chị em lớn nhỏ ở quê nhà đều được vạn an.
THANH SĨ
Lá thư số 199: Tokyo, ngày 17-8-1968
Lá thư số 199: Tokyo, ngày 17-8-1968
Tokyo, ngày 17-8-1968
Đời như chìm đắm đạo như thuyền,
Gặp đạo ấy là phước vạn niên.
Gương hạnh từ bi nên học tập,
Con đường giải thoát rán tinh chuyên,
Đời dù bẩn trược đừng cho bẩn,
Người ít hiền lương cũng rán hiền.
Cố gắng làm lành và niệm Phật,
Trồng cây, ăn trái tự nhiên nhiên.
THANH SĨ
Lá thư số 200: Tokyo, ngày 17-8-1968
Lá thư số 200: Tokyo, ngày 17-8-1968
Tokyo, ngày 17-8-1968
Thân gởi Phan Thị Tám,
Ngó kiếp phù sanh đã xế chiều,
Cuộc đời lẩn quẩn cũng bao nhiêu.
Đường về Tịnh Độ nên lo liệu,
Cửa ải trần gian chớ bíu dìu.
Làm phước làm lành cho khỏi khổ,
Tu tâm luyện tánh để mau siêu.
Sớm hôm nhớ niệm Di Đà Phật,
Tin kẻ chơn tu có Phật dìu.
THANH SĨ
Lá thư số 201: Tokyo, ngày 17-8-1968
Lá thư số 201: Tokyo, ngày 17-8-1968
Tokyo, ngày 17-8-1968,
Thân gởi Trần Thị Cưu
Biết đời là khổ rán tu hành,
Tu đến khi nào được vãng sanh.
Mượn đạo đưa thân phàm đến Thánh,
Lấy kinh đo việc dữ hay lành.
Khá lo phước đức cho sâu rộng,
Nên luyện tâm hồn được bạch thanh.
Gai gốc đường tu nhưng rán bước,
Phật không bỏ kẻ có tâm thành.
Biết đời là khổ rán tu hành,
Tu đến khi nào được vãng sanh.
Mượn đạo đưa thân phàm đến Thánh,
Lấy kinh đo việc dữ hay lành.
Khá lo phước đức cho sâu rộng,
Nên luyện tâm hồn được bạch thanh.
Gai gốc đường tu nhưng rán bước,
Phật không bỏ kẻ có tâm thành.
THANH SĨ
Lá thư số 202: Tokyo ngày 17-8-1968
Lá thư số 202: Tokyo ngày 17-8-1968
Tokyo ngày 17-8-1968,
Gởi Nguyễn Thị Kim Chi
Thân gởi Nguyễn Thị Kim Chi,
Đời nầy tuổi trẻ ít ai tu,
Tu được quí hơn được bảo châu.
Sống tốt, sống lành nên tạo tác,
Ở gian, ở ác chớ mưu cầu.
Thiện tâm mỗi bữa càng gìn chặt,
Chánh đạo suốt đời rán tiến sâu.
Nhân thiện đương nhiên sanh quả thiện,
Nên đi đường Phật khỏi đau sầu.
Thân gởi Nguyễn Thị Kim Chi,
Đời nầy tuổi trẻ ít ai tu,
Tu được quí hơn được bảo châu.
Sống tốt, sống lành nên tạo tác,
Ở gian, ở ác chớ mưu cầu.
Thiện tâm mỗi bữa càng gìn chặt,
Chánh đạo suốt đời rán tiến sâu.
Nhân thiện đương nhiên sanh quả thiện,
Nên đi đường Phật khỏi đau sầu.
THANH SĨ
Lá thư số 203: Tokyo, ngày 9-9-1968
Lá thư số 203: Tokyo, ngày 9-9-1968
Tokyo, ngày 9-9-1968,
Hoàng Bình thân mến,
Bức thơ đề ngày 30-7, tôi đã nhận được, nhưng không riêng thơ của Hoàng Bình mà còn có nhiều thơ của anh chị em gởi đến luôn, cho nên tôi phải tuần tự trả lời, thành ra bức thơ nầy mới trễ đến hôm nay. Xin Hoàng Bình thông cảm cho mà không nỡ phiền trách sự chờ đợi quá lâu. Lúc nầy tôi vẫn được mạnh lành và kỳ nghỉ hè đã hết, ngày mai nầy tôi sẽ bắt đầu đi dạy trở lại ở trường đại học như thường lệ. Ngoài ra, không có sự gì thay đổi, xin Hoàng Bình và anh chị em ở quê nhà nên an tâm.
Bức thơ đề ngày 30-7, tôi đã nhận được, nhưng không riêng thơ của Hoàng Bình mà còn có nhiều thơ của anh chị em gởi đến luôn, cho nên tôi phải tuần tự trả lời, thành ra bức thơ nầy mới trễ đến hôm nay. Xin Hoàng Bình thông cảm cho mà không nỡ phiền trách sự chờ đợi quá lâu. Lúc nầy tôi vẫn được mạnh lành và kỳ nghỉ hè đã hết, ngày mai nầy tôi sẽ bắt đầu đi dạy trở lại ở trường đại học như thường lệ. Ngoài ra, không có sự gì thay đổi, xin Hoàng Bình và anh chị em ở quê nhà nên an tâm.
Mấy điều của Bình đã hỏi, tôi xin có ý kiến là: Đời càng bất nghĩa thì càng có lý do sanh ra chánh nghĩa: Sẽ thu phục nhân tâm và sẽ thành công rực rỡ sau bao nhiêu cuộc tranh đấu gian truân khổ ải. Công việc càng lớn bao nhiêu thì sự hy sinh càng nhiều bấy nhiêu, nếu công việc có tánh cách lịch sử thì càng trả giá đắc hơn nữa. Ruộng càng lớn tốn giống càng nhiều, có chịu tốn như vậy, mới thu lúa vào nhiều được. Nói cho dễ hiểu là như thế.
Còn Hoàng Bình thấy tâm trí đang sáng tỏ, bỗng nhiên trở lại lu mờ, sự sáng ấy không phải từ bổn tâm thanh tịnh, mà nó chỉ là do ảo giác, cho nên nó khi hiện khi biến bất thường. Vì vậy sớm chiều cần phải thiền quán ngó lại tâm mình để thấy rõ sự động tịnh của nó rồi tự mình định các vọng niệm, các tánh tội lỗi ô trược, phàm phu cho đến khi thật trong suốt lặng lẽ thân tâm. Chơn tâm hiện ra từ đó, và chiếu thông khắp cả vạn tượng sum la không sót lọt. Ánh sáng nầy mới là ánh sáng diệu huyền bất diệt.
Tuy nhiên, thiền quán là tự lực tự độ, đối với người đời rất khó được, theo tôi thấy cách tu trì niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” nhờ tha lực tha độ chắc chắn sẽ có được kết quả siêu thoát như ý nguyện hơn. Nhưng cách tu nào cũng tùy tâm quyết của mình, khi tâm mình đã quyết thì cách tu nào cũng có thể hành được. Vậy Hoàng Bình nên suy xét tâm lực của mình và luôn tự chọn lấy cách tu cho thích hợp.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc Hoàng Bình, cả quý quyến và tất cả anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được an lành và tu hành được mãn nguyện.
THANH SĨ
Lá thư số 204: Tokyo ngày 11-9-1968
Lá thư số 204: Tokyo ngày 11-9-1968
Tokyo ngày 11-9-1968,
Gởi Nguyễn Thị Kim Chi
Nguyễn Thị Kim Chi thân mến,
Tôi đã nhận được thơ của Kim Chi, xin cám ơn Kim Chi đã có lời thăm và chúc sức khỏe của tôi. Những điều của Kim Chi đã hỏi ở trong thơ, nơi đây tôi xin phát biểu ý kiến đơn giản là: Theo tôi thiết tưởng thì kinh kệ có tánh cách chỉ dạy tội phước, chánh tà và đường lối tu hành đúng chơn lý để đạt đến mức cứu cánh siêu nhiên, không phải để tụng mong lấy lệ sớm chiều như đa số người đời đã nghĩ tưởng.
Nhưng nếu cả gia đình của Kim Chi sợ rằng bỏ tụng kinh sẽ có lỗi thì đến giờ tụng kinh nên tụng trong tâm, và kế đó nên công phu và hành đạo theo sấm giảng của Đức Thầy (Đức Huỳnh Giáo Chủ). Đồng thời, nhớ luôn thành tâm mặc niệm Nam Mô A Di Đà Phật để nhờ Phật lực cứu độ cho khỏi nạn tai, khỏi bệnh tật và khỏi biển khổ sông mê, được vãng sanh về cõi Cực Lạc và được dự Hội Long Hoa tại thế.
Để giúp cho sự niệm Phật mau có hiệu quả vi diệu, nên tu thập thiện, bát chánh hằng ngày trong đời sống động giữa xã hội.
Nguyễn Thị Kim Chi thân mến,
Tôi đã nhận được thơ của Kim Chi, xin cám ơn Kim Chi đã có lời thăm và chúc sức khỏe của tôi. Những điều của Kim Chi đã hỏi ở trong thơ, nơi đây tôi xin phát biểu ý kiến đơn giản là: Theo tôi thiết tưởng thì kinh kệ có tánh cách chỉ dạy tội phước, chánh tà và đường lối tu hành đúng chơn lý để đạt đến mức cứu cánh siêu nhiên, không phải để tụng mong lấy lệ sớm chiều như đa số người đời đã nghĩ tưởng.
Nhưng nếu cả gia đình của Kim Chi sợ rằng bỏ tụng kinh sẽ có lỗi thì đến giờ tụng kinh nên tụng trong tâm, và kế đó nên công phu và hành đạo theo sấm giảng của Đức Thầy (Đức Huỳnh Giáo Chủ). Đồng thời, nhớ luôn thành tâm mặc niệm Nam Mô A Di Đà Phật để nhờ Phật lực cứu độ cho khỏi nạn tai, khỏi bệnh tật và khỏi biển khổ sông mê, được vãng sanh về cõi Cực Lạc và được dự Hội Long Hoa tại thế.
Để giúp cho sự niệm Phật mau có hiệu quả vi diệu, nên tu thập thiện, bát chánh hằng ngày trong đời sống động giữa xã hội.
Cần phải tự chủ lấy tâm mình để chinh phục tất cả tội lỗi và để thực hiện tánh lành, hạnh tốt đúng đạo nghĩa, đúng chơn lý.
Việc tu hành, việc làm lành, làm phải là những việc khó làm và rất cò nhiều chướng ngại, cần phải có nhiều nhẫn nại cương quyết đáo để mới được.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin cầu chúc cho Kim Chi, tất cả gia quyến và tất cả anh chị em lớn nhỏ gần xa ở quê nhà đều được vạn sự an lành và tu hành có nhiều phước đức trí huệ.
THANH SĨ
Lá thư số 205: Tokyo, ngày 12-9-1968
Lá thư số 205: Tokyo, ngày 12-9-1968
Tokyo, ngày 12-9-1968,
Gởi Nguyễn Văn Chín
Nguyễn Văn Chín thân mến,
Nguyễn Văn Chín thân mến,
Tôi đã nhận được thơ của Chín. Xin cám ơn Chín. Chín đã có lời cầu chúc sức khỏe xác phàm của tôi. Mặc dù đã mười mấy năm qua Chín không có viết thơ thăm tôi, nhưng tôi rất biết lòng thành của Chín, đối với đạo và đối với tôi. Về căn bịnh Chín đã hỏi trong thơ tôi có ý kiến là:
Theo y học thì bịnh ung thơ có mấy triệu chứng phát ra dễ hiểu là:
1- Người đàn bà từ khoảng 40 tuổi, có những người từ khoảng 30 tuổi trở lên, ngoài những ngày có kinh nguyệt (có tháng) ra, thường bị ra huyết đỏ, đặc biệt là hay bị ra huyết sau khi giao cấu.
2- Khi ra huyết trong huyết có pha chất máu bầm, gần như hóa mủ và có mùi hôi thối khác thường.
Nếu người đàn bà gặp phải hai triệu chứng phát ra như đã kể trên đây, thì phương pháp trước hết là: nên đi đến bác sĩ chuyên môn về bịnh phụ nữ để nhờ họ khám bịnh, và điều trị cho càng sớm càng tốt.
Bịnh ung thơ tử cung nếu được biết sớm và đi ngay đến bác sĩ chuyên môn về bịnh phụ nữ để điều trị (bằng quang tuyến phóng xạ hoặc bằng cách phẫu thuật v.v…) thì có thể mau lành bịnh. Song rất tiếc đa số không chịu khó chú ý đến, hoặc vì hổ thẹn, không nói ra cho thầy thuốc xem, thành thử để cho bịnh càng ngày càng nặng.
Con người mang xác thân tứ đại, ngũ trược và bát khổ cho nên chịu đủ trăm ngàn bịnh tật, nếu không đủ phước đức để cứu khỏi bằng những phép mầu nhiệm thiêng liêng thì nên dùng thuốc phàm để chữa trị bịnh phàm.
Không nên cố chấp một phương diện nào và quyết tâm đạt đến con đường giải thoát, không nên thối chí ngã lòng, bỏ mất đạo tâm ở trong trường hợp hoàn cảnh nào.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin cầu nguyện ơn trên Phật Thần ra tay cứu độ cho cả gia đình Chín được tật bịnh tiêu trừ, tai nạn lướt qua và xin Chín chuyển lời tôi thăm hỏi tất cả các anh chị em lớn nhỏ gần xa ở quê nhà.
Nam Mô Cứu Khổ Cứu Nạn Chúng Sanh Quan Thế Âm Bồ Tát.
THANH SĨ
Lá thư số 206: Tokyo, ngày 20-9-1968
Lá thư số 206: Tokyo, ngày 20-9-1968
Tokyo, ngày 20-9-1968,
Gởi Đỗ Thiện Nhơn
Đỗ Thiện Nhơn thân mến,
Đỗ Thiện Nhơn thân mến,
Tôi đã nhận được thơ của Nhơn. Rất cám ơn Nhơn không quên hỏi thăm và cầu chúc sức khỏe của tôi nơi viễn xứ. Được biết Nhơn cả gia quyến, tất cả anh chị em đồng đạo và Bà Mười vẫn được an ổn mạnh lành, tôi thấy lòng ưu tư được nhẹ đi một phần nào. Độ rày, ở bên nầy tôi cũng được sức khỏe như thường. Xin Nhơn và anh chị em ở quê nhà nên an tâm.
Tuy ở bên Nhựt, nhưng tình hình Việt Nam, nội bộ đoàn thể, và những chuyện gì xảy ra giữa anh chị em trong đạo, tôi vẫn được nghe biết tất cả. Tôi thấy lòng đau như xé nát và đôi khi tôi muốn hét to lên cho thấu thiên đình, nhưng rồi lại thôi vì tôi biết rõ bất cứ nơi đâu cũng có mắt thần soi xét.
Hơn nữa, tôi thấy con người ở thời mạt pháp nầy, phước thì ít, tội thì nhiều, huệ thì cạn, mê thì sâu, cho nên mới sanh ra lắm chuyện quỉ khóc thần sầu mà với tấm lòng từ bi tế độ nhìn vào đó chỉ nên thương xót, không nỡ ghét hờn, càng thương xót càng muốn cứu độ, dù phải mất nhiều thời gian và có nhiều hiểm trở trên bước đi của người hành giả.
Thiện Nhơn ơi!
Mây có che mờ một lúc thôi,
Mặt trời vẫn sáng, sáng muôn đời.
Đạo mầu chỉ héo trong giai đọan,
Đọan ấy qua rồi đạo vẫn tươi.
Thiện Nhơn và anh chị em nên tin chắc như vậy, và nên mạnh mẽ lướt tới trên đường chánh đạo, giác tâm giác hạnh, tự độ độ tha đúng đạo từ bi đại đồng vô ngã.
Đạo chủ nơi tâm rán luyện tâm,
Thấy chơn tâm được thấy huyền thâm.
Di Đà vừa niệm vừa soi tánh,
Sạch bợn trần gian có Phật tầm.
Thiện Nhơn và anh chị em nên nhận định rõ mục đích tu hành để tránh những hành vi tư tưởng trái ngược chơn lý, nghĩa là tránh đem cái xe đặt trước đầu con ngựa. Nếu là người tu thì phải tu cho đúng đạo từ bi và rán tu cho giải thoát các nỗi mê si thống khổ ở cõi hồng trần.
Tu cho mình với người thành,
Chớ tu làm kẻ với mình đọa sa.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Nhơn, cả gia quyến và tất cả anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà đều được Phật Thần phò hộ mạnh lành và tu hành mau kiến tánh minh tâm.
THANH SĨ
Lá thư số 207: Tokyo, ngày 17-9-1968
Lá thư số 207: Tokyo, ngày 17-9-1968
Tokyo, ngày 17-9-1968,
Diệu Đạt thân mến,
Tôi đã nhận được thơ của Diệu Đạt. Rất cám ơn Diệu Đạt đã có những lời vấn an và cầu chúc sức khỏe của tôi nơi đất khách. Sống trong thời cuộc đầy máu lửa, con người dễ bị dao động nhiều phương diện mà Diệu Đạt không thối chuyển đạo tâm vẫn thỉ chung với Phật pháp và hăng hái tiến bước trên đường tu hành đạo đức, như thế là quí báu vô giá trong đời mạt pháp nầy, tôi lấy làm hoan hỷ và rất cảm động.
Từ đây trở đi cho đến ngày thành tựu viên mãn sự tu vẫn còn nhiều khó khăn, Diệu Đạt rán cố gắng tu thân hành đạo, rán lo việc phước thiện để trợ giúp cho đạo quả mau nên và rán lóng sạch các vọng niệm trần gian để cho trí huệ được phát tỏ. Song Diệu Đạt cần phải luôn luôn giữ vững đức tin. Đức tin chẳng những là nguồn sống, mà đức tin còn là mẹ đẻ của thành công, của kết quả vĩ đại, cho nên đức tin càng mạnh càng tốt. Tôi hy vọng Diệu Đạt lúc nào cũng có đức tin như vậy.
Tin có Phật Thần trợ cứu cho,
Tin mình tu được một lòng lo,
Đạo mầu tại thế luôn trau luyện,
Siêu thoát Tây Phương chỗ hẹn hò.
Hôm sớm Di Đà tâm chớ lãng,
Tháng ngày phước đức việc đừng ngơ,
Tin câu báo ứng không sai chạy,
Tin có Liên Hoa Cực Lạc chờ.
Tôi đã nhận được thơ của Diệu Đạt. Rất cám ơn Diệu Đạt đã có những lời vấn an và cầu chúc sức khỏe của tôi nơi đất khách. Sống trong thời cuộc đầy máu lửa, con người dễ bị dao động nhiều phương diện mà Diệu Đạt không thối chuyển đạo tâm vẫn thỉ chung với Phật pháp và hăng hái tiến bước trên đường tu hành đạo đức, như thế là quí báu vô giá trong đời mạt pháp nầy, tôi lấy làm hoan hỷ và rất cảm động.
Từ đây trở đi cho đến ngày thành tựu viên mãn sự tu vẫn còn nhiều khó khăn, Diệu Đạt rán cố gắng tu thân hành đạo, rán lo việc phước thiện để trợ giúp cho đạo quả mau nên và rán lóng sạch các vọng niệm trần gian để cho trí huệ được phát tỏ. Song Diệu Đạt cần phải luôn luôn giữ vững đức tin. Đức tin chẳng những là nguồn sống, mà đức tin còn là mẹ đẻ của thành công, của kết quả vĩ đại, cho nên đức tin càng mạnh càng tốt. Tôi hy vọng Diệu Đạt lúc nào cũng có đức tin như vậy.
Tin có Phật Thần trợ cứu cho,
Tin mình tu được một lòng lo,
Đạo mầu tại thế luôn trau luyện,
Siêu thoát Tây Phương chỗ hẹn hò.
Hôm sớm Di Đà tâm chớ lãng,
Tháng ngày phước đức việc đừng ngơ,
Tin câu báo ứng không sai chạy,
Tin có Liên Hoa Cực Lạc chờ.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Diệu Đạt, cả gia quyến và tất cả anh chị em tín hữu ở quê nhà đều được chư vị Phật Thần gia trì cứu hộ luôn luôn được bình an mạnh khỏe và mau được bừng tỏ tâm trí trên đường tu.
THANH SĨ
á thư số 208: Tokyo, ngày 22-9-1968
á thư số 208: Tokyo, ngày 22-9-1968
Tokyo, ngày 22-9-1968,
Lệ thân mến,
Thơ Lệ đề ngày 6 tháng 9, tôi đã nhận được. Rất cám ơn Lệ. Đọc thơ Lệ tôi hiểu nhiều về tình trạng nước nhà, nội tình trong đạo và tôi cũng rất hiểu những gì trong ý Lệ muốn nói mà không tiện viết trong thơ. Căn cứ nơi hiện huống của nước nhà (nói chung) tôi muốn định nghĩa và muốn kết luận ngay rằng là những gì đau khổ đen tối trong đời sống con người, những gì đổi thay đê hèn quái ác trong tâm tình con người, đa số đều bị sự chi phối sống chết lợi hại trực tiếp hoặc gián tiếp của mị lực chiến tranh gây ra, mà những kẻ kém tinh thần tôn trọng phụng sự quyền lợi tối cao của quốc gia dân tộc, kém tâm hồn tín ngưỡng chơn lý Phật pháp và kém trí thức biết trái phải, kém đức tánh từ bi cứu độ đồng bào nhân loại đại đồng bằng cách vô tình hoặc cố ý mà đã và đang làm những việc "Đổ dầu vào lửa" trong đó một phần rất lớn lao, không phải là số ít.
Thơ Lệ đề ngày 6 tháng 9, tôi đã nhận được. Rất cám ơn Lệ. Đọc thơ Lệ tôi hiểu nhiều về tình trạng nước nhà, nội tình trong đạo và tôi cũng rất hiểu những gì trong ý Lệ muốn nói mà không tiện viết trong thơ. Căn cứ nơi hiện huống của nước nhà (nói chung) tôi muốn định nghĩa và muốn kết luận ngay rằng là những gì đau khổ đen tối trong đời sống con người, những gì đổi thay đê hèn quái ác trong tâm tình con người, đa số đều bị sự chi phối sống chết lợi hại trực tiếp hoặc gián tiếp của mị lực chiến tranh gây ra, mà những kẻ kém tinh thần tôn trọng phụng sự quyền lợi tối cao của quốc gia dân tộc, kém tâm hồn tín ngưỡng chơn lý Phật pháp và kém trí thức biết trái phải, kém đức tánh từ bi cứu độ đồng bào nhân loại đại đồng bằng cách vô tình hoặc cố ý mà đã và đang làm những việc "Đổ dầu vào lửa" trong đó một phần rất lớn lao, không phải là số ít.
Song, kết quả chỉ là "Củi đậu nấu đậu" không hơn không kém mà những cặp mắt khách quan nhìn vào và đã phán đoán trước như vậy. Nếu là người đứng ngoài tất cả màu sắc tôn phái hay là chỉ đứng trên địa hạt và tâm tình của một người dân để suy tư tận nguồn gốc của giống nòi, thì trước hơn vấn đề nào hết trong lòng mình chỉ muốn cho mau chấm dứt chiến tranh, cho đồng bào được sống còn lo ấm yên lành và cho nước nhà được độc lập chủ quyền tự do thanh bình thạnh vượng mà thôi. Đó là vấn đề tiên quyết và cũng là vấn đề rất thiết tha kỳ nguyện hơn hết trong lòng người dân từ lâu ở thời cuộc hiện tại.
Lệ có cảm thấy như vậy không? Và Lệ cũng thấy lòng mình cũng rất khát khao như thế đó chăng? Càng muốn được như vậy càng hy vọng những người ở cương vị then chốt vấn đề an nguy nước nhà biết tôn trọng quyền lợi quốc gia dân tộc trên hơn cá nhân mình, biết tự giác phản tỉnh và nỗ lực không ngừng trong công việc cứu nước và giữ nước một cách khôn khéo. Có phải vậy không? Lệ!
Còn dưới đây, tôi muốn nhắc riêng với Lệ một chuyện xưa để lại tự suy biện xem. Chuyện ấy như vầy:
Hồi xưa kia, có ông vua tên là Đại Sa, ông có ba người con trai, hôm nọ trong lúc đi du ngoạn bị lạc vào rừng sâu, người con trưởng nói: "Rừng nầy có thú dữ tôi sợ quá". Người con thứ nói: “Tôi không sợ chết nhưng tôi thấy lòng đau khổ trong khi rời bỏ người thân yêu”, người con thứ ba nói "Nếu có lòng tin Phật, thì không sợ gì và cũng không buồn cảnh biệt ly"
Ba người vừa nói xong thì liền thấy gần đó có một con cọp vừa mới sanh bảy con cọp con. Con cọp mẹ đang đói khát sắp chết. Lúc đó người con trưởng và người con thứ cũng thấy tội nghiệp, nhưng nghĩ rằng: “Không thể hiến thân cho nó ăn được”. Người con thứ ba nói rằng: "Cái thân nầy từ xưa đến nay đã sanh ra trên đời bao nhiêu ngàn lần mà lần nào cũng để chết tan rã ra bùn đất, chưa có lần nào làm những việc ích lợi cho ai. Hôm nay gặp dịp nầy, nếu thí thân như nhổ nước miếng, để cứu mẹ con con cọp nầy đang đói khát sắp chết được sống còn". Nói xong người liền đem thân đến tận miệng con cọp để cho nó ăn. Thật là:
Cầu đạo chánh chơn cứu chúng sanh,
Từ bi vui thí cái thân mình,
Khiến sanh chúng được vui không khổ,
Đau đớn riêng ta mấy cũng đành.
Câu chuyện như vậy. Tuy ba anh em ruột, nhưng mỗi người có tâm niệm và ý thức khác nhau. Do đó mà hành sử của mỗi người mỗi khác.
Nhưng theo ý tôi, thì con người nên làm những gì mà lòng mình không ân hận, không miễn cưỡng và đã suy nghĩ thấy hợp với lương tâm, đó là tốt nhứt và con người trong khoảng sống cần phải chọn lấy những điều ích nước lợi dân để làm không nhiều thì ít và nên tìm lối siêu thoát cuộc đời, không nên phí kiếp sống một cách vô ý nghĩa cao đẹp.
Thô sơ có mấy điều, tôi xin dừng bút và xin chúc cho Lệ, cả gia đình quyến thuộc, tất cả anh chị em trong đạo và Bà Mười ở quê nhà đều được an ổn mạnh lành và gặp nhiều điều xuôi thuận may mắn trên đường tu hành phụng sự đạo nghĩa.
THANH SĨ
P.B.: Món bánh Lệ đã báo tin đó, đến nay tôi vẫn chưa nhận được. Ngày nào tôi cũng trông tin.
Lá thư số 209: Tokyo, ngày 23-9-1968
Lá thư số 209: Tokyo, ngày 23-9-1968
Tokyo, ngày 23-9-1968,
Huỳnh Đạt Đa thân mến,
Tôi đã nhận được thơ của Đa. Xin cám ơn Đa đã không quên hỏi thăm và cầu chúc sức khỏe của tôi trên đất Nhựt. Hiện thời tôi vẫn được mạnh giỏi và đi dạy trở lại ở Đại học sau khi hết kỳ nghỉ hè vừa qua của năm nay. Ngoài ra chẳng có sự gì thay đổi đáng lo. Xin Đa và anh chị em đồng đạo ở quê nhà an lòng và rán lo tu chơn hành thiện.
Tôi đã nhận được thơ của Đa. Xin cám ơn Đa đã không quên hỏi thăm và cầu chúc sức khỏe của tôi trên đất Nhựt. Hiện thời tôi vẫn được mạnh giỏi và đi dạy trở lại ở Đại học sau khi hết kỳ nghỉ hè vừa qua của năm nay. Ngoài ra chẳng có sự gì thay đổi đáng lo. Xin Đa và anh chị em đồng đạo ở quê nhà an lòng và rán lo tu chơn hành thiện.
Thể theo sở vấn tâm cầu của Đa trong thơ, nơi đây để thay vì những câu trả lời tách bạch, tôi xin kể lại chuyện huyền truyền mật hóa của Đức Phật trên xứ Phù Tang hồi thế kỷ thứ 12 để Đa và anh chị em ở quê nhà soi lấy làm chứng cứ và thêm đức tin trên đường tu hành niệm Phật cầu sanh tịnh độ thế giới Liên Hoa.
Nước Nhựt Bổn hồi thời đại Bình An (1198) quyền lực của nhà Đằng Nguyên bị hạ xuống. Hai nhà Nguyên và Bình thay vào, và giữa hai nhà ấy tranh giành nhau dai dẳng, làm cho dân chúng mỗi ngày sống trong tình trạng đen tối gần như tuyệt vọng. Ai ai cũng mong mỏi có người nào ra an bang tế thế đem lại cảnh thanh bình.
Trong lúc đó Phật giáo lại suy yếu, không làm được việc gì ích nước lợi dân. Nhìn thấy vậy nhà sư Lương Nhẫn rời núi Tì Huệ Sơn xuống thế, nhưng chẳng làm gì được, ông bèn đi đến chỗ Đại Nguyên ngồi đó trầm tư mặc tưởng, đến năm Vĩnh Cửu thứ năm ông được thấy Đức Phật hiện ra bảo rằng:
"Ngươi nỗ lực như vậy là tốt lắm, nhưng với phương pháp ấy không thể đạt mục đích, chỉ có phương pháp duy nhứt là nên Dung Thông Niệm Phật tức là:
Nhứt nhơn Nhứt thiết nhơn,
Nhứt thiết nhơn Nhứt nhơn.
Nhứt hạnh Nhứt thiết hạnh,
Nhứt thiết hạnh Nhứt hạnh.
---
Thị danh tha lực vãng sanh
Thập giới nhứt niệm
Dung Thông niệm Phật
Ức bá vạn thiên
Công đức viên mãn.
Nghe xong ông liền tỏ ngộ sau đó đi truyền bá ra, khiến thời ấy thạnh hành cách tu Dung Thông Niệm Phật và ông vua Thiên Hoàng Điển Võ thời ấy rất kính phục ông, khiến cho các công khanh quí tộc cũng đều qui đầu theo Phật Pháp, và tu theo cách niệm Phật như vậy.
Tóm tắt là: Đa nên riêng mình đọc đi đọc lại, âm thầm trong lòng những câu của Đức Phật đã bảo ông sư Lương Nhẫn cho đến khi nào thấu triệt diệu nghĩa. Đồng thời, nên nhờ những thiện tri thức phụ lời hộ và trao cho những anh chị em khác được đọc lấy để suy xét tìm hiểu mối nhiệm mầu ẩn náu trong đó, mà nếu chỉ được đọc thoáng qua không thể hiểu được. Đa phải tự tin mình và rán cố gắng tu luyện càng lúc càng mạnh trên đường chánh đạo.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Đa, cả quí quyến, tất cả anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà đều vạn sự an lành.
THANH SĨ
Lá thư số 210: Tokyo, ngày 28-9-1968
Lá thư số 210: Tokyo, ngày 28-9-1968
Tokyo, ngày 28-9-1968,
Thưa Má,
Thơ ngày 13-9-68 con đã nhận được. Hôm nay, Má thấy trong người đã được bình phục mạnh lành như thường chưa? Má nên tiếp tục uống thuốc tiêm thuốc cho thật khỏe mạnh và nên ăn uống những thứ có nhiều chất bổ để cho khỏi mất sức. Nhứt là Má không nên lo nghĩ nhiều, chỉ nên để tâm trí yên lặng niệm Phật và cầu nguyện cho vạn dân bá tánh được nạn khỏi tai qua, nước nhà sớm được thanh bình thạnh trị và Má nên luôn luôn có tinh thần cao siêu mạnh mẽ để lướt qua mọi phiền não thường tình để cho thân tâm được nhẹ nhàng thanh thoát, hầu có giúp cho đức độ đạo quả thêm cao minh. Con lúc nào cũng mong muốn cho Má được như vậy.
Xin Má rán tùy nghi phương tiện trau giồi đạo đức và nhớ khuyến khích cho anh chị em đồng đạo. đồng bào lo tu hành chơn chánh làm ăn lương thiện và nên thương yêu giúp đỡ lẫn nhau khi hữu sự, khi nguy nghèo.
Thơ ngày 13-9-68 con đã nhận được. Hôm nay, Má thấy trong người đã được bình phục mạnh lành như thường chưa? Má nên tiếp tục uống thuốc tiêm thuốc cho thật khỏe mạnh và nên ăn uống những thứ có nhiều chất bổ để cho khỏi mất sức. Nhứt là Má không nên lo nghĩ nhiều, chỉ nên để tâm trí yên lặng niệm Phật và cầu nguyện cho vạn dân bá tánh được nạn khỏi tai qua, nước nhà sớm được thanh bình thạnh trị và Má nên luôn luôn có tinh thần cao siêu mạnh mẽ để lướt qua mọi phiền não thường tình để cho thân tâm được nhẹ nhàng thanh thoát, hầu có giúp cho đức độ đạo quả thêm cao minh. Con lúc nào cũng mong muốn cho Má được như vậy.
Xin Má rán tùy nghi phương tiện trau giồi đạo đức và nhớ khuyến khích cho anh chị em đồng đạo. đồng bào lo tu hành chơn chánh làm ăn lương thiện và nên thương yêu giúp đỡ lẫn nhau khi hữu sự, khi nguy nghèo.
Đời khó sống trong buổi loạn ly,
Giúp nhau được sống khỏi gian nguy,
Rách chia nhau mặc đừng eo hẹp,
Đói sớt nhau ăn chẳng tiếc gì.
Tương trợ tương thân đầy đạo đức,
Cùng vui cùng sống lối từ bi.
Chung lo giải cứu đường sanh tử,
Đổi khổ ra vui giữa thế thì.
Bài thơ nầy Má nên đưa cho anh chị em gần xa được xem, để anh chị em cùng nhắc nhở lẫn nhau nên có tâm hồn đạo đức cứu giúp lẫn nhau như vậy. Tâm hồn ấy càng có nhiều càng nhẹ, nhẹ bớt cảnh đau khổ tội ác trong đời, và nó có thể đưa người đến chỗ tốt lành hạnh phúc được.
Vắn tắt có mấy lời, con xin thành tâm cầu nguyện ơn trên Phật Thần hộ độ cho Má được luôn luôn bình an mạnh khỏe và được đạo cao đức rộng, nhờ Má trao lời con kính thăm tất cả anh chị em đồng đạo xa gần.
Con của Má
Lá thư số 211: Tokyo, ngày 1-10-1968
Lá thư số 211: Tokyo, ngày 1-10-1968
Tokyo, ngày 1-10-1968,
Hường thân mến,
Hộp bánh và thơ Hường đề ngày 16-1-68 tôi đã nhận được. Tôi rất cám ơn lòng thành của Hường muốn cho tôi nếm lại thức ăn xứ sở, nhưng thường không nên gởi những quà bánh nặng như vậy tốn nhiều cước phí, vả lại tôi cũng ít dùng bánh, Hường nên dùng số tiền ấy để chi dụng vào những công việc có phúc ích khác.
Hộp bánh và thơ Hường đề ngày 16-1-68 tôi đã nhận được. Tôi rất cám ơn lòng thành của Hường muốn cho tôi nếm lại thức ăn xứ sở, nhưng thường không nên gởi những quà bánh nặng như vậy tốn nhiều cước phí, vả lại tôi cũng ít dùng bánh, Hường nên dùng số tiền ấy để chi dụng vào những công việc có phúc ích khác.
Lúc nầy Hường, cả thân quyến và anh chị em ở quê nhà có được mạnh lành không? hiện thời ở bên nầy tôi vẫn được mạnh như thường, không có sự gì thay đổi đáng lo. Sao, về hạnh đạo của Hường có được vững bước và tiến lên nhiều chưa? Tánh phàm có nguội được một phần nào không? Tánh phàm đã tập nhiễm từ lâu muốn cải thiện phải mất nhiều thì giờ, ít người sửa đổi được trong khoảnh khắc.
Hường rán cố gắng tu sửa. Và Hường nên mạnh mẽ lòng tự tin rằng: Những điều gì trong tánh tình của mình đã thành tật quen đều do mình từ lâu tập nhiễm, tất nhiên nó cũng sẽ do mình dứt bỏ được, nếu mình thật quyết tâm và chịu khó sửa chữa hằng ngày
Tin chắc đường tu khỏi lụy trần,
Rán tu cho được dẫu bao năm,
Thiện từ cố gắng thêm từ thiện,
Lầm lỗi toan lo hết lỗi lầm.
Gương Phật luôn soi trong trí não.
Thước lòng thường đặt giữa thân tâm,
Thắng điều khó thắng trên đường đạo,
Vẹn đạo từ bi có Phật tâm.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Hường, cả gia đình thân quyến và anh chị em gần xa lớn nhỏ ở quê nhà đều được luôn luôn bình an khỏe mạnh và có nhiều phước huệ trong đời sống.
THANH SĨ
Lá thư số 212: Tokyo…. năm 1968
Lá thư số 212: Tokyo…. năm 1968
Tokyo…. năm 1968,
Tặng ông Hồ Văn Lành
(ở Hòa Hảo)
Ngưỡng lên không thẹn trời,
Cúi xuống không thẹn đất,
Bốn hướng mắt Thần soi,
Lúc rảnh đi thăm Đức Di Đà,
Mười muôn tám ngàn dặm không mệt.
Ha - Ha – Ha…
(ở Hòa Hảo)
Ngưỡng lên không thẹn trời,
Cúi xuống không thẹn đất,
Bốn hướng mắt Thần soi,
Lúc rảnh đi thăm Đức Di Đà,
Mười muôn tám ngàn dặm không mệt.
Ha - Ha – Ha…
THANH SĨ
Lá thư số 213: Tokyo, ngày 3-10-1968
Lá thư số 213: Tokyo, ngày 3-10-1968
Tokyo, ngày 3-10-1968,
Gởi Cô Chimone V.T.
Cô Chimone V - T thân mến,
GIỌT NƯỚC CAM LỒ
Cô Chimone V - T thân mến,
GIỌT NƯỚC CAM LỒ
Giấc mộng Nam Kha cũng đáng nhàm,
Thế tình rốt cuộc luống công ham,
Hợp tan, tan hợp duyên đời tạm,
Sanh tử, tử sanh nghiệp cõi phàm.
Đời khổ biết ra nên giải thoát,
Kiếp mê hiểu được mượn thiền lam.
Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát,
Xin rưới cho trần giọt nước cam.
THANH SĨ
Lá thư số 214: Tokyo, ngày 7-10-1968
Lá thư số 214: Tokyo, ngày 7-10-1968
Tokyo, ngày 7-10-1968,
Gởi Dương thế Vinh
Dương thế Vinh thân mến,
Dương thế Vinh thân mến,
Vinh đã có lòng viết thơ thăm tôi, tôi rất cám ơn Vinh. Ở bên nầy tôi vẫn được mạnh khỏe. Xin Vinh và anh chị em đồng đạo ở quê nhà an lòng và rán tu hành tiến bộ. Vinh ơi! đêm càng khuya, càng gần hừng sáng, nhưng con người cũng gần càng buồn ngủ. Có nhiều người buồn ngủ đến đỗi không gượng được, mặc dù đã biết mình đang chờ đợi một việc cực kỳ trọng đại khi hừng sáng ấy. Sự tu cũng vậy. Tu càng lâu càng nhiều công đức, nhưng cũng càng mỏi lòng. Có nhiều anh chị em mỏi lòng đến đỗi đành bỏ cuộc mặc dù đã biết đó là không tròn bổn nguyện và sai đường đạo lý.
Những anh chị em như thế đó, rất có nhiều ở trong đạo. Ở bên nầy mỗi khi nhớ tới điều ấy, lòng tôi hết sức đau buồn. Vinh ơi! người ta dễ kiếm lợi danh, nhưng rất khó kiếm chánh đạo, nhứt là ở thế kỷ 20 nầy. Nhưng người tìm gặp được chánh đạo là đã có đạo duyên sâu lắm, không phải là sự ngẫu nhiên, nếu bỏ qua thì muôn đời chưa chắc tìm lại được. Nếu không tìm được chánh đạo thì không thể nào thấy được giải thoát.
Sự mầu nhiệm cao quí của chánh đạo là vô thượng. Cho nên, kẻ chơn tu thà chịu bỏ thân, không chịu bỏ chánh đạo, là do ý nghĩa như vậy. Tôi rất thương hại tiếc uổng cho anh chị em đã nỡ bỏ chánh đạo, nỡ quên chánh đạo, và nỡ hành động trái ngược chánh đạo. Đồng thời, tôi cũng hằng mong những anh chị em ấy sớm biết hồi tâm trở lại chánh đạo, nhớ lại chánh đạo và cố gắng tu thân xử thế đúng theo chánh đạo của Thầy Tổ đã giáo truyền. Có được như vậy con người mới có cảnh bình an hạnh phúc và siêu thoát kiếp đời.
Vinh ơi! Đối với tôi chánh đạo là trên hết trong kiếp sống, cho nên tôi rất hy vọng tất cả anh chị em đồng đạo ở quê nhà dầu ở trong hoàn cảnh nào cũng vẫn một lòng theo chánh đạo.
Mỗi anh chị em đều phải biết treo gương tốt đẹp cho nhau trên tình đoàn kết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, về vật chất cũng như tinh thần, để cùng được sống vui tươi no ấm và cũng được tu hành sáng suốt phát triển đến mức độ cao sâu như ý nguyện chung.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Vinh, quý quyến và tất cả anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được vạn sự an lành và tu hành mau được toàn giác toàn chơn.
THANH SĨ
Lá thư số 215: Tokyo, ngày 13-10-1968
Lá thư số 215: Tokyo, ngày 13-10-1968
Tokyo, ngày 13-10-1968,
Diệu Đạt thân mến,
Thơ Diệu Đạt đề ngày 28- 9-68 tôi đã nhận được, rất cám ơn Diệu Đạt đã chẳng quên thành tâm cầu nguyện chư vị Phật Thần gia hộ cho sức khỏe của xác tôi. Độ nầy ở bên nầy đã bắt đầu lạnh và sắp đi sâu vào mùa đông, nhưng tôi vẫn được mạnh khỏe và vẫn tiếp tục đi dạy ở trường đại học như thường lệ. Ngoài ra chẳng có sự gì thay đổi. Xin Diệu Đạt và anh chị em ở quê nhà nên an lòng và rán lo bề tu tỉnh chơn chánh nhân thiện sáng suốt như kim ngôn của Phật dạy.
Thơ Diệu Đạt đề ngày 28- 9-68 tôi đã nhận được, rất cám ơn Diệu Đạt đã chẳng quên thành tâm cầu nguyện chư vị Phật Thần gia hộ cho sức khỏe của xác tôi. Độ nầy ở bên nầy đã bắt đầu lạnh và sắp đi sâu vào mùa đông, nhưng tôi vẫn được mạnh khỏe và vẫn tiếp tục đi dạy ở trường đại học như thường lệ. Ngoài ra chẳng có sự gì thay đổi. Xin Diệu Đạt và anh chị em ở quê nhà nên an lòng và rán lo bề tu tỉnh chơn chánh nhân thiện sáng suốt như kim ngôn của Phật dạy.
Diệu Đạt đã phát tâm tu tập pháp môn Thiền Định cũng tốt, nhưng vào thời kỳ "Pháp nhược Ma cường" nầy, nên tu lối Trì Tâm Niệm Phật để nhờ tha lực trợ giúp thêm cho (Thiền Tịnh Song Tu), thì càng có hiệu quả chắc chắn hơn. Tu thiền định cần phải hiểu nghĩa là: "Thiền giả Thanh dã, Định giả Tịnh dã" mà trước hết phải trừ lục căn diệt lục trần và hành lục độ cho đạt lục thông. Nói tóm tắt là cần phải quán chiếu lại tất cả sự động tĩnh trong tâm, làm chủ lấy tâm, bình định các vọng niệm bất thiện nơi tâm và vẹt phá bức màn vô minh để thấy rõ bổn tánh chơn như Diệu Minh Thường Trụ (nghĩa là thấy tánh Phật đã sẵn có của mình). Và nên nhớ Phật tánh ấy thường đứng trên nền tảng đại từ đại bi. Diệu Đạt nên nhắm vào đó mà tu.
Còn sự ăn chay: Chay tâm là chánh, chay thực là phụ, cho nên, tùy người có thể ăn được bao nhiêu thì ăn, nhưng không nên ăn ép làm hại sức khỏe, sanh ra bịnh hoạn, khiến cho tinh thần mờ mệt nặng nề làm giảm sự công phu tịnh niệm và làm kém sức phụng sự những điều phước huệ cho xã hội nhân sanh trên đường của mình đang tu tiến. Đạo từ bi không tu Độc Thiện mà là tu Quảng Thiện. Thế nên, cần phải có đầy đủ sức khỏe để giúp đỡ người đời… Vậy Diệu Đạt nên lấy đó suy nghĩ để điều hòa sự ăn chay cho thích hợp giữa thể chất với tinh thần.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Diệu Đạt, cả thân quyến và anh chị em ở quê nhà đều được vạn an.
THANH SĨ
P.B.: Tôi có gởi kèm theo một tấm hình màu của tôi thân tặng Diệu Đạt.
Lá thư số 216: Tokyo, ngày 14-10-1968
Lá thư số 216: Tokyo, ngày 14-10-1968
Tokyo, ngày 14-10-1968,
Gởi Lê Cảnh Nho
Lê Cảnh Nho thân mến,
Lê Cảnh Nho thân mến,
Bức thơ ngày 2-10-68 cũng như mấy cái thơ trước của Nho bên nầy tôi đã nhận được hết. Thành thật cám ơn Nho đã chẳng ngớt chịu khó viết thơ vấn an sức khỏe của tôi ở nơi xa ngàn hải đảo. Hiện thời tôi vẫn được mạnh như thường, không có sự gì thay đổi. Sở dĩ hôm nay tôi mới viết thơ về cho Nho, như Nho đã biết tôi có nhiều công việc phải bận luôn, hơn nữa rất có nhiều thơ của anh chị em tứ phương gởi đến, tôi phải tùy theo kẻ trước người sau, hoặc tùy theo câu chuyện gấp hay hoản mà tuần tự trả lời, thành ra đến lượt Nho thì đã quá chậm trễ. Xin Nho niệm tình chớ trách đã làm cho Nho mỏi mòn chờ đợi lâu ngày.
Ước gì tôi có được thiên thủ như hóa thân Phật Quan Âm để viết một lần hàng ngàn lá thơ trả lời cho anh chị em khắp nơi được mau chóng. Nhưng đã lỡ mang lấy xác phàm, đành phải theo câu "Sức người có hạn" có phải không Nho? Thấy Nho xem giảng kệ một cách hăng say, tôi rất hoan hỷ. Lòng hăng say ấy có thể làm ấm áp hột giống Bồ Đề sớm nở, Nho khéo gìn giữ nó được lâu bền và tùy khả năng phương tiện đưa lần nó đến hành động cụ thể. Không nên vội vàng, mà cũng không nên trì hoãn, chỉ nên giữ lấy mực trung bình và thích ứng.
Ví như người leo núi, chỉ đi từ từ, gặp lúc phải đi thì đi, gặp lúc phải dừng thì dừng, nhắm trước xem sau, đi bước nào vững bước nấy, như vậy sẽ không bị trượt ngã và chắc chắn sẽ leo tới đỉnh núi cao được. Huống chi đối với đạo pháp mầu nhiệm vô biên đem so với sự leo núi còn khó khăn hiểm trở gấp trăm ngàn lần hơn. Thế nên người hành đạo thì sự bền lòng gắng sức cần phải có nhiều hơn công việc tầm thường.
Ông Nhựt Liên Bồ tát có khuyên rằng: "Có người tín ngưỡng như lửa, có người tín ngưỡng như nước". Người tín ngưỡng như lửa thì khi nghe kinh hăng hái lên như lửa cháy, nhưng tiếng kinh qua thì lòng trở nên nguội lạnh bỏ đi, còn người tín ngưỡng như nước, thì lúc nào cũng tin tưởng như thường, không thay đổi. Hãy nên tín ngưỡng như nước là cao quí. Tôi rất đồng ý lời của ông Nhựt Liên. Nho có nhận thấy lời đó chí lý không?
Nói tóm lại, lòng thỉ chung như nhứt là điều kiện tuyệt đối của người tín ngưỡng. Tấm lòng ấy có, tất có nhiều hứa hẹn tới chỗ thành công. Tôi còn nhớ ông Tây Hương Nam Châu có bài thơ:
Tôi có ngàn sợi tóc,
Đen thui thủi như mực.
Tôi có một tấm lòng,
Trắng phao phao như tuyết.
Tóc tôi dễ cắt rời,
Nhưng lòng tôi khó tuyệt.
Có tin tưởng phải có tiết tháo để bảo tồn sự tin tưởng ấy, và giúp nó được mãn nguyện "Hữu chí cánh thành". Nho rán cố gắng tiến bước trên đường tu hành chơn chánh. Dù sống trong hoàn cảnh loạn lạc đau khổ, nhưng với người hiền lương đạo đức nên tin rằng: "Nhân sự tận ư tiền, tất thiên lý ứng ư hậu" mà chớ nên đổi dạ thay lòng, đi ngược lương tâm, hoặc trái đường Phật pháp.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin cầu chúc cho Nho, cả gia quyến và tất cả anh chị em tín hữu ở quê nhà đều được vạn an.
THANH SĨ
Lá thư số 217: Tokyo, ngày 20-10-1968
Lá thư số 217: Tokyo, ngày 20-10-1968
Tokyo, ngày 20-10-1968,
PHẬT Ở ĐÂU
Trường, Yến thân mến,
Trường, Yến thân mến,
Thơ ngày 6-10-68 tôi đã nhận được. Rất cám ơn Trường, Yến đã chẳng giảm lòng kính mến và thường viết thơ vấn an sức khỏe của tôi luôn. Được biết Trường, Yến, cả gia đình vẫn được bình an tôi rất hoan hỷ. Ở bên nầy tôi cũng vẫn được khỏe mạnh và sau kỳ nghỉ hè tôi đã đi dạy lại ở đại học như mọi khi. Trường, Yến ơi! đã thấy việc đáng làm thì phải làm vậy thôi, đâu có nghĩa gọi là vui, như Trường, Yến đã hỏi qua trong thơ.
Trường, Yến đã có nghe danh ông Shotoku Taishi (Thánh đức Thái tử) à? Ông Shotoku Taishi trong lúc 2 tuổi đã biết chắp tay hướng về phương đông niệm "Nam mô Phật". Và chính ông là người đầu tiên lập ra hiến pháp nước Nhựt, mà điều lệ thứ hai trong hiến pháp là: "Tôn kính Tam bảo Phật Pháp Tăng". Ông có cất cái điện tên là "Mộng điện". Những vấn đề nào ông không biết, nhứt là những áo nghĩa kinh kệ, thì ông vào trong điện ngồi tịnh, ngay khi đó có vị Kim Thân Phật hiện đến dạy cho ông. Nói tóm lại ông rất sáng suốt phi phàm và ông là người làm cho Phật giáo nước Nhựt thạnh hành nhứt trong thời kỳ đó, mà ngay bây giờ hầu hết dân Nhựt vẫn còn kính phục ông tột bậc. Sao? Trường, Yến có thấy đạo tâm được tăng trưởng mỗi ngày không? Rán cố gắng niệm Phật tạo đức khai tâm, đừng bao giờ để cho ý chí bị lui sụt. Nên nhớ rằng: "Một niệm giải đãi thì cánh sen của mình nơi ao Thất Bửu bị héo khô và trăm vạn ức công đức bị tiêu diệt, còn một niệm tinh tấn thì cành sen của mình nơi ao Thất Bửu sẽ được nở khai và trăm vạn ức công đức sẽ được thành tựu". Cho nên, cần phải tập trung tinh thần hướng về Đức Phật tiến tới một cách mạnh mẽ không ngừng.
Kệ: PHẬT Ở ĐÂU?
Phật ở đâu khi có người hỏi tới,
Chỉ vào tâm tôi liền nói ở đây.
Lặng lẽ nghe, lặng lẽ ngó đêm ngày,
Sẽ thấy Phật từ xưa nay ở đó.
Dùng tâm ngó không nên dùng mắt ngó,
Lấy tâm nghe đừng có lấy tai nghe,
Ngó nghe luôn trong lòng chẳng bỏ bê,
Bọn lục tặc hết lăm le khuấy rối.
Ấy là diệu pháp về phương đối nội.
Nhưng còn bề đối ngoại cũng nên phòng,
Lấy giới răn làm vách sắt thành đồng.
Đem trí tuệ từ tâm phong tướng tá.
Cảnh đau khổ mê si nguyền giải phá,
Cho khắp nơi thiên hạ được an vui.
Đổi trần gian thành Cực Lạc tốt tươi,
Khiến ai cũng thật là người Bồ Tát.
Trường, Yến rán lo tu,
Trẻ già rán hành Đạo.
Làm lành niệm Phật luôn,
Có Phật Thần hộ bảo.
Vắn tắt có mấy lời, tôi Xin cầu chúc cho Trường, Yến, cả quý quyến và anh chị em tín hữu gần xa ở quê nhà đều được luôn luôn mạnh giỏi bình an và có nhiều phước đức trí huệ.
THANH SĨ
Lá thư số 218: Tokyo, ngày 22-10-1968
Lá thư số 218: Tokyo, ngày 22-10-1968
Tokyo, ngày 22-10-1968,
Gởi Lệ Hồng
Lệ Hồng thân mến,
Bức thơ ngày 5-10-68 của Hồng bên nầy tôi đã nhận được. Rất cám ơn Hồng đã có lòng viết thơ thăm và cầu chúc sức khỏe của tôi nơi hải ngoại. Độ nầy tôi vẫn được khỏe mạnh và vẫn đi dạy ở đại học như thường. Mọi việc khác cũng vẫn y nguyên, không có sự gì thay đổi đáng lo. Xin Hồng và anh chị em ở quê nhà an lòng và rán sống lương thiện tu chơn chánh. Mấy điều của Hồng đã hỏi, tôi xin góp ý kiến giản dị như dưới đây:
Lệ Hồng thân mến,
Bức thơ ngày 5-10-68 của Hồng bên nầy tôi đã nhận được. Rất cám ơn Hồng đã có lòng viết thơ thăm và cầu chúc sức khỏe của tôi nơi hải ngoại. Độ nầy tôi vẫn được khỏe mạnh và vẫn đi dạy ở đại học như thường. Mọi việc khác cũng vẫn y nguyên, không có sự gì thay đổi đáng lo. Xin Hồng và anh chị em ở quê nhà an lòng và rán sống lương thiện tu chơn chánh. Mấy điều của Hồng đã hỏi, tôi xin góp ý kiến giản dị như dưới đây:
Muốn tu Phật hay tu nhân, đó là tùy theo bổn nguyện, hoàn cảnh và khả năng thích hợp với con người của Hồng, và Hồng nên tự mình phát tâm và tự mình quyết định lấy. Sau khi đã suy nghĩ chu đáo như vậy là tốt hơn hết. Nhưng dù tu Phật hay tu nhân cũng nên tích cực công việc lợi ích phước huệ đại đồng thiên hạ, không nên tu lối độc thiện kỳ thân, hoặc tu yếm thế. Vì nếu tu mà không có những việc làm lợi ích phước huệ cho mọi người, đó là trái đức từ bi, trái đạo nhân nghĩa, và nếu tu khô khan như vậy, thì đâu bằng những người không tu mà thường có lòng lo giúp đỡ cho những người khác.
Vả lại, những hành động lợi ích phước huệ cho đời, đó là công đức, và nó là phân nước để bón tưới cho gốc đạo được tốt tươi và sớm được thành quả. Đó là đương nhiên như vậy, mặc dù người không có trước tâm.
- Người chơn tu, dù chưa đắc đạo chứng quả, nhưng cha mẹ tổ tiên bảy đời có thể nhờ cái công đức ấy mà được giảm bớt những cảnh đau khổ cực hình, ví như cất nhà còn thiếu vách phên, nhưng cũng có thể tạm che mưa đỡ nắng cho người trong gia đình được. Chớ tưởng rằng chờ sau khi đắc đạo hoàn toàn rồi mới cứu vớt cha mẹ.
- Còn ân đàn ra thí chủ, có thể tùy phương tiện đền đáp ngay trong khi hành đạo, Bằng tất cả những việc làm lời nói giác thiện huệ ích cho người trên tấm lòng chơn thành hóa độ. Đừng nghĩ rằng chờ đến lúc thành Phật rồi mới trả ân được.
- Thọ ân của người trong lòng vẫn muốn lo trả, nhưng chưa có dịp trả thì bỗng chết đi, đó không phải là tội nợ, mà có thể trở thành một thứ nhân duyên mà thôi.
- Người tu hành cần phải mạnh mẽ đức tin và dũng cảm tiến tới mục đích, không nên lưng chừng hèn yếu. Hãy nghe theo lời Phật: "Mặc giáp nhân từ, mang cung tam muội, dùng tên trí tuệ, và cử binh mã phước nghiệp giải phá đám quân (tham ác) Ma Vương".
- Mọi việc đều do người tập nhiễm mà thành quen tánh. Cái quen tánh ấy, người có thể tự trừ bỏ được, nên tin chắc như vậy.
- Giữa người với Phật Thần thường có cảm mới có ứng và có tự lực mới có tha lực, ví như có gọi mới có đáp lời.
Xin nhắc lại cho kỹ là: Cảm ấy và tự lực ấy đã có từ lâu, hoặc mới có gần đây, cho nên mới được có ứng mới có tha lực.
Tu nhân tu Phật tùy lòng,
Đừng quên giác thiện đại đồng nhân gian.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin cầu chúc cho Hồng, cả quyến thuộc, tất cả anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà đều được thân cường thể tráng, phước huệ viên dung.
THANH SĨ
Lá thư số 219: Tokyo, ngày 23-10-1968
Lá thư số 219: Tokyo, ngày 23-10-1968
Tokyo, ngày 23-10-1968,
Lệ thân mến,
Xin báo tin cho Lệ rõ một ngàn bánh tráng đã cho biết hơn tháng trước đó, bữa nay tôi mới nhận được. Thành thật cám ơn Lệ và anh chị em đã tận tâm góp phần lo tráng cho tôi nhiều lắm. Như thế nầy là đã giúp tôi được nhẹ bớt sự lo âu. Mấy cái thơ sau của tôi Lệ có nhận được không? Độ nầy Lệ, cả gia đình và anh chị em ở quê nhà có được bình an mạnh giỏi và có những gì thay đổi đáng kể không? Riêng tôi hiện thời vẫn được khỏe mạnh như thường và vẫn đi dạy ở đại học. Xin Lệ và anh chị em ở quê nhà nên an tâm và rán lo tu hành chơn chánh, phương tiện phụng sự đạo nghĩa.
Xin báo tin cho Lệ rõ một ngàn bánh tráng đã cho biết hơn tháng trước đó, bữa nay tôi mới nhận được. Thành thật cám ơn Lệ và anh chị em đã tận tâm góp phần lo tráng cho tôi nhiều lắm. Như thế nầy là đã giúp tôi được nhẹ bớt sự lo âu. Mấy cái thơ sau của tôi Lệ có nhận được không? Độ nầy Lệ, cả gia đình và anh chị em ở quê nhà có được bình an mạnh giỏi và có những gì thay đổi đáng kể không? Riêng tôi hiện thời vẫn được khỏe mạnh như thường và vẫn đi dạy ở đại học. Xin Lệ và anh chị em ở quê nhà nên an tâm và rán lo tu hành chơn chánh, phương tiện phụng sự đạo nghĩa.
Lệ ơi! Con người vui chịu nằm gai nếm mật và không sờn trước cảnh thử thách đau khổ là phần nhiều vì trong lòng có nuôi cái hy vọng, cho nên Lệ và anh chị em ở quê nhà dù đứng trong hoàn cảnh nào cũng đừng để mất hy vọng. Có câu: "Kẻ khốn cùng không có thuốc nào khác, mà là chỉ có cái hy vọng" (The miserables have no other medicine, but only hope). Và đứng trong giờ phút tình thế quá hỗn độn, nên tạo thêm nhiều bạn, chớ tạo thêm nhiều thù. Nếu có thể được, thì nên giữ thế trung dung là tốt nhứt. Hãy nhớ câu: "Trung dung là trí tuệ là bạn tốt không thể rời mà với cái thiên tài ấy, không phải là chỉ quen biết ở một phương diện mà thôi đâu" (Moderation is the inseparable companion of the wisdom, but with genius it has not even a nodding acquaintance).
Tuy nhiên, mặc dù hòa mình với các giới, nhưng đừng bao giờ để cho người lôi cuốn mình mất đức. Hãy lấy đức làm bùa hộ mạng. Ngạn ngữ tây phương có câu: "Đức là cái mũ sắt an toàn nhứt" (Virtue is the safest helmet).
Vậy, Lệ và anh chị em ở quê nhà rán cố gắng tiến theo ý chí tốt đẹp của mình cho đến khi nào được toại nguyện.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin cầu chúc cho Lệ, cả gia quyến, tất cả anh chị em tín hữu và Bà Mười ở quê nhà đều vạn sự an lành.
THANH SĨ
Lá thư số 220: Tokyo, ngày 24-10-1968
Lá thư số 220: Tokyo, ngày 24-10-1968
Tokyo, ngày 24-10-1968,
Thưa Má,
Hôm nay quí thể của Má đã được hoàn toàn phục sức như thường chưa? Anh chị em đồng đạo ở quê nhà có được bình an mạnh giỏi không? Ở bên nầy hiện thời khí hậu đã trở nên lạnh khá nhiều rồi, nhưng con vẫn được mạnh khỏe và vẫn còn đi dạy học ở đại học như thường lệ và hôm qua 23-10-68 đã có mở thêm một lớp dạy buổi tối từ 6 giờ rưỡi đến 8 giờ rưỡi. Vì thế mà công việc lúc nầy có chút bận rộn thêm. Chỉ có thế thôi. Ngoài ra không có gì thay đổi. Xin Má và em chị em ở quê nhà nên an lòng và rán cùng nhau chung lo công việc tu niệm.
Hôm nay quí thể của Má đã được hoàn toàn phục sức như thường chưa? Anh chị em đồng đạo ở quê nhà có được bình an mạnh giỏi không? Ở bên nầy hiện thời khí hậu đã trở nên lạnh khá nhiều rồi, nhưng con vẫn được mạnh khỏe và vẫn còn đi dạy học ở đại học như thường lệ và hôm qua 23-10-68 đã có mở thêm một lớp dạy buổi tối từ 6 giờ rưỡi đến 8 giờ rưỡi. Vì thế mà công việc lúc nầy có chút bận rộn thêm. Chỉ có thế thôi. Ngoài ra không có gì thay đổi. Xin Má và em chị em ở quê nhà nên an lòng và rán cùng nhau chung lo công việc tu niệm.
Trên đường đạo đức lúc nào cũng rán cố gắng tiến lên bước nào cho chắc bước nấy, mặc dù có nhiều khó khăn hiểm trở, hãy mạnh tin rằng kẻ chơn tu hành và người có mục đích nhơn thiện chánh nghĩa tất có Phật Thần âm thầm trợ giúp phò trì, thế nào cũng được đi đến nơi nguyện ước, và đã là người tu thì phải tu cho đạt đạo. Ví dầu có chịu gian nan khổ sở và phải nhọc công tu luyện bao lâu, và đời có ở ác bao nhiêu, mình cũng lấy lòng nhân đối lại.
Hãy nhớ trong sách Luận Ngữ có câu: "Chí sĩ nhân nhân, vô cầu sanh dĩ hại nhân, hữu sát thân dĩ thành nhân". Nghĩa là: "Kẻ chí sĩ làm nhân cho người, chớ không vì mưu cầu sự sống cho mình mà đi làm hại điều nhân và nếu gặp phải lúc cần thì có thể dám liều chết để làm tròn việc nhân". Người ở có nhân tức là có đức. Trong đời không có gì cao quí thơm tho tốt đẹp cho bằng nhân đức.
Mà ngay như trong kinh Phật cũng có nói rằng: "Mùi thơm của bông hoa không thể xông ngược gió, mà nó chỉ bay theo gió. Nhưng mùi thơm của nhân đức có thể xông ngược gió khỏi phải theo gió mà nó vẫn bay thơm khắp thiên hạ được". Chính ông Trang tử cũng có nói rằng: "Đức toàn giả hình toàn, hình toàn giả thân toàn". Tạm dịch nghĩa cạn là: "Người có đức đầy đủ tất có hình tướng đầy đủ và có hình tướng đầy đủ tất có tinh thần đầy đủ" (có ý nói là sáng suốt) và cổ nhân Nhựt Bổn cũng có câu: "Dù người dốt không đọc được chữ, nhưng ở có đức thì mặc dầu giữa đêm tối mà trong lòng vẫn thấy sáng như ban ngày".
Nói tóm lại, cả thế giới ai ai cũng hoặc nói ra hoặc âm thầm nhìn nhận sự nhân đức là cao quí tốt đẹp đáng yêu đáng kính và đáng có trong lòng người, nhưng vì nó rất khó làm cho nên ít có người làm được. Tuy nhiên, nếu người có tâm cương quyết làm thì dù cho việc khó mấy cũng có thể làm được, không sớm thì muộn. Xin tóm vào bốn câu thơ sau:
Muốn việc được nên phải rán làm,
Quyết làm dù thác cũng đành cam.
Nguyện lành ắt có ơn trên giúp,
Hữu chí thế nào việc cũng kham.
Vậy Má và anh chị em ở quê nhà rán lo việc tu nhân tích đức và rán lo dìu dắt giúp đỡ lẫn nhau được sống an lành và tu hành được quang minh chơn chánh đúng đạo từ bi.
Vắn tắt có mấy lời, con thành tâm cầu nguyện ơn trên chư vị Phật Thần phù hộ Má được trường thọ an khang và được tăng trưởng phước đức trí huệ lớn rộng như biển như non. Và xin Má trao lời con kính thăm tất cả anh chị em đồng đạo gần xa ở quê nhà.
Con của Má
Lá thư số 221: Tokyo, ngày 24-10-1968
Lá thư số 221: Tokyo, ngày 24-10-1968
Tokyo, ngày 24-10-1968,
Gởi Huỳnh văn Quảng
Huỳnh Văn Quảng thân mến,
Huỳnh Văn Quảng thân mến,
Bức thơ đề ngày 19-9-68 tôi đã nhận được. Cám ơn Quảng. Độ nầy tôi vẫn mạnh. Ngoài ra mọi việc vẫn như thường. Theo thơ Quảng cho biết anh em ở Nhơn Mỹ có ý định xây cất Đông Tây lang chùa Không Môn, tôi thấy đó là tùy điều kiện thích ứng và sở nguyện của anh chị em ở quê nhà, nhưng đừng quên cảnh đau đói khổ sở của đồng bào khắp nơi: vì nạn chiến tranh mà không nên làm thái quá, hoặc làm một cách bắt buộc.
Còn vấn đề thứ hai, tôi không tiện nói trên thơ từ tôi chỉ kể lại lòng tôi với Phật như sau đây: Quảng và anh chị em nên căn cứ nơi chánh đạo để suy lượng phân tích cho không lầm đường lạc lối đáng tiếc đời người và công tu.
Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Cắt tay sao chẳng xót gan,
Thấy đời mà bắt buồn than trong lòng.
Tôi hằng than với Phật ông,
Hạnh Bồ tát phải sao xong đời nầy,
Phật rằng bất luận với ai,
Vẫn tùy phương cứu những ngày khổ đau.
Cứu người nhiều cách khác nhau,
Nhưng đừng để mất đường vào Liên Hoa.
Phong thần xưa hãy nhớ ra.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc Quảng và tất cả anh chị em đồng đạo và Bà Mười đều được chư Phật hộ trì, lành mạnh an vui và được chí thiện chí minh trên đường đạo nhân đạo Phật.
THANH SĨ
Lá thư số 222: Tokyo, ngày 5-11-1968
Lá thư số 222: Tokyo, ngày 5-11-1968
Tokyo, ngày 5-11-1968,
Thưa Má,
Mấy cái thơ vừa qua ở bên nầy con đã nhận được hết. Được tin độ nầy cơ thể của Má đã được bình phục như thường con rất mừng. Tuy nhiên, Má cũng nên tiếp tục uống thuốc và điều dưỡng cho đến khi thật hoàn toàn khỏe mạnh. Nhứt là Má nhớ để tâm trí lúc nào cũng nhẹ nhàng thanh thoát, đừng để chất chứa những sự ưu tư phiền não theo thói thường đời. Chỉ nên tưởng Phật, niệm Phật và làm những công việc từ bi tế độ như Phật mà thôi.
Niệm tưởng Phật làm việc từ bi như Phật,
Sống từ bi dầu thác cũng từ bi.
Quyết độ đời hết đau khổ hết mê si,
Nguyện dắt cả mọi người đi về Cực Lạc.
Kỳ nầy nếu chẳng xong nguyền ký thác,
Cứ tiếp tục luôn trong công việc từ bi.
Xin mười phương chư Phật Thần hãy chứng tri,
Hộ đệ tử bước từ bi đi tới chốn.
Hiện thời ở bên nầy con vẫn được khỏe mạnh luôn.
Mấy cái thơ vừa qua ở bên nầy con đã nhận được hết. Được tin độ nầy cơ thể của Má đã được bình phục như thường con rất mừng. Tuy nhiên, Má cũng nên tiếp tục uống thuốc và điều dưỡng cho đến khi thật hoàn toàn khỏe mạnh. Nhứt là Má nhớ để tâm trí lúc nào cũng nhẹ nhàng thanh thoát, đừng để chất chứa những sự ưu tư phiền não theo thói thường đời. Chỉ nên tưởng Phật, niệm Phật và làm những công việc từ bi tế độ như Phật mà thôi.
Niệm tưởng Phật làm việc từ bi như Phật,
Sống từ bi dầu thác cũng từ bi.
Quyết độ đời hết đau khổ hết mê si,
Nguyện dắt cả mọi người đi về Cực Lạc.
Kỳ nầy nếu chẳng xong nguyền ký thác,
Cứ tiếp tục luôn trong công việc từ bi.
Xin mười phương chư Phật Thần hãy chứng tri,
Hộ đệ tử bước từ bi đi tới chốn.
Hiện thời ở bên nầy con vẫn được khỏe mạnh luôn.
Xin Má và anh chị em đồng đạo ở quê nhà nên an tâm lo việc tu thân hành đạo cho được tinh tấn quang minh.
Vắn tắt có mấy lời, Con xin cầu chúc cho Má và anh chị em ở quê nhà đều được đạo thể khương an.
Con của Má
P.B.: Có gởi kèm theo đây hai tấm ảnh màu, sau lưng ảnh có bốn câu thơ:
Từ bi cố quốc một lòng,
Dù thân nương gởi trời Đông xa vời.
Mười ba tiết lạnh chịu rồi,
Vẫn còn thấy lạnh trong người chưa quen.
P.B.: Số bánh trước đã nhận được hết. Còn số bánh sau 800 đã nhận được 500, nhưng còn 300 nữa chưa nhận được. Xin cám ơn Má và tất cả anh chị em ở quê nhà.
Con của Má
Lá thư số 223: Tokyo, ngày 13-11-1968
Lá thư số 223: Tokyo, ngày 13-11-1968
Tokyo, ngày 13-11-1968,
Hoài Ân thân mến,
Xin báo tin cho Ân biết hôm qua 12-11-68 Tôi đã nhận được 200 bánh tráng ấy rồi, thành thật cám ơn Ân và anh chị em ở quê nhà đã góp phần giúp hộ tôi nhiều lắm. Trong lúc nầy ở bên Nhựt đã lạnh nhiều rồi, nhưng tôi được mạnh khỏe và dẫn đi dạy ở đại học và mấy lớp mới mở trước đây. Mọi việc khác cũng vẫn như thường không có gì thay đổi. Xin Ân và anh chị em ở quê nhà nên an lòng.
Xin báo tin cho Ân biết hôm qua 12-11-68 Tôi đã nhận được 200 bánh tráng ấy rồi, thành thật cám ơn Ân và anh chị em ở quê nhà đã góp phần giúp hộ tôi nhiều lắm. Trong lúc nầy ở bên Nhựt đã lạnh nhiều rồi, nhưng tôi được mạnh khỏe và dẫn đi dạy ở đại học và mấy lớp mới mở trước đây. Mọi việc khác cũng vẫn như thường không có gì thay đổi. Xin Ân và anh chị em ở quê nhà nên an lòng.
Trên đường hành đạo, Ân và anh chị em đồng đạo, hãy rán trước cũng như sau vẫn một lòng lo tiến tới để đạt được mục đích siêu thoát cao cả phi thường, mà từ trước tới nay vẫn chưa từng có. Trong lúc tu niệm, thoảng như gặp phải những khi bị ảnh hưởng và áp lực của các cuộc sống trong xã hội đời, làm cho đức tin và ý chí lay chuyển gần như muốn thối lui trở lại địa hạt ô trược thường tình, thì chính mình tức khắc tự lực tập trung tinh thần để trấn tĩnh và dũng cảm lướt tới. Đồng thời nhớ niệm câu: Nam Mô Thường Tinh Tấn Bồ Tát Ma Ha Tát, và kế đó ngâm lên trong lòng bốn câu thơ như sau:
Xin Phật độ con khỏi ái hà,
Kiếp nầy Cực Lạc được sang qua,
Thoát vòng lục đạo tam đồ khổ,
Cứu hết họ hàng cứu bá gia.
"Linh bất linh tại ngã" cần phải thành tâm tưởng Đức Phật một cách thiết tha như con đỏ thèm sữa mẹ lâu ngày.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin cầu chúc cho Ân, cả gia quyến, tất cả anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà đều được luôn bình an mạnh khỏe và được phước huệ tăng khai.
THANH SĨ
Lá thư số 224: Tokyo, ngày 13-11-1968
Lá thư số 224: Tokyo, ngày 13-11-1968
Tokyo, ngày 13-11-1968,
Gởi Đặng Ngọc Ẩn
Đặng Ngọc Ẩn thân mến,
Đặng Ngọc Ẩn thân mến,
Bức thơ đề ngày 22-10-68 tôi đã nhận được. Rất cám ơn Ẩn đã có lòng viết thơ thăm hỏi sức khỏe của tôi nơi đất khách. Hiện thời khí hậu ở bên nầy đã trở nên lạnh khá nhiều rồi, nhưng tôi cũng vẫn được mạnh khỏe, vẫn đi dạy ở đại học như thường, không có sự gì thay đổi. Xin Ẩn và anh chị em đồng đạo ở quê nhà nên an tâm lo việc tu hành đạo nghĩa chơn chánh lương thiện cho xứng đáng là người tín đồ Đạo Phật. Và cũng để không hổ thẹn cái thiên chức làm người.
Những câu chuyện của Ẩn đã hỏi tôi xin giải đáp giản dị như dưới đây:
- Người tu muốn được vãng sanh về cõi Cực Lạc, nhưng trong tâm còn móng động các việc danh lợi tình chưa dứt hết. Tuy nhiên trước giờ phút lâm chung, nếu trong lòng nhớ niệm Phật A Di Đà một cách tha thiết, thì cũng sẽ được vãng sanh về cõi Cực Lạc do sức hóa độ nhiệm mầu của Đức Tiếp Dẫn Đạo Sư.
- Nếu muốn cứu nước, cứu dân, trước hết phải thành thật yêu nước yêu dân, vì nước vì dân và cho nước cho dân bằng nhiều cách thích ứng, hoặc dụng văn, hoặc dụng vỏ, hoặc dụng những ngôn ngữ hành động có tính cách xây dựng nền độc lập hòa bình tự do phồn thịnh thật sự.
Cần phải lấy những điều nhân thiện chơn chánh để cảm hóa và đối phó với những kẻ bạo ác gian tà. Đó chẳng khác nào dùng nước chữa lửa, lửa càng cháy mạnh nước càng chữa nhiều, nhứt định lửa phải tắt. Lửa không thể nào thắng được nước. Kẻ bạo ác gian tà, không thể nào thắng được người nhân thiện chơn chánh là như vậy. Phật có nói rằng: "Những kẻ bạo ác gian tà muốn gây hại những người nhân thiện chơn chánh thì chẳng khác gì ngước mặt phun nước miếng lên trời, nước miếng ấy sẽ rớt trở lại vào mặt người phun, chớ không thể nào dính tới trời được". Hãy tin chắc như vậy và rán cố gắng làm những việc nhân thiện chơn chánh ở bất cứ lúc nào.
Trước hết cần phải tận lực tu luyện lấy thân tâm của mình một cách chí thành, thì kẻ đó sẽ được tha lực thiêng liêng ám trợ, không nên ngồi chờ ơn trên giúp cho tất cả, mà riêng mình không tự lòng thiết tha cố gắng trau giồi cho kỳ được.
Rối mấy gỡ hoài có bữa suông,
Hướng tâm về Phật khấn nguyền luôn,
Thành lòng tất Phật ra tay độ,
Nhứt khắc Tây Phương thấy rõ đường.
Nhớ niệm:
Nam Mô Định Tâm Vương Bồ Tát Ma Ha Tát.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Ẩn, cả thân quyến, tất cả anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà đều được bình an khỏe mạnh và có nhiều phước đức trí huệ.
THANH SĨ
Lá thư số 225: Tokyo, ngày 16-11-1968
Lá thư số 225: Tokyo, ngày 16-11-1968
Tokyo, ngày 16-11-1968,
Gởi Mã Thành Kỉnh
Mã Thành Kỉnh thân mến,
Mã Thành Kỉnh thân mến,
Bức thơ của Kỉnh ở bên nầy tôi đã nhận được. Rất cám ơn Kỉnh đã có lòng viết thơ vấn an và cầu nguyện Phật lực gia trì cho tôi trên đường tế độ. Đọc thơ, thấy Kỉnh, cả gia quyến biết hướng tâm về Phật, biết nghĩ đến sự tu hành và biết cầu học chân lý nhiệm mầu, để cứu mình cứu người và cứu cả gia đình quyến thuộc, cho được hết kiếp đau khổ hiện tại và khỏi kiếp đày đọa mai sau và để cùng nhau đến cảnh giới quang minh an lạc cùng được Liên Hoa hóa thân, hoàn toàn thoát vòng luân hồi sanh tử, khiến lòng tôi rất hoan hỷ và cũng rất cảm động. Biết phát tâm như vậy là trọn tình trọn hiếu với đạo nhà và trọn nghĩa với đạo nhân, đồng thời cũng rất đúng đạo từ bi chí thiện đại đồng.
Phật Thần ở lòng người nhiều hơn ở chùa miễu và Phật Thần chỉ ở gần người lương thiện những người tu hành chơn chánh và sẽ âm thầm gia hộ cho những người ấy được toại chí nguyện, được đạt đạo quả. Vậy tôi xin khuyên Kỉnh, cả gia đình thân quyến rán giữ vững lòng tín ngưỡng như núi đá và rán cố gắng tu thân hành đạo cho tan dần nghiệp chướng phàm phu cho tiêu hết những điều lầm lỗi và để được trở nên chí thiện chí minh cả tâm hạnh.
Tin Phật không quên kẻ hữu tình,
Những điều Phật dạy khá đinh ninh,
Tu thân đến hết thân đau khổ,
Hành đạo tới khi đạo đắc thành.
Ác nghiệp ác nhân đều rán tránh,
Thiện tâm thiện sự việc nên sanh,
Bận đời nhưng Phật đừng quên niệm,
Tất Phật ngày đêm ở cạnh mình.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin cầu chúc cho Kỉnh, cả gia quyến và tất cả anh chị em tín hữu xa gần ở quê nhà đều được luôn luôn bình an mạnh giỏi, có nhiều phước huệ trong đời sống và trên đường tu hành.
THANH SĨ
Lá thư số 226: Tokyo, ngày 20-11-1968
Lá thư số 226: Tokyo, ngày 20-11-1968
Tokyo, ngày 20-11-1968,
Gởi Hồ Hữu Thứ
Hồ Hữu Thứ thân mến,
Hồ Hữu Thứ thân mến,
Bức thơ của Thứ ở bên nầy tôi đã nhận được. Rất cám ơn Thứ đã có lòng viết thơ thăm hỏi và cầu chúc sức khỏe của tôi nơi hải ngoại. Hiện thời ở Nhựt đã bước vào đầu mùa đông, sáng nay trời lạnh xuống tới 2 độ (và từ đây trở đi còn lạnh nhiều hơn nữa) nhưng tôi vẫn được mạnh luôn. Xin Thứ và anh chị em đồng đạo ở quê nhà nên an lòng. Thứ và tất cả anh chị em đồng đạo rán cùng biết thương nhau, cùng biết giúp nhau và cùng biết lo tu hành chơn chánh, phụng sự đạo nghĩa thật tâm không tư lợi, để chứng tỏ là người tín đồ có một tâm hồn thuần thành, có một trình độ giác ngộ Phật pháp cao đẹp không thẹn với lương tâm mình và cũng chẳng hổ mặt với bất cứ ai.
Đọc thơ thấy Thứ than qua nội tình trong đạo, tôi cũng thấy lòng thêm đau buồn. Sở dĩ, anh chị em, đã giảm mất tình tương thân tương ái, đã đưa đến cảnh tỵ hềm tranh chấp trầm trọng là bởi vì còn nhiều lòng tham vọng cá nhân hơn vì sự bất đồng kiến thức. Cái lòng tham vọng cá nhân ấy, cần phải gạt bỏ đi mới có thể dắt nhau đến chỗ đoàn kết và thống nhứt thật sự trong đạo được. Sự tranh chấp tị hềm trong đạo đã làm nhục nhã và gây đau khổ cho anh chị em tín hữu nhiều rồi, không nên kéo dài thêm nữa. Nhứt là để mắt nhìn vào sự chuyển biến nghiêm khắc của thời cuộc, mà những anh chị em đó có trọng trách trong đạo cần phải sớm biết hồi tâm phản tỉnh cái quyền lợi chung, sự tai hại chung, để cùng hòa thuận nhau, chung lo chỉnh đốn nền đạo cho từ trên chí dưới có tổ chức chặt chẽ, có niềm thương sâu đậm, ngõ hầu có đủ phương thế điều kiện hộ vệ lẫn nhau, để xúc tiến vững mạnh rộng lớn công việc tu hành, phụng sự Phật nhân lưỡng diện cho đạt đến mức toàn thiện toàn minh, nếu không cùng biết chung lo cải thiện cho được như vậy là có tội lớn với Đức Thầy, có hại chung cho nhau và rất khó giải thoát chảnh mê ly thống khổ hồng trần được. Tôi nhận thấy như vậy đó. Tôi cứ lo nghĩ đến điều ấy luôn.
Đồng đạo thương nhau giải khổ đời,
Tị hềm tranh chấp cũng nên thôi,
Chung lo chận trước điều tai hại,
Để nước đến trôn nhảy chẳng rồi.
Thứ cũng như anh chị em khác, trong lúc tu hành chớ nên nghi tâm rằng: Không biết mình tu được đắc đạo hay không? mà hãy nên lúc nào cũng chỉ nhứt tâm tu nhân hành đạo cho y như giáo Pháp của Thầy Tổ để đến được mãn nguyện. Tôi xin khuyên rằng:
Hướng về Đức Phật mà đi,
Quản chi lao khổ, quản chi xác phàm,
Tây Phương Phật dụng đạo tâm,
Người tâm đạo có Phật lâm rước về.
Phật xưa đã nặng lời thề,
Tin rằng Phật chẳng bỏ bê người lành,
Nữ nam hãy rán tu hành,
Có Liên Hoa Phật sẵn dành đợi cho.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Thứ, cả gia quyến và anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà đều được bình an mạnh lành và tu hành được nhiều phước đức trí huệ.
THANH SĨ
Lá thư số 227: Tokyo, ngày 1-12-1968
Lá thư số 227: Tokyo, ngày 1-12-1968
Tokyo, ngày 1-12-1968,
Lệ thân mến,
Độ nầy Lệ, cả gia quyến và anh chị em ở quê nhà có được bình an mạnh giỏi như thường không? Riêng tôi ở bên nầy hiện thời vẫn được sức khỏe. Xin Lệ và anh chị em ở quê nhà nên an lòng. Lệ ơi! Trên bước đường tranh đấu cho công cuộc hưng vong của quốc gia và thạnh suy của mối đạo rất có nhiều gay go cam khổ thập tử nhứt sinh, chớ đâu phải dễ dàng như vo nồi gạo. Điều cần nhứt để đi đến sự thành công toàn diện của cuộc tranh đấu nầy là phải có sự đoàn kết nhứt trí cùng biết mình biết người, cùng biết phải biết trái, cùng biết cần mẫn thực hành theo đường lối kế hoạch chung, dù phải trả giá kiên nhẫn hy sinh đắt đỏ đến ngần nào. Phải chịu tốn giống mới gặt được lúa là như vậy.
Độ nầy Lệ, cả gia quyến và anh chị em ở quê nhà có được bình an mạnh giỏi như thường không? Riêng tôi ở bên nầy hiện thời vẫn được sức khỏe. Xin Lệ và anh chị em ở quê nhà nên an lòng. Lệ ơi! Trên bước đường tranh đấu cho công cuộc hưng vong của quốc gia và thạnh suy của mối đạo rất có nhiều gay go cam khổ thập tử nhứt sinh, chớ đâu phải dễ dàng như vo nồi gạo. Điều cần nhứt để đi đến sự thành công toàn diện của cuộc tranh đấu nầy là phải có sự đoàn kết nhứt trí cùng biết mình biết người, cùng biết phải biết trái, cùng biết cần mẫn thực hành theo đường lối kế hoạch chung, dù phải trả giá kiên nhẫn hy sinh đắt đỏ đến ngần nào. Phải chịu tốn giống mới gặt được lúa là như vậy.
Trong sự đoàn kết của mỗi người nên đem cái dục vọng cá nhân mình đặt sau cái quyền lợi chung của quốc gia và của mối đạo. Và mỗi người cần phải thành thật đồng lao cộng tác và xem nhau như bằng hữu đệ huynh. Đồng thời cần phải cùng khích lệ cho nhau hăng hái tiến tới mục đích với một niềm tin tưởng vững mạnh vào sự thành công sáng sủa tốt đẹp ở ngày mai đây.
Nên nghe theo lời Phật đã dạy: “Hãy tưởng nước như tưởng Phật", và tình bằng hữu đệ huynh có ba yếu điểm cần phải có luôn trong lòng và nên tùy theo hoàn cảnh và phương pháp thực hành:
Giữa người bằng hữu đệ huynh (hoặc đoàn thể coi nhau như bằng hữu đệ huynh) thì nên đối với nhau có đạo nghĩa như vậy, Phật đã có nói rằng: "Nếu người thành tâm thật hành đạo nghĩa thì hạnh phước sẽ theo người như bóng với hình". Hãy tin chắc lời ấy. Tôi tin rằng những lời của Phật của Thầy đã nói không lầm. Vậy Lệ và anh chị em ở quê nhà rán cố gắng hoàn thành từ việc một.
Tôi xin chúc Lệ, cả gia quyến, tất cả anh chị em tín hữu và Bà Mười ở quê nhà đều an vui.
THANH SĨ
Lá thư số 228: Tokyo, ngày 1-12-1968
Lá thư số 228: Tokyo, ngày 1-12-1968
Tokyo, ngày 1-12-1968,
Thưa Má,
Hai bức thơ đề ngày 12 và 25 tháng 11-1968, ở bên nầy con đã nhận được. Được tin Má và anh chị em đồng đạo ở quê nhà vẫn được mạnh giỏi bình an, con rất nhẹ lo một phần nào. Ở bên nầy, độ nầy con cũng được sức khỏe và vẫn đi dạy đại học như thường lệ. Xin Má và anh chị em ở quê nhà nên an tâm lo việc tu hành đạo đức cho thêm phần tinh nghiêm chơn chánh, chơn chánh như những lời giáo huấn của Phật của Thầy.
Hai bức thơ đề ngày 12 và 25 tháng 11-1968, ở bên nầy con đã nhận được. Được tin Má và anh chị em đồng đạo ở quê nhà vẫn được mạnh giỏi bình an, con rất nhẹ lo một phần nào. Ở bên nầy, độ nầy con cũng được sức khỏe và vẫn đi dạy đại học như thường lệ. Xin Má và anh chị em ở quê nhà nên an tâm lo việc tu hành đạo đức cho thêm phần tinh nghiêm chơn chánh, chơn chánh như những lời giáo huấn của Phật của Thầy.
Má nhớ khuyên nhắc anh chị em tín hữu về sự sống cũng như về sự tu cần phải có lương tâm. Lương tâm là miếng đất của chánh nghĩa, là lính gác của đức hạnh và cũng là quan tòa của những điều thiện ác chánh tà. Trước khi muốn nói hoặc muốn làm những sự việc gì cũng vậy, nên hỏi lại lương tâm của mình cho thật kỹ, để biết rõ đó là phải hay trái, tội hay phước, siêu hay đọa v.v… không nên nói hoặc làm càn bướng theo dục ý trong nhứt thời.
Trong người của bất cứ ai cũng đều có lương tâm, nhưng người ta chịu nghe theo cái lương tâm ấy hay không mà thôi. Nếu chịu nghe theo cái lương tâm, thì có thể tránh khỏi những điều xấu xa tội ác. Và được có nhiều phước đức tốt lành. Người ta có thể cướp đoạt tài sản của mình, nhưng không thể nào cướp cái lương tâm của mình được. Nếu cái lương tâm bị mất đi, ấy là do mình chớ không phải do ai cả. Ngày nào cái lương tâm của mình còn là ngày ấy mình còn có thể tạo cho mình một đời sống sáng sủa linh diệu thơm tho, rất xứng đáng với tên con người ở trong đời, trong đạo và ở trong đất nước được. Vả lại, cũng do cái lương tâm ấy mà mình có thể tạo tác xây dựng những công việc gì có thể gọi là ích nước lợi dân về tinh thần hay vật chất.
Thế cho nên, anh chị em bất luận giờ phút nào và ở trong hoàn cảnh nào cũng cần phải giữ còn có lương tâm, đừng để cho cái lương tâm bị mất đi. Hãy nhớ rằng: Cái lương tâm vừa là nguồn cội của hạnh phúc vinh quang và cũng vừa là mối liên lạc giữa anh chị em với Phật Thần.
Hành đạo khuyên nhau hãy rán lo,
Lương tâm càng rộng phước càng to.
Phật Thần gần với lương tâm ấy,
Tội phước lương tâm khá hỏi dò.
Đời có lương tâm đời sáng sủa,
Sống có lương tâm sống thơm tho.
Mọi người nên lấy lương tâm đối,
Hạnh phúc thanh bình sẽ đến cho.
Vắn tắt có mấy lời như trên. Xin Má nhớ tùy phương tiện khuyên nhắc và truyền trao cho anh chị em đồng đạo gần xa được hiểu biết để có thêm phần hăng hái lo tu thân hành đạo. Con xin cầu nguyện ơn trên chư Phật Thần gia hộ Má được khương an trường thọ. Và nhờ Má chuyển lời con kính thăm tất cả anh chị em đồng đạo lớn nhỏ ở quê nhà.
THANH SĨ
Lá thư số 229: Tokyo, ngày 12-12-1968
Lá thư số 229: Tokyo, ngày 12-12-1968
Tokyo, ngày 12-12-1968,
Gởi Lê Thị Thắm
Lê Thị Thắm thân mến,
Lê Thị Thắm thân mến,
Rất cám ơn Thắm đã có lòng viết thơ thăm tôi và cầu chúc cho tôi được nhiều sức khỏe nơi xứ lạ. Mấy điều của Thắm đã hỏi trong thơ trên đây tôi xin có ý kiến tóm tắt như sau:
- Muốn diệt lòng sân hận thì cần phải tập tánh nhẫn nhục đến cực độ và hãy nên xét nghĩ rằng: "Sân hận là ngọn lửa đốt lòng mình khô héo, đốt mạng mình mau già mau chết, và nó còn đốt tiêu đến cả tình cảm giữa mình với mọi người chung quanh mình nữa". Không nên nuôi lòng sân hận, cần phải diệt bỏ càng sớm càng tốt cho đời mình trong sự sống và trong sự tu hành.
- Và muốn diệt tánh ái ố thì phải phát tâm từ bi, bình đẳng, nhìn mọi người bằng đôi mắt kính mến và tưởng họ như cha mẹ anh em ruột thịt của mình vậy. Dùng công tu đức độ rộng lớn của mình để làm chìa khóa mở ngục hình giải cứu tổ tiên và làm con đò đưa tổ tiên qua khỏi sông mê biển khổ. Công đức ấy hãy tự tin rằng chính mình có thể tạo được bằng cái chơn tu chơn giác của đời mình.
- Sự tu không riêng cho đời mình mà là còn tu cho tất cả mọi người khác nữa. Thế nên, cần dùng đủ phương tiện giúp đỡ người, khuyến khích người hướng về Phật pháp, khỏi sự mê muội lỗi lầm. Những hành động ấy muốn có hiệu lực, thì trước hết mình phải lo tu hành phải tinh tấn đúng đạo, để làm gương tốt cho kẻ khác sanh lòng tín nhiệm kính mến và nghe theo.
- Thật chơn tu và thật chủ tâm thì dù ở thôn quê cũng như ở thành thị vẫn được hành đạo như thường, cần phải có tinh thần cứng cỏi như kim cang, gan lì như tượng Phật để khắc phục và vượt qua mọi thử thách và cám dỗ ở quanh mình và ở trên con đường của mình đang tu và đang tiến bước, hãy nghĩ rằng, thắng được thử thách là siêu thoát, còn bị thua thử thách là đọa đày.
Tin Phật tin mình vẹn đức tin,
Những lời Phật dạy quyết đinh ninh.
Từ bi trí huệ rèn hôm sớm,
Sống thác gian lao cũng mặc tình.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc Thắm, cả quyến thuộc, tất cả anh chị em tín hữu và Bà Mười ở quê nhà đều được vạn sự bình an và có nhiều phước huệ.
THANH SĨ
Lá thư số 230: Tokyo, ngày 13-12-1968
Lá thư số 230: Tokyo, ngày 13-12-1968
Tokyo, ngày 13-12-1968,
Gởi Nguyễn Văn Tấn
Nguyễn Văn Tấn thân mến,
Nguyễn Văn Tấn thân mến,
Thơ của Tấn đề ngày 12-11-68 tôi đã nhận được. Rất cám ơn Tấn đã có lòng thăm hỏi và cầu chúc sức khỏe của tôi nơi viễn xứ. Hiện thời tôi vẫn được mạnh khỏe như thường, không có gì thay đổi đáng lo. Xin Tấn và Anh chị em đồng đạo ở quê nhà nên an lòng, lo chuyên chú công việc tu thân hành đạo cho tròn bổn phận và được mãn nguyện ước. Những câu của Tấn hỏi, tôi xin lược giải tóm gọn như dưới đây:
- Khoản một có nghĩa chơn là: Kẻ thế gian bị sanh ra là bởi tâm còn chấp mắc cái ta (thân ta của ta). Nếu lìa bỏ tâm chấp mắc ta ấy được thì không còn chỗ nào khiến cho phải đầu sanh ra nữa. Thật đúng như vậy, Nếu người còn mến thế gian, thì còn phải sanh ra vào cõi thế gian. Đây ví như người muốn bơi lội thì phải nhào xuống nước để mà bơi lội vậy.
- Khoản hai có nghĩa mật là: Trời trong mây lặng, nhựt nguyệt từ đó hiện ra và vạn vật được thanh bình vui tươi do đấy.
- Khoản ba có nghĩa thông thường là: "Sở dĩ ta có bịnh là vì ta có thân, Nếu ta không có thân thì bịnh sẽ do đâu mà có". Thật vậy, có thân mới có bịnh, mới có già và mới có chết. Và cũng vì thân mà tâm sanh ra lục dục thất tình. Nhưng rốt cuộc không ai giữ còn mãi cái giả thân ấy được, thế mà ai ai cũng cố bám víu và vì nó mà gây tạo vô số tội ác trong đời, thật là mê muội.
- Khoản bốn có nghĩa so sánh quán tưởng giản dị là: "Quán tưởng cái tánh chơn như, quán tưởng cái tâm thanh tịnh, quán tưởng cái trí huệ rộng lớn và thường cầu nguyện chiêm ngưỡng cái ánh sáng quang minh thanh tịnh không chút bụi trần. Như sức huệ nhựt phá tan mọi bóng tối, khắc nạn phong hỏa và soi sáng khắp cả thế gian. Và bị từ lực như sấm vang, từ lực như mây phủ và thần chú từ lực như mưa pháp cam lồ có sức diệt trừ dập tắt các ngọn lửa của chúng sanh".
Hãy nên thường thường quán tưởng cái chơn như quang minh thanh tịnh của tánh mình và rán mở lượng từ bi quảng đại nơi tâm mình, cho đến chỗ thật viên mãn. Như vậy mới là chơn quán tưởng. Tôi nghĩ thế.
- Khoảng năm nói về Bát Nhã Tâm Kinh có nghĩa minh bạch là: "Ông Quán Tự Tại Bồ Tát trong lúc hành sâu vào pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa, ông soi ngó các cái ngũ uẩn thấy nó đều là không (như hư không) do đó mà được độ thoát tất cả khổ ách.
Nầy ông Xá Lợi Phất ơi! Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc và cả đến thọ, tưởng, hành, thức cũng giống như vậy.
Nầy ông Xá Lợi Phất ơi! Cái tướng không của các pháp nầy vốn không sanh, không diệt, không dơ, không sạch và không thêm, không bớt, thế cho nên trong cái hư không ấy không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không có nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt, thân, ý; không có sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp và cả nhãn giới cho đến ý thức giới cũng đều không. Không vô minh và cái không vô minh ấy cũng không có nữa. Chí đến cái không lão tử và cái không lão tử ấy cũng không còn. Không có cái khổ, tập, diệt, đạo và trí cũng không, mà đắc cũng không, ấy là nắm cái vô sở đắc vậy. Kẻ giác ngộ nhờ nương theo pháp Bát nhã Ba la mật đa này mà tâm được vô quái ngại. Do cái tâm vô quái ngại nầy cho nên không có sự gì sợ sệt, xa lìa những cái mộng tưởng đảo điên và được Niết Bàn rốt ráo. Và chư Phật trong ba đời (quá khứ, hiện tại, vị lai) đều y hành theo pháp Bát nhã Ba la mật đa mà được đại chứng ngộ đạo quả vô thượng chánh đẳng chánh giác. Nên biết rằng pháp Bát nhã Ba la mật đa nầy chính là câu chú đại thần, câu chú đại minh, câu chú vô thượng và câu chú vô đẳng đẳng (không có câu chú nào sánh bằng) thường có sức tiêu trừ tất cả khổ nạn, rất chân thật không phải hư dối.
Bởi vậy cho nên nói đến câu chú Bát Nhã Ba la mật Đa (trí huệ đáo Bỉ ngạn) tức là nói đến câu chú: Yết đế, yết đế ba la yết đế, ba la tăng yết đế Bồ Đề tát bà ha (người đạt đáo, người đạt đáo bỉ ngạn, những người đạt đáo xin kính tin nương hướng theo bậc đại giác ngộ).
Bát Nhã Tâm Kinh là cốt tủy của Tam Tạng Kinh. Nên tu học Bát Nhã Tâm Kinh.
- Khoảng sáu có nghĩa là hiểu biết rộng để tu hành cho đúng, thì sự hiểu biết ấy rất có ích lợi. Trái lại, hiểu biết rộng để tự phụ tự đắc, thêm lớn tánh phân biệt nhân ngã do đó khởi các tâm trần làm trở ngại con đường giải thoát như thế là có hại lớn. Vì thế nên gọi đó là thuốc độc. Hãy nên, tuy thấy biết tất cả, nhưng đừng tự phụ tự đắc là mình được thấy biết mà đối đáp biện giải một cách tự nhiên.
Nhân nhắm vào căn tánh của người đời nay, tôi muốn nói tóm tắt vừa rất thích ứng vừa rất giản dị là:
Luận có luận không mãi chẳng ra,
Nếu người Cực Lạc muốn tìm qua,
Từ bi tâm ấy nên khai phát,
Chính đó đường mau tới Phật đà.
Đại khái có mấy hàng như đã nói trên, tôi xin chúc cho Tấn, cả quyến thuộc, tất cả anh chị em tín hữu và Bà Mười ở quê nhà đều được bình an mạnh lành và trong cuộc sống cũng như trong sự tu hành được có phước đức trí huệ.
THANH SĨ
Lá thư số 231: Tokyo, ngày 19-12-1968
Lá thư số 231: Tokyo, ngày 19-12-1968
Tokyo, ngày 19-12-1968,
Gởi Thanh Dũng
Thanh Dũng thân mến,
Thanh Dũng thân mến,
Cám ơn Thanh Dũng đã có lòng chịu khó viết thơ thăm tôi. Tôi đã có được thơ Thanh Dũng lâu rồi, nhưng vì bận việc mãi, nay mới có dịp hồi âm được. Xin Thanh Dũng niệm tình thứ lỗi cho. Đọc qua thơ những lời thơ của Thanh Dũng, tôi cảm thấy được nỗi lòng của Thanh Dũng đã và đang buồn tủi cho tình đời sự thế đen bạc như thế nào rồi. Nhưng Thanh Dũng nên nhớ: Đời chỉ có thế khó đòi hỏi cao hơn nữa đối với bản chất của họ.
Đã là người hiểu đạo và biết giác ngộ tội phước thì mình chỉ nên tìm cách cho họ được biết hối quá để cải ác tùng thiện ấy là đúng với tư cách của nhà tu hành. Mình không nên trách hận họ cho thêm sự phiền não có hại cho đức độ và tâm linh của người mình đang hành đạo trên mọi hình thức. Tôi hy vọng Thanh Dũng cũng được phát tâm và ý thức việc đạo đối với đời như vậy.
Thanh Dũng ơi!
Sinh tử khổ, ái ly ố hội khổ,
Đời khổ đau ít có chỗ nào không,
Lấy mắt người ngộ đạo để mà trông,
Thấy trần thế là biển sông đau khổ.
Đau khổ ấy truy nguyên cho tột chỗ,
Thấy nó đều do ở nghiệp mà ra.
Bởi nghiệp lành nghiệp dữ của người ta,
Khiến có đau khổ hoặc là vui sướng,
Phật biết rõ kiếp người là nghiệp chướng,
Nên vạch ra đường hướng để tu hành.
Người muốn cho cõi khổ khỏi còn sanh,
Hãy một mực làm lành trong kiếp sống.
Các ô nhiễm trong tâm cần gạn lóng,
Và định tâm thật tỉnh mộng trần gian.
Trong chúng sanh nhưng lòng Phật Tây phang,
Có đức tánh kẻ thế gian khó có.
Đó là tánh Đại từ và Đại độ,
Hoàn cảnh nào cũng có bấy nhiêu thôi.
Tha thứ người trước hơn trách hận người,
Cứu vớt kẻ chớ bỏ trôi đắm kẻ.
Tánh thiện ấy trước sau gìn một lẽ,
Ác nghiệp đời vay trả hết đi thôi.
Khuyên chớ nghĩ như thói đời lẩn quẩn.
Mở ra hết dù buộc bao nhiêu nận,
Cố vẫy vùng không để bị cuốn lôi,
Cảnh trần gian đày đọa biết rõ rồi,
Thì nhứt quyết không bỏ trôi thiện tánh.
Trau trỉa mãi đổi lòng phàm ra Thánh,
Cư trần mà soi phủng cảnh mê si.
Để Phật đường ta đã quyết chí đi,
Chẳng quản những gì ngăn cản được.
Lòng dặn lòng, đừng cho đời thúc phược,
Tâm quyết tâm, cày ruộng phước rộng sâu,
Dùng giới răn phá tan hết thành sầu,
Để nhìn khắp đâu đâu đều hết khổ,
Thênh thang rõ cảnh thiên đường hữu lộ,
Nẻo ngục môn gian khổ chẳng người đi.
Trí huệ khai hành đạo để kịp kỳ,
Long Hoa Hội trường thi chơn công đức.
Khuyên Thanh Dũng trẻ già nên gắng sức,
Rán lập công bồi đức đắp thành trì,
Để gặp ngày quả đất bị biến di,
Thành trì đó mới cứu nguy mình được.
Hỡi tất cả trẻ già ơi trong nước,
Vài lời khuyên sau trước nhớ thỉ chung,
Mong có ngày đây đó được trùng phùng,
Khi thuận nước mặt cùng trông thấy mặt,
Vắn tắt gởi lòng với lòng thắt chặt.
Vắn tắt có mấy hàng, tôi xin chúc cho Thanh Dũng và anh chị em ở quê nhà đều được luôn luôn mạnh giỏi bình an.
Có đức tánh kẻ thế gian khó có.
Đó là tánh Đại từ và Đại độ,
Hoàn cảnh nào cũng có bấy nhiêu thôi.
Tha thứ người trước hơn trách hận người,
Cứu vớt kẻ chớ bỏ trôi đắm kẻ.
Tánh thiện ấy trước sau gìn một lẽ,
Ác nghiệp đời vay trả hết đi thôi.
Khuyên chớ nghĩ như thói đời lẩn quẩn.
Mở ra hết dù buộc bao nhiêu nận,
Cố vẫy vùng không để bị cuốn lôi,
Cảnh trần gian đày đọa biết rõ rồi,
Thì nhứt quyết không bỏ trôi thiện tánh.
Trau trỉa mãi đổi lòng phàm ra Thánh,
Cư trần mà soi phủng cảnh mê si.
Để Phật đường ta đã quyết chí đi,
Chẳng quản những gì ngăn cản được.
Lòng dặn lòng, đừng cho đời thúc phược,
Tâm quyết tâm, cày ruộng phước rộng sâu,
Dùng giới răn phá tan hết thành sầu,
Để nhìn khắp đâu đâu đều hết khổ,
Thênh thang rõ cảnh thiên đường hữu lộ,
Nẻo ngục môn gian khổ chẳng người đi.
Trí huệ khai hành đạo để kịp kỳ,
Long Hoa Hội trường thi chơn công đức.
Khuyên Thanh Dũng trẻ già nên gắng sức,
Rán lập công bồi đức đắp thành trì,
Để gặp ngày quả đất bị biến di,
Thành trì đó mới cứu nguy mình được.
Hỡi tất cả trẻ già ơi trong nước,
Vài lời khuyên sau trước nhớ thỉ chung,
Mong có ngày đây đó được trùng phùng,
Khi thuận nước mặt cùng trông thấy mặt,
Vắn tắt gởi lòng với lòng thắt chặt.
Vắn tắt có mấy hàng, tôi xin chúc cho Thanh Dũng và anh chị em ở quê nhà đều được luôn luôn mạnh giỏi bình an.
THANH SĨ
Lá thư số 232: Tokyo, ngày 22-12-1968
Lá thư số 232: Tokyo, ngày 22-12-1968
Tokyo, ngày 22-12-1968,
Thi: TÔI VỚI ĐẠO
Người tôi là đạo, đạo là tôi,
Đạo với tôi không thể cắt rời,
Đạo có nơi tôi, tôi có đạo,
Tôi và đạo chỉ một mà thôi.
---
Tôi và đạo chỉ một mà thôi,
Đạo có vì đời với vì tôi,
Tôi sống vì đời và vì đạo,
Hiến tôi cho đạo với cho đời.
---
Hiến tôi cho đạo với cho đời,
Đời đạo gồm lo bổn nguyện tôi,
Lo đạo rộng khai đời tỏ ngộ,
Đời đâu cũng đạo được vui tươi.
Đời đâu cũng đạo được vui tươi,
Lấy đạo đối nhau hạnh phúc đời,
Đời chẳng một ai không thấm đạo,
Thiên đường tại thế đến nay mơi.
Người tôi là đạo, đạo là tôi,
Đạo với tôi không thể cắt rời,
Đạo có nơi tôi, tôi có đạo,
Tôi và đạo chỉ một mà thôi.
---
Tôi và đạo chỉ một mà thôi,
Đạo có vì đời với vì tôi,
Tôi sống vì đời và vì đạo,
Hiến tôi cho đạo với cho đời.
---
Hiến tôi cho đạo với cho đời,
Đời đạo gồm lo bổn nguyện tôi,
Lo đạo rộng khai đời tỏ ngộ,
Đời đâu cũng đạo được vui tươi.
Đời đâu cũng đạo được vui tươi,
Lấy đạo đối nhau hạnh phúc đời,
Đời chẳng một ai không thấm đạo,
Thiên đường tại thế đến nay mơi.
THANH SĨ
Lá thư số 233: Tokyo, ngày 25-12-1968
Lá thư số 233: Tokyo, ngày 25-12-1968
Tokyo, ngày 25-12-1968,
Gởi Diệu Kim
Diệu Kim thân mến,
Diệu Kim thân mến,
Biết lo việc mẹ mất còn,
Ấy là chữ hiếu nơi con đó rồi,
Hướng về Đức Phật con ơi!
Cầu mẹ sống mạnh, thác ngồi tòa sen.
Hiếu riêng với mẹ đừng quên,
Hiếu chung bá tánh con nên ghi lòng.
Đường đi Cực Lạc Non Bồng,
Bắt đầu từ hiếu đại đồng ớ con.
Chớ than nghiệp chướng hãy còn,
Quyết tu tỉnh sẽ tiêu mòn chẳng không.
Cảnh đời xuôi ngược một lòng,
Lấy từ bi đối thì xong mọi bề.
Tâm mê diệt mãi hết mê,
Liên Hoa có một ngày kề ở con.
THANH SĨ
Lá thư số 234: Tokyo, ngày 25-12-1968
Lá thư số 234: Tokyo, ngày 25-12-1968
Tokyo, ngày 25-12-1968,
- Nhiệm Mầu Của Giọt Lệ Tự Hối
Xưa kia có gã họ Quyền,
Tên là Binh Vệ sống miền đồng quê.
Gài bẫy chim là nghề nuôi sống,
Ngày nào thì cũng vẫn thế luôn,
Nhưng cha Quyền đã di ngôn,
Gài chim chỉ bắt một con mỗi ngày.
Đủ thiếu cũng cứ hoài như vậy,
Nắng mưa gì cũng phải đi gài,
Một hôm Quyền mới nghĩ ngay,
Chi bằng ta bắt một ngày trăm con.
Cả ba tháng không còn gài nữa,
Vẫn có chim mỗi bữa ăn xài,
Thế rồi quyền thực hành ngay,
Đem trăm cái bẫy ra gài một đêm.
Gài xong Quyền nằm im chờ đợi,
Trong tay cầm trăm mối bẫy gài,
Một bầy chim vạc mắc dây,
Nhưng chín mươi chín, chưa đầy trăm con.
Quyền muốn bắt nhưng còn chờ nữa,
Kế rựng đông chim rộ bay đi,
Cầm dây Quyền cố sức trì,
Nhưng Quyền bị vạc lôi đi giữa trời
Quyền hỏng cẳng kêu người cứu hộ,
Mà hình như chẳng có ai nghe,
Lòng Quyền như thắt như se,
Đành cho bầy vạc chúng hè nhau lôi.
Quyền bỗng tự thấy người nhẹ hỏng,
Kể từ trên không bỗng rơi đi,
Trời còn mờ sáng giữa khi.
Quyền chưa biết đã rơi đi chỗ nào.
Nhưng lạ sao từ cao rớt xuống,
Mà lại không bị đớn đau chi,
Thế là Quyền mới sanh nghi,
Rồi liền nó lại tứ chi của mình.
Thấy mình đã hóa thành chim vạc,
Đủ cánh lông chẳng khác loài chim,
Lạ lùng Quyền khó đứng im,
Quyền bèn rảo bước ngó tìm xung quanh.
Kế Quyền thấy lòng mình đói quá,
Đành phải đi tìm cá bắt ăn,
Trong khi Quyền bước lang thang,
Chân Quyền bỗng bị vướng mang bẫy gài.
Nhưng trớ trêu cái dây bẫy ấy,
Chính của Quyền sót lại đêm qua,
Quyền đâu ngờ bẫy gài ra,
Bây giờ lại vướng chân ta thế nầy.
Quyền cố gỡ, không tài nào gỡ,
Quyền buồn rầu lo sợ vô cùng,
Rồi Quyền tự hối trong lòng,
Những chim nầy đã bẫy vòng từ lâu.
Chúng cũng sợ cũng rầu như vậy,
Nhưng mình đâu có thấy biết chi,
Nghĩ rồi Quyền khóc lâm ly,
Khiến hai giọt lệ chảy đi tràn đầy.
Mầu nhiệm thay! cho hai giọt lệ,
Chảy đến đâu thân thể huờn nguyên,
Cánh lông tức khắc tan liền,
Cả dây bẫy cũng tự nhiên đứt rời.
Quyền từ đó liền thôi nghề bẫy,
Tin không Không có cái diệu huyền,
Phát tâm mộ đạo tu hiền,
Tu cho đến lúc chơn duyên đạo mầu.
Giọt lệ tự hối đâu dễ có,
Được có thì tội khổ hết ngay,
Chuyện Quyền Binh Vệ trên đây,
Khuyên đời nên lấy gương nầy học theo.
Khi biết quấy chớ đeo đuổi nữa,
Nên hồi tâm cải sửa cho mau,
Tất nhiên cùng Phật khác nào,
Chúng sanh mới đó kế vào Như Lai.
Tên là Binh Vệ sống miền đồng quê.
Gài bẫy chim là nghề nuôi sống,
Ngày nào thì cũng vẫn thế luôn,
Nhưng cha Quyền đã di ngôn,
Gài chim chỉ bắt một con mỗi ngày.
Đủ thiếu cũng cứ hoài như vậy,
Nắng mưa gì cũng phải đi gài,
Một hôm Quyền mới nghĩ ngay,
Chi bằng ta bắt một ngày trăm con.
Cả ba tháng không còn gài nữa,
Vẫn có chim mỗi bữa ăn xài,
Thế rồi quyền thực hành ngay,
Đem trăm cái bẫy ra gài một đêm.
Gài xong Quyền nằm im chờ đợi,
Trong tay cầm trăm mối bẫy gài,
Một bầy chim vạc mắc dây,
Nhưng chín mươi chín, chưa đầy trăm con.
Quyền muốn bắt nhưng còn chờ nữa,
Kế rựng đông chim rộ bay đi,
Cầm dây Quyền cố sức trì,
Nhưng Quyền bị vạc lôi đi giữa trời
Quyền hỏng cẳng kêu người cứu hộ,
Mà hình như chẳng có ai nghe,
Lòng Quyền như thắt như se,
Đành cho bầy vạc chúng hè nhau lôi.
Quyền bỗng tự thấy người nhẹ hỏng,
Kể từ trên không bỗng rơi đi,
Trời còn mờ sáng giữa khi.
Quyền chưa biết đã rơi đi chỗ nào.
Nhưng lạ sao từ cao rớt xuống,
Mà lại không bị đớn đau chi,
Thế là Quyền mới sanh nghi,
Rồi liền nó lại tứ chi của mình.
Thấy mình đã hóa thành chim vạc,
Đủ cánh lông chẳng khác loài chim,
Lạ lùng Quyền khó đứng im,
Quyền bèn rảo bước ngó tìm xung quanh.
Kế Quyền thấy lòng mình đói quá,
Đành phải đi tìm cá bắt ăn,
Trong khi Quyền bước lang thang,
Chân Quyền bỗng bị vướng mang bẫy gài.
Nhưng trớ trêu cái dây bẫy ấy,
Chính của Quyền sót lại đêm qua,
Quyền đâu ngờ bẫy gài ra,
Bây giờ lại vướng chân ta thế nầy.
Quyền cố gỡ, không tài nào gỡ,
Quyền buồn rầu lo sợ vô cùng,
Rồi Quyền tự hối trong lòng,
Những chim nầy đã bẫy vòng từ lâu.
Chúng cũng sợ cũng rầu như vậy,
Nhưng mình đâu có thấy biết chi,
Nghĩ rồi Quyền khóc lâm ly,
Khiến hai giọt lệ chảy đi tràn đầy.
Mầu nhiệm thay! cho hai giọt lệ,
Chảy đến đâu thân thể huờn nguyên,
Cánh lông tức khắc tan liền,
Cả dây bẫy cũng tự nhiên đứt rời.
Quyền từ đó liền thôi nghề bẫy,
Tin không Không có cái diệu huyền,
Phát tâm mộ đạo tu hiền,
Tu cho đến lúc chơn duyên đạo mầu.
Giọt lệ tự hối đâu dễ có,
Được có thì tội khổ hết ngay,
Chuyện Quyền Binh Vệ trên đây,
Khuyên đời nên lấy gương nầy học theo.
Khi biết quấy chớ đeo đuổi nữa,
Nên hồi tâm cải sửa cho mau,
Tất nhiên cùng Phật khác nào,
Chúng sanh mới đó kế vào Như Lai.
THANH SĨ
Lá thư số 235: Tokyo, ngày 23-12-1968
Lá thư số 235: Tokyo, ngày 23-12-1968
Tokyo, ngày 23-12-1968,
Nguyễn Hữu Tuyết
Nguyễn Hữu Tuyết thân mến,
Nguyễn Hữu Tuyết thân mến,
Thấy lòng mộ đạo chơn thành của Hữu Tuyết, tôi rất hoan hỷ. Hữu Tuyết rán vượt qua mọi chướng ngại để tiến đến diệu quả Bồ Đề. Vì không có thì giờ để viết dài như ý muốn, vậy tôi xin tóm tắt vào bốn câu thơ, để thay vì những điều đóng góp ý kiến vào cái sở cầu của Hữu Tuyết trên đường đạo học đã và đang đầy nhiệt thành:
Nước mềm, băng cứng, nước thành băng,
Ngọc ở đá xanh ngọc sáng ngần,
Tin Phật từ phàm, phàm hóa Phật.
Rán tu tỉnh chuyển lấy tâm thân.
Đơn giản có mấy lời, tôi xin chúc Hữu Tuyết, cả gia quyến và tất cả anh chị em tín hữu ở quê nhà đều được vạn an.
THANH SĨ
Lá thư số 236: Tokyo, ngày 25-12-1968
Lá thư số 236: Tokyo, ngày 25-12-1968
Tokyo, ngày 25-12-1968,
Hường thân mến,
Thơ đề ngày 13-10-68 tôi đã nhận được. Xin cám ơn Hường. Độ nầy tôi cũng vẫn được mạnh luôn không có sự gì đáng lo, xin Hường và anh chị em ở quê nhà nên an tâm. Hường ơi! cái tâm không hình ảnh, đừng tưởng rằng ở chùa dễ nhốt nó hơn ở nhà: mà nên biết rằng sự chế ngự nó được hay không là do cái chí của người tu. Nếu người tu có chí quyết mạnh mẽ dứt khoát, thì ở đâu cũng có thể tu được, không hạn định ở cảnh chùa chiền am cốc. Hường nên có đức tin vững mạnh như vậy, và trên đường tu nên từ bi lướt tới, chớ nên bất cập cũng chớ nên thái quá.
Việc khó cố làm được chẳng không,
Trồng hoa năng tưới sẽ ra bông.
Đã tu phải rán hành nên đạo,
Đừng để cho thua sấu hóa rồng.
Vắn tắt có mấy lời, tôi cầu chúc cho Hường, cả thân quyến và tất cả anh chị em gần xa ở quê nhà đều được khương an.
Thơ đề ngày 13-10-68 tôi đã nhận được. Xin cám ơn Hường. Độ nầy tôi cũng vẫn được mạnh luôn không có sự gì đáng lo, xin Hường và anh chị em ở quê nhà nên an tâm. Hường ơi! cái tâm không hình ảnh, đừng tưởng rằng ở chùa dễ nhốt nó hơn ở nhà: mà nên biết rằng sự chế ngự nó được hay không là do cái chí của người tu. Nếu người tu có chí quyết mạnh mẽ dứt khoát, thì ở đâu cũng có thể tu được, không hạn định ở cảnh chùa chiền am cốc. Hường nên có đức tin vững mạnh như vậy, và trên đường tu nên từ bi lướt tới, chớ nên bất cập cũng chớ nên thái quá.
Việc khó cố làm được chẳng không,
Trồng hoa năng tưới sẽ ra bông.
Đã tu phải rán hành nên đạo,
Đừng để cho thua sấu hóa rồng.
Vắn tắt có mấy lời, tôi cầu chúc cho Hường, cả thân quyến và tất cả anh chị em gần xa ở quê nhà đều được khương an.
THANH SĨ
Lá thư số 237: Tokyo, ngày 27-12-1968
Lá thư số 237: Tokyo, ngày 27-12-1968
Tokyo, ngày 27-12-1968
Gởi Trường, Yến
Trường, Yến thân mến,
Trường, Yến thân mến,
Bức thơ đề ngày 2-12-68 tôi đã nhận được. Rất cám ơn Trường, Yến đã có lòng viết thơ thăm hỏi tôi luôn. Hiện nay tôi vẫn được mạnh khỏe và đang nghỉ lễ mùa đông từ hôm 23-12-68 cho đến ngày 13-1-69 mới đi dạy lại ở đại học như cũ. Tuy nghỉ lễ, nhưng vẫn bận việc luôn và phải đi đó đây, mặc dù hiện thời đang giữa mùa rét lạnh. Lạnh buốt cả người, phải mặc đến 6 lớp áo len là thường. Mùa đông nầy tôi chưa định đi viếng đâu xa như mọi năm, vì có nhiều lý do, nhứt là thì giờ không có nhiều.
Trường, Yến có thấy nặng bước mỏi chân trên con đường đầy gai gốc và xa dài của đạo chăng? Hãy đặt trọn cuộc đời trên con đường đạo và rán tận tâm nỗ lực tiến bước cho đến cùng nhé. Kết quả của con đường đạo rất quang minh thanh thoát, khác hơn kết quả của con đường đời, nên tin chắc như vậy. Hãy tận dụng mọi khả năng và mọi phương tiện để làm cho mình tiến lên và giúp cho những người khác cùng được tiến lên trên con đường đạo.
Chỉ có con đường đạo mới là con đường đưa xã hội loài người đến cảnh sống hạnh phúc an vui thật sự. Cái điều để thống nhứt con đường đạo là chơn thành bác ái và lương thiện. Mà chính những điều đó sẽ dễ đem lại nhiều hòa khí giữa người với người. Vậy Trường, Yến và anh chị em ở quê nhà nên căn cứ trên con đường đạo để mà đối xử và tiến tới.
Dù đường đạo viễn với gian truân,
Một bước tiến đi một bước gần,
Gần đạo càng nhiều, càng nhẹ nghiệp,
Xa đời mỗi phút, mỗi yên thân.
Đời không có đạo, đời thêm tội,
Đạo chẳng cứu đời, đạo trái chân.
Bước đạo xa đời nhưng vẫn độ,
Độ đời trần chẳng nhiễm mê trần.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Trường, Yến và tất cả anh chị em tín hữu ở quê nhà đều được bình an mạnh giỏi và được nhiều phước đức trí huệ.
Thanh Sĩ
P.B.: Tôi có gởi theo đây hai tấm ảnh màu chụp trong lúc tuyết rơi cho Trường, Yến.
THANH SĨ
Lá thư số 238: Tokyo, ngày 13-1-1955
Lá thư số 238: Tokyo, ngày 13-1-1955
Tokyo, ngày 13-1-1955,
Kính Anh Ba,
(Gởi cho Vương Kim tức Phan Bá Cầm)
Được thơ Anh. Khi đọc đến chuyện anh Mại, tôi lấy làm thẹn và buồn vô cùng, thẹn vì anh ấy đã gần chúng mình một thời gian ở Định Hòa cùng ở trong Ban Hoằng Pháp mà chẳng giữ còn đức tin ở tương lai nước nhà và lòng tin tưởng đối với nền đạo, còn buồn vì kể từ nay đã mất thêm một người bạn thật đáng tiếc!
À! Các bức thơ của anh em giảng viên muốn gởi cho tôi, Nếu anh soát lại không có gì cần thiết thì không nên gởi. Chỉ nên nhắc Chín Ưa một tuần hoặc nửa tháng gởi thơ qua cho tôi. Trong đó nên cho biết việc thay đổi trong đoàn thể và trong nước như thế nào?
(Gởi cho Vương Kim tức Phan Bá Cầm)
Được thơ Anh. Khi đọc đến chuyện anh Mại, tôi lấy làm thẹn và buồn vô cùng, thẹn vì anh ấy đã gần chúng mình một thời gian ở Định Hòa cùng ở trong Ban Hoằng Pháp mà chẳng giữ còn đức tin ở tương lai nước nhà và lòng tin tưởng đối với nền đạo, còn buồn vì kể từ nay đã mất thêm một người bạn thật đáng tiếc!
À! Các bức thơ của anh em giảng viên muốn gởi cho tôi, Nếu anh soát lại không có gì cần thiết thì không nên gởi. Chỉ nên nhắc Chín Ưa một tuần hoặc nửa tháng gởi thơ qua cho tôi. Trong đó nên cho biết việc thay đổi trong đoàn thể và trong nước như thế nào?
Còn việc làm của Anh hiện giờ đến đâu? ông Toàn đã làm nổi chuyện chớ hử? Anh có được thơ của tôi nói về anh Lệ có cần lắm không mà không thấy trả lời cho biết. Nếu các anh nhận thấy lúc nầy cần anh Lệ về và giúp vào việc gì thì viết thơ cho tôi hay.
Chúc Anh tiến đạt và nhờ anh chuyển lời tôi và anh Lệ thăm tất cả đồng đạo.
THANH SĨ
Lá thư số 239: Tokyo, ngày 27-12-1968
Lá thư số 239: Tokyo, ngày 27-12-1968
Tokyo, ngày 27-12-1968
TẾT MẬU THÂN
Chúc cho Trường, Yến ở quê nhà,
Vui mạnh nhiều hơn những Tết qua.
Đời đạo thuận xuôi như ý nguyện,
Mỗi ngày Phật quả mỗi tươi ra.
Chúc cho Trường, Yến ở quê nhà,
Vui mạnh nhiều hơn những Tết qua.
Đời đạo thuận xuôi như ý nguyện,
Mỗi ngày Phật quả mỗi tươi ra.
THANH SĨ
Lá thư số 240: Tokyo, ngày 27-12-1968
Lá thư số 240: Tokyo, ngày 27-12-1968
Tokyo, ngày 27-12-1968,
Duy Liên thân mến
Bức thơ Liên đề ngày 11-11-68 cũng như cái thơ trước tôi đã nhận được. Rất cám ơn Liên tuy bận rộn việc quân nhân, mà vẫn không quên tôi và vẫn nhín thì giờ ra để viết thơ thăm viếng tôi và cầu chúc tôi được nhiều sức khỏe và sớm được hoàn mãn công việc hoằng pháp độ sanh. Đáng lý tôi đã hồi tin cho Liên lâu rồi, nhưng vì có nhiều việc bận luôn thành ra đến bữa nay mới có dịp viết thơ cho Liên được. Xin Liên niệm tình thứ lỗi cho việc tôi đã làm cho Liên mỏi lòng chờ đợi quá lâu ngày.
Sao? Liên có được mạnh khỏe không? Có gian nan lắm không? Liên nhớ luôn luôn thận trọng nhé! Tuy ở giữa chiến trường, nhưng trong tâm đừng rời hình bóng Phật nhé! Hình bóng Phật có diệu lực che mát được lòng mình những khi đau khổ, chiến tranh chỉ một thời gian thôi, nhưng hình bóng Phật thì vẫn trường tồn bất diệt và cái kiếp chúng sanh của người mình sẽ nương theo đó để biến giả thành chân và để tu tiến đến chỗ hoàn toàn giải thoát mọi nỗi thống khổ mê si trong tam đồ lục đạo.
Bức thơ Liên đề ngày 11-11-68 cũng như cái thơ trước tôi đã nhận được. Rất cám ơn Liên tuy bận rộn việc quân nhân, mà vẫn không quên tôi và vẫn nhín thì giờ ra để viết thơ thăm viếng tôi và cầu chúc tôi được nhiều sức khỏe và sớm được hoàn mãn công việc hoằng pháp độ sanh. Đáng lý tôi đã hồi tin cho Liên lâu rồi, nhưng vì có nhiều việc bận luôn thành ra đến bữa nay mới có dịp viết thơ cho Liên được. Xin Liên niệm tình thứ lỗi cho việc tôi đã làm cho Liên mỏi lòng chờ đợi quá lâu ngày.
Sao? Liên có được mạnh khỏe không? Có gian nan lắm không? Liên nhớ luôn luôn thận trọng nhé! Tuy ở giữa chiến trường, nhưng trong tâm đừng rời hình bóng Phật nhé! Hình bóng Phật có diệu lực che mát được lòng mình những khi đau khổ, chiến tranh chỉ một thời gian thôi, nhưng hình bóng Phật thì vẫn trường tồn bất diệt và cái kiếp chúng sanh của người mình sẽ nương theo đó để biến giả thành chân và để tu tiến đến chỗ hoàn toàn giải thoát mọi nỗi thống khổ mê si trong tam đồ lục đạo.
Vả lại, nếu trong tâm lúc nào cũng có hình bóng Phật thì người mình sẽ được thêm sức gan lì dũng cảm vô uý (không có sự vật gì khiến cho lòng yếu hèn sợ sệt cả). Và cũng nhờ đó mình sẽ làm được những việc rất khó làm vậy.
Nhớ ôm bóng Phật mỗi ngày qua,
Có Phật trong tâm khiếp quỉ tà.
Lấy Phật làm gương soi vạn sự,
Từ bi hùng lực tiện thi ra.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin cầu nguyện ơn trên và các đấng siêu hình âm thầm phù hộ cho Liên và tất cả anh chị em gần xa ở quê nhà đều được mạnh giỏi bình an và được nhiều phước đức trí tuệ.
THANH SĨ
Lá thư số 241: Tokyo, ngày 27-12-1968
Lá thư số 241: Tokyo, ngày 27-12-1968
Tokyo, ngày 27-12-1968
Nho thân mến,
Đời dù thay đổi mấy trào,
Đạo thì vẫn đạo một màu như xưa.
Đời thì nay ghét mai ưa,
Đạo thì thương kẻ sớm trưa một lòng.
Nếu còn cách biển ngăn sông,
Đò còn đưa khách dù trong thời nào.
Người chưa khỏi số Thiên tào,
Đạo còn cần để tẩu đào cho ra,
Đạo đem lại sự hiền hòa,
Đạo làm giải thoát Ta bà khổ đau.
Tâm hồn đạo rán đề cao,
Đời nào cũng vẫn một màu từ bi.
Mấy lời khuyên hãy nhớ ghi,
Quê nhà tín hữu rán thi thiết cùng.
Đời dù thay đổi mấy trào,
Đạo thì vẫn đạo một màu như xưa.
Đời thì nay ghét mai ưa,
Đạo thì thương kẻ sớm trưa một lòng.
Nếu còn cách biển ngăn sông,
Đò còn đưa khách dù trong thời nào.
Người chưa khỏi số Thiên tào,
Đạo còn cần để tẩu đào cho ra,
Đạo đem lại sự hiền hòa,
Đạo làm giải thoát Ta bà khổ đau.
Tâm hồn đạo rán đề cao,
Đời nào cũng vẫn một màu từ bi.
Mấy lời khuyên hãy nhớ ghi,
Quê nhà tín hữu rán thi thiết cùng.
THANH SĨ
Lá thư số 242: Tokyo, ngày 27-12-1968
Lá thư số 242: Tokyo, ngày 27-12-1968
Tokyo, ngày 27-12-1968,
Duy Liên thân mến,
Duy Liên bửu quyến bước Xuân nầy,
Chúc được lành nhiều lắm sự may.
Đời đạo tiến hơn năm trước cũ,
Sáng đường hiện tại sáng tương lai.
Duy Liên bửu quyến bước Xuân nầy,
Chúc được lành nhiều lắm sự may.
Đời đạo tiến hơn năm trước cũ,
Sáng đường hiện tại sáng tương lai.
P.B.: Có hình ba con khỉ ngồi chụm lại, mỗi con đều lấy tay che mắt, che miệng, che tai ý nghĩa là:
Một con không muốn thấy,
Một con không muốn nói,
và Một con không muốn nghe.
THANH SĨ
Lá thư số 243: Tokyo, ngày 12-1-1969
Lá thư số 243: Tokyo, ngày 12-1-1969
Tokyo, ngày 12-1-1969,
Thưa Má,
Hai bức thơ đề ngày 16-12-68 và ngày 1-1-1969 ở bên nầy con đã nhận được. Thấy nói Má và anh chị em đồng đạo ở quê nhà vẫn được mạnh lành con rất mừng, mặc dầu hiện đang ở giữa mùa đông giá lạnh kinh người. Xin Má và anh chị em ở quê nhà nên an tâm lo tu thân hành đạo cho được rộng khai phước huệ. Ngày tháng trôi qua rất mau như thác đổ, mới đây mà đã sắp hết một năm nữa rồi. Tính ra đã hơn 23 năm rồi, người dân Việt Nam đã cam sống trong chiến tranh loạn lạc, cho đến ngày giờ nầy cũng vẫn còn bị ngột ngạt trong khói lửa, ai ai cũng muốn vượt qua cho mau trong nhứt khắc, nhưng rất vô phước là tự mình chưa tìm thấy lối ra cho an toàn. Thật là khổ!
Nhưng xét cho kỹ thì kiếp người vốn là khổ. Không bị khổ ở điều nầy, thì cũng bị khổ ở điều khác. Người nào cũng bị khổ, và đời nào cũng bị khổ, không người nào và không đời nào mà chẳng có sự khổ, hoặc khổ lớn hoặc khổ nhỏ. Mọi sự khổ có khác nhau, nhưng nó vẫn đau đớn như nhau. Và tất cả mọi sự khổ ấy đều đặt trên đời sống con người và con người dù muốn dù không phải chịu lấy. Nhưng khi gặp những cảnh khổ đáo để phi thường thì bao nhiêu sự lo lắng buồn rầu sợ sệt trong người tự dưng biến thành tất cả sức lực vùng vẫy, tất cả trí não suy tư, để tìm lối thoát thân, tìm phương giải quyết và phát minh được những cái mà lúc bình thường không thể nào phát minh được. Thế cho nên, có thể những sự khổ không phải hầu hết là bi quan không phải mà có thể là lạc quan, nếu con người thấy là thật khổ, và quyết đem hết tâm trí sức lực ra tìm cách cởi mở giải quyết.
Hai bức thơ đề ngày 16-12-68 và ngày 1-1-1969 ở bên nầy con đã nhận được. Thấy nói Má và anh chị em đồng đạo ở quê nhà vẫn được mạnh lành con rất mừng, mặc dầu hiện đang ở giữa mùa đông giá lạnh kinh người. Xin Má và anh chị em ở quê nhà nên an tâm lo tu thân hành đạo cho được rộng khai phước huệ. Ngày tháng trôi qua rất mau như thác đổ, mới đây mà đã sắp hết một năm nữa rồi. Tính ra đã hơn 23 năm rồi, người dân Việt Nam đã cam sống trong chiến tranh loạn lạc, cho đến ngày giờ nầy cũng vẫn còn bị ngột ngạt trong khói lửa, ai ai cũng muốn vượt qua cho mau trong nhứt khắc, nhưng rất vô phước là tự mình chưa tìm thấy lối ra cho an toàn. Thật là khổ!
Nhưng xét cho kỹ thì kiếp người vốn là khổ. Không bị khổ ở điều nầy, thì cũng bị khổ ở điều khác. Người nào cũng bị khổ, và đời nào cũng bị khổ, không người nào và không đời nào mà chẳng có sự khổ, hoặc khổ lớn hoặc khổ nhỏ. Mọi sự khổ có khác nhau, nhưng nó vẫn đau đớn như nhau. Và tất cả mọi sự khổ ấy đều đặt trên đời sống con người và con người dù muốn dù không phải chịu lấy. Nhưng khi gặp những cảnh khổ đáo để phi thường thì bao nhiêu sự lo lắng buồn rầu sợ sệt trong người tự dưng biến thành tất cả sức lực vùng vẫy, tất cả trí não suy tư, để tìm lối thoát thân, tìm phương giải quyết và phát minh được những cái mà lúc bình thường không thể nào phát minh được. Thế cho nên, có thể những sự khổ không phải hầu hết là bi quan không phải mà có thể là lạc quan, nếu con người thấy là thật khổ, và quyết đem hết tâm trí sức lực ra tìm cách cởi mở giải quyết.
Thật đắng như khổ qua, cay như ớt hiểm, nhưng khi nó vào trong miệng thì cảm thấy có vị ngon. Vị ngon ấy nó phát sanh từ trong cay đắng, vậy người sống trong đau khổ cũng nên lấy điều nầy để suy rộng ra, để tập trung tất cả động lực, tâm lực và trí lực vào việc giải khổ đời sống và hoàn thành sự tu cho được như chí nguyện.
Vắn tắt có mấy lời, xin Má trao lại cho anh chị em được biết. Con xin cầu ơn trên Phật Thần gia hộ cho Má được luôn luôn mạnh khỏe sống lâu và xin Má chuyển lời con kính thăm anh chị em đồng đạo gần xa.
Con của Má
Lá thư số 244: Tokyo, ngày 14-1-1969
Lá thư số 244: Tokyo, ngày 14-1-1969
Tokyo, ngày 14-1-1969,
Gởi Mai Chí Hiền
Mai Chí Hiền thân mến,
Mai Chí Hiền thân mến,
Tôi đã nhận được thơ của Hiền. Rất cám ơn Hiền đã có lòng viết thơ thăm tôi nơi hải ngoại. Thơ hiền đã tới tôi kể ra cũng khá lâu rồi. Nhưng vì tôi quá bận việc, nên hôm nay tôi mới có dịp viết thơ hồi âm cho Hiền được. Xin Hiền niệm tình chớ trách. Về câu chuyện của Hiền đã hỏi qua trong thơ, tôi xin giải đáp giản dị như vầy:
Tự sát là người yếu tinh thần không thắng nổi các thử thách của ma quái, các chướng ngại của cuộc đời, chớ không phải là tại nghiệp trước sanh ra đâu.
Tự sát chỉ giết thân chớ không giết được tâm, mà chính cái tâm mới là gốc sanh ra tội lỗi, sanh ra các nghiệp thế gian.
Vì có tự giết thân nầy xong rồi, cũng bị sanh ra các nghiệp thế gian như vậy. Dù người có tự giết thân mãi cũng không hết được, nên ngày nào còn nghiệp thì còn phải đầu sanh. Vậy cho nên cần phải dứt nghiệp cho sạch từ trong tâm, ấy là Diệu Pháp và cũng là vấn đề then chốt trong việc giải thoát hồng trần, mà người đã hiểu đạo và hành đạo lúc nào cũng cần phải chú tâm cương quyết tháo mở cho kỳ được.
Còn việc cứu sống mạng người, giải khổ đời người, ấy là việc từ thiện đáng làm, dầu rằng có bị người hiểu lầm, có bị người nhạo báng và có bị gian truân lao lý như thế nào cũng cứ vui vẻ hăng hái tiến tới.
Người tu hành cần phải có chí đại hùng, đại lực bất cứ giờ phút nào và hoàn cảnh nào, cũng vẫn cương quyết đi trên con đường trí huệ từ bi, không để cho khói bụi của xã hội thế gian làm cho mờ ám lầm lạc. Có được nhất nguyện hành đạo, như vậy mới có thể đi đến bến giác, và gặp mặt chư Phật được, mà đắc đạo nhiệm mầu cũng do ở chỗ đó. Vậy Hiền và anh chị em tín hữu ở quê nhà, rán cùng nhau đồng tâm hiệp lực, tinh tấn tu hành cho tới khi nào được hoàn toàn sáng suốt hiền lành như bổn nguyện, đã từ lâu ôm ấp trong tâm.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin cầu chúc cho Hiền, cả thân quyến, tất cả anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà đều được vạn an.
THANH SĨ
Lá thư số 245: Tokyo, ngày 8-1-1969
Lá thư số 245: Tokyo, ngày 8-1-1969
Tokyo, ngày 8-1-1969,
Tết Năm Kỷ Dậu
Cảnh Nho thân mến,
Cảnh Nho thân mến,
Tôi đã nhận được cái thiệp chúc Tết của Nho. Hiện thời tôi vẫn được mạnh khỏe. Nhân dịp xuân sang tôi xin cầu chúc cho Nho, cả gia đình quyến thuộc và tất cả anh chị em tín hữu ở quê nhà đều được trọn năm vui tươi khỏe mạnh và gặp lắm điều may mắn trên đường đời đạo.
Chúc xuân đâu cũng thật màu Xuân,
Đẹp cảnh đẹp tình đẹp nước nước dân.
Vạn cánh hoa lòng tươi tỉnh lại,
Trời Nam chung một tiếng reo mừng.
THANH SĨ
Lá thư số 246: Tokyo, ngày 8-1-1969
Lá thư số 246: Tokyo, ngày 8-1-1969
Tokyo, ngày 8-1-1969,
Thiện Hỷ thân mến,
Tôi hân hạnh đã nhận được thơ của Thiện Hỷ. Tôi rất cám ơn Thiện Hỷ đã thành tâm và chịu khó viết thơ thăm hỏi và cầu chúc thể xác tôi được mạnh lành nơi chốn tha phương. Được biết Thiện Hỷ đã có lòng mộ đạo tu hành tinh tấn, tôi lấy làm cảm động và hoan hỷ vô cùng. Gốc đạo ấy hẳn đã chăm sâu, Thiện Hỳ rán cố gắng vun bồi thường bữa, để cho mầm đạo ấy được tuần tự lên đều, lên mạnh cho đến đúng lúc đạo được trổ khai tươi tốt thơm tho như bổn nguyện. Đó chính là ngày giờ tổ tiên cha mẹ được đẹp mặt nở mày và được siêu rỗi chơn linh.
Một chiếc đò đưa được lắm người,
Một người thành đạo độ nhiều nơi.
Tổ tiên do đó tan sầu kiếp,
Cha mẹ nhờ đây hết đọa đời.
Đạo diệu khiến sông mê hóa cạn,
Đức mầu biến núi nghiệp thành hơi.
Sự tu báu quí không chi sánh,
Cố gắng tu như Phật ngõ lời.
Còn nói về cách tu, nếu được chủ tâm trên đường đạo, thì dù ở đâu cũng có thể tu được. Vả lại, tu theo chánh đạo vô vi của Phật của Thầy thì không cố chấp hình thức bề ngoài, mà chỉ nhắm vào nội tâm làm cội gốc. Nên nhớ luôn trong lòng rằng:
Tà chánh do tâm sanh,
Phải tự chủ tâm mình.
Nếu chủ tâm không được,
Tu đâu cũng khó thành.
Rán soi phủng bức vô minh,
Thấy tâm Phật thể thấy hình trong gương.
Thấy tâm lương hoặc bất lương,
Chuyển tâm tà ác về đường từ bi.
Thấy tâm thấy Phật tức thì,
Tâm không thấy được khó qui Phật đài.
Tu thì phải luyện chiều mai,
Chí công mài sắt có ngày nên kim.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Thiện Hỷ, cả thân bằng quyến thuộc và tất cả anh chị em tín hữu ở quê nhà đều được vạn sự an lành và tu hành mau chứng đắc.
Tôi hân hạnh đã nhận được thơ của Thiện Hỷ. Tôi rất cám ơn Thiện Hỷ đã thành tâm và chịu khó viết thơ thăm hỏi và cầu chúc thể xác tôi được mạnh lành nơi chốn tha phương. Được biết Thiện Hỷ đã có lòng mộ đạo tu hành tinh tấn, tôi lấy làm cảm động và hoan hỷ vô cùng. Gốc đạo ấy hẳn đã chăm sâu, Thiện Hỳ rán cố gắng vun bồi thường bữa, để cho mầm đạo ấy được tuần tự lên đều, lên mạnh cho đến đúng lúc đạo được trổ khai tươi tốt thơm tho như bổn nguyện. Đó chính là ngày giờ tổ tiên cha mẹ được đẹp mặt nở mày và được siêu rỗi chơn linh.
Một chiếc đò đưa được lắm người,
Một người thành đạo độ nhiều nơi.
Tổ tiên do đó tan sầu kiếp,
Cha mẹ nhờ đây hết đọa đời.
Đạo diệu khiến sông mê hóa cạn,
Đức mầu biến núi nghiệp thành hơi.
Sự tu báu quí không chi sánh,
Cố gắng tu như Phật ngõ lời.
Còn nói về cách tu, nếu được chủ tâm trên đường đạo, thì dù ở đâu cũng có thể tu được. Vả lại, tu theo chánh đạo vô vi của Phật của Thầy thì không cố chấp hình thức bề ngoài, mà chỉ nhắm vào nội tâm làm cội gốc. Nên nhớ luôn trong lòng rằng:
Tà chánh do tâm sanh,
Phải tự chủ tâm mình.
Nếu chủ tâm không được,
Tu đâu cũng khó thành.
Rán soi phủng bức vô minh,
Thấy tâm Phật thể thấy hình trong gương.
Thấy tâm lương hoặc bất lương,
Chuyển tâm tà ác về đường từ bi.
Thấy tâm thấy Phật tức thì,
Tâm không thấy được khó qui Phật đài.
Tu thì phải luyện chiều mai,
Chí công mài sắt có ngày nên kim.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Thiện Hỷ, cả thân bằng quyến thuộc và tất cả anh chị em tín hữu ở quê nhà đều được vạn sự an lành và tu hành mau chứng đắc.
THANH SĨ
Lá thư số 247: Tokyo, ngày 14-1-1969
Lá thư số 247: Tokyo, ngày 14-1-1969
Tokyo, ngày 14-1-1969,
Gởi Lê Cảnh Nho
Lê Cảnh Nho thân mến,
Lê Cảnh Nho thân mến,
Bức thơ Nho đề ngày 20-12-1968 tôi đã nhận được. Rất cám ơn Nho thường viết thơ thăm tôi và chẳng quên cầu chúc tôi được thân tâm an lạc. Những gì khổ đau ngang trái của quốc dân của thế sự đã làm cho Nho bất bình phiền não trong lòng, tôi đều thông cảm được và tôi đọc thấy rõ như gương. Chính tôi cũng không tránh khỏi những nỗi buồn như Nho vậy. Song nhờ nhớ lại câu: "Lạc thiên tri mạng cố bất ưu" trong Kinh Dịch mà được an ủi rất nhiều. Vậy Nho cũng nên lấy câu ấy để làm an ủi như tôi.
Và như Nho đã biết cái nạn khổ chung của nước của dân là do cộng nghiệp. Cái cộng nghiệp ấy do đa số người tạo ra, thì có thể do đa số người làm cho nó mất đi được. Bằng cách cùng nhau nhứt tề đem nghiệp nhân thiện ra thay cho nghiệp bạo ác. Điều nầy tuy nói là do đa số, nhưng nó vẫn bắt đầu từ thiểu số mà ra, như Lão Tử đã nói: "Thiên hạ chi đại sự tất tác ư tế". Vậy Nho cũng như anh chị em tín hữu khác ở quê nhà nên tùy tài sức, tùy phương tiện để khuyến khích từ người một trong việc tạo nghiệp nhân thiện và mở rộng tình thương kẻ khác như mình.
Nhân thiện có thì quả thiện lai,
Mến người, người mến việc không sai.
Muốn tri họa phước ngày mai hậu,
Xem nghiệp hiện thời sẽ biết ngay.
Còn vấn đề tu hành của nhà tôn giáo, Nho nên nhớ câu trên đời sống hiện hữu của con người, thì nhà tôn giáo như lương y, chỉ tìm hết cách để điều trị bổ dưỡng cho con bịnh quốc dân được lành mạnh hạnh phúc mà thôi, ngoài ra không có những cái tham vọng ô trược có hại khổ cho người đời. Đấy là đức độ từ bi tế thế an dân của nhà tôn giáo (đặc biệt là Phật giáo). Vậy Nho và anh chị em tín hữu trên đường tu hành rán cố gắng trau giồi và thực thi đức độ ấy cho được lan rộng khắp nơi.
Nhân thiện có thì quả thiện lai,
Mến người, người mến việc không sai.
Muốn tri họa phước ngày mai hậu,
Xem nghiệp hiện thời sẽ biết ngay.
Còn vấn đề tu hành của nhà tôn giáo, Nho nên nhớ câu trên đời sống hiện hữu của con người, thì nhà tôn giáo như lương y, chỉ tìm hết cách để điều trị bổ dưỡng cho con bịnh quốc dân được lành mạnh hạnh phúc mà thôi, ngoài ra không có những cái tham vọng ô trược có hại khổ cho người đời. Đấy là đức độ từ bi tế thế an dân của nhà tôn giáo (đặc biệt là Phật giáo). Vậy Nho và anh chị em tín hữu trên đường tu hành rán cố gắng trau giồi và thực thi đức độ ấy cho được lan rộng khắp nơi.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin cầu chúc cho Nho, cả gia quyến và tất cả anh chị em tín hữu ở quê nhà đều được luôn luôn mạnh lành và được có nhiều phước đức trí tuệ.
THANH SĨ
Lá thư số 248: Tokyo, ngày 28-1-1969
Lá thư số 248: Tokyo, ngày 28-1-1969
Tokyo, ngày 28-1-1969,
Gởi Trần Quang Đạt
Trần Quang Đạt thân mến,
Trần Quang Đạt thân mến,
Tôi đã nhận được thơ Đạt, cám ơn Đạt. Đọc thơ tôi hiểu được cái khổ tâm của Đạt. Nhưng tôi khuyên Đạt không nên sanh phiền não bi quan có hại cho đức tin và trí huệ. Đạt hãy cho đó là nghiệp quả của chúng sanh là việc đau khổ thường có ở kiếp phàm trần và chính vì thế mà từ xưa đến nay đã gọi đời là biển khổ. Đạt hãy nên bình tĩnh vận dụng tâm đức trí huệ gấp bội lúc bình thường, để chinh phục các nỗi thử thách gian khổ và tìm cách chận đứng những gì đau thương, tai hại, vô phúc, bất lành cho đời kể từ đây. Ở trong cảnh huống nào, Đạt cũng như anh chị em tín hữu nên tùy phương tiện thực hiện cái Bi, Trí, Dũng của người Phật tử đã giác ngộ.
Cầu xin Quan Thế Âm,
Cứu khổ con đương lâm,
Giúp đỡ con trí huệ,
Phá tan nghiệp luân trầm.
Đạt nhớ niệm thầm 4 câu nầy.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin cầu chúc cho Đạt và tất cả anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được vạn sự an lành.
THANH SĨ
Lá thư số 249: Tokyo, ngày 2-2-1969
Lá thư số 249: Tokyo, ngày 2-2-1969
Tokyo, ngày 2-2-1969
Thân Gởi Đồng Đạo
Thân Gởi Đồng Đạo Quê Nhà
Thân Gởi Đồng Đạo Quê Nhà
Khó gặp đạo mầu gặp phước thay,
Rán tu xin chớ có than dài.
Kiếp nầy tu được siêu muôn kiếp,
Hãy nắm tay nhau tiến mỗi ngày.
Anh chị em đồng đạo, hễ tu thì phải tin, tin thì phải hành, mà hành thì phải nghiêm. Như vậy mới thật là kẻ chơn tu và mới có một ngày thành công đắc quả được. Nếu tu mà không tin, hoặc tin mà không hành, hoặc hành mà không nghiêm thì sự tu ấy dễ bị hư hoại, không thể nào chứng đắc và cũng không sanh huệ, khai phước được.
Không riêng về sự tu mà bất luận sự gì cũng vậy, Nếu người chỉ tin mà không làm, hoặc chỉ làm cầm chừng lấy lệ, thì sự ấy chẳng nên hình dáng gì tốt đẹp được đâu. Vì làm như thế, trong một trăm lần sẽ thất bại đến chín mươi chín lần là thường. Anh chị em đồng đạo có nhận thấy như vậy không? Anh chị em rán giữ vững đức tin và tu hành cho nghiêm chỉnh. Nhứt là lúc nào cũng nhiệt tâm và chí nguyện với mục tiêu cao cả. Hãy đặt trọn đời mình vào mục tiêu ấy và quyết đạt cho kỳ được.
Xưa kia Phật ở tại nước Xá Vệ. Có hai người bạn đạo ở lân quốc định dắt nhau đi đến viếng Phật, nhưng trên đường từ đó đến chỗ Phật phải đi qua một cánh đồng lớn mênh mông. Hai người điều khát nước nhằm giữa lúc trời nắng hạ các ao vũng đều khô cạn, hai người tìm mãi mới gặp một chỗ có độ hai gáo nước nhưng trong nước có đầy những côn trùng nhỏ. Ông thứ nhứt nói rằng:
"Chúng mình hãy uống nước để được sống đi tới chỗ Phật, còn ở trong nước có côn trùng hay không, không cần phải để ý tới".
Nhưng ông thứ hai nói rằng: "Không, nghĩ như thế là sai, theo qui giới của Phật đã dạy, thì việc từ bi là thứ nhứt. Nếu bây giờ chúng mình sát sanh để được sống đi lễ Phật, chắc Phật không chứng cho đâu. Chi bằng chúng mình thà chịu chết giữ giới có phải là tốt hơn sống mà phạm giới hay không?". Ông thứ nhứt không nghe ông cứ uống cho đã khát, còn ông thứ hai thì không chịu uống, cứ để khát như vậy cho đến chết, nhưng sau khi chết ông nhờ cái công đức giữ giới rất nghiêm ấy mà được sanh lên cõi trời, ông nhớ rõ kiếp trước, ông liền mang hoa thơm hiện đến trước mặt Phật để cúng dường và lễ bái nghiêm trang. Còn ông thứ hai thì sau đó mấy hôm, ông ấy mới đi tới chỗ Phật. Ông liền quỳ trước mặt Phật vừa khóc vừa nói rằng: "Bạch Thể Tôn con có một người bạn đạo đã cùng đi với con, nhưng giữa đường vì bị đói khát mà y đã bỏ mạng, xin thế Tôn nhủ lòng thương xót". Phật liền bảo rằng: "Ta đã biết rồi. Người bạn đạomcủa người do công đức giữ giới mà được sanh lên cõi trời và đã đến viếng ta trước ngươi mấy hôm và hiện thời còn ngồi ở trước mặt ta đây, còn ngươi đây chỉ xem cái nhục thân nầy của Phật nó chứa đầy những chất tanh hôi có ngày phải chết và tan rã đi, có phải vậy không? Ngươi đến xem cái thân vô thường nầy để làm gì? Tại sao pháp của Phật thuyết ngươi không xem? Chính trong pháp ấy có cái Pháp Thân Phật thanh tịnh thường trụ. Người bạn đạo của ngươi có xem pháp ấy và đã được thấy cái Pháp Thân Phật".
Kế Phật ngâm bài kệ:
Nghiêm tu hành giữ giới,
Được nhứt tâm bất thối.
Hiện tại hoặc vị lai,
Sở nguyện sẽ đạt tới.
Tu qui giới không gìn,
Lòng dễ bị dời đổi.
Kiếp nầy như kiếp sau,
Chỉ luống công mong đợi.
Nghĩa pháp nên hiểu rành,
Cho khỏi đường tội lỗi.
Anh chị em đồng đạo! rán tu hành tinh tấn và giữ gìn qui giới nghiêm trang, như lời của Phật xưa kia đã dạy. Hãy tin và ngó nơi Phật vô hình. Thế mới đúng là vô vi chánh đạo. Nhứt là hãy ngó vào tâm của mình, soi phá bức màn vô minh để kiến tánh thành Phật và cũng do đó mà sẽ được cùng thông cùng thấy chư Phật ở mười phương.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin cầu chúc cho tất cả anh chị em đồng đạo gần xa ở quê nhà đều được luôn luôn mạnh lành vui vẻ hạnh phúc trên đời sống và được thông đạt Bồ Đề trí huệ trên đường tu hành.
THANH SĨ
Lá thư số 250: Tokyo, ngày 7-2-1969
Lá thư số 250: Tokyo, ngày 7-2-1969
Tokyo, ngày 7-2-1969,
Gởi Đỗ Thiện Ưng
Đỗ Thiện Ưng thân mến,
Đỗ Thiện Ưng thân mến,
Tôi đã nhận được thơ của Ưng. Rất cám ơn Ưng đã có lòng biên thơ cho biết chuyện nhà và đã chẳng quên cầu chúc tôi được khương an nơi xứ lạ. Hiện thời tôi vẫn được khỏe mạnh. Ưng ơi! anh chị em quê nhà có lòng trông tôi sớm về nước, nhưng trước hơn vấn đề đó, tôi rất trông anh chị em quê nhà sớm được thuận hòa. Vì sự thuận hòa ấy chính là thành đồng vách sắt để bảo vệ anh chị em thoát qua mọi cuộc gian nguy biến chuyển, và đó cũng là cái khí thế có thể làm cho lớn mạnh sáng sủa nền đạo. Và ngoài việc ảnh hưởng thời cuộc ra, vấn đề tôi đặt chân về nước cũng rất cần đến sự thuận hòa của anh chị em quê nhà một phần lớn. Điều nầy, những anh chị em nào để chút tâm suy xét đến thì có thể đoán biết được.
Còn Ưng hỏi về chuyện ông Nguyễn. Theo tôi thiết nghĩ: Tuy ông đã mất, nhưng đạo của Đức Thầy vẫn còn, anh chị em không nên bi quan.
Anh chị em nên cố gắng tu thân hành đạo chơn chánh, nên mỗi người tùy tài tùy sức để làm cho nền đạo được mở rộng một cách đại đồng quang minh và tinh thần của mỗi người phải nên tự giác và tự tin cái thiện nguyện của mình, lúc nào cũng có sự chứng giám và hộ trợ âm thầm huyền diệu của chư vị Phật Thần.
Anh chị em hãy nên mạnh tin, bền chí và dũng cảm lướt tới, đừng bao giờ để thối chuyển đạo tâm và bổn nguyện.
Tin có Phật trợ giúp,
Tin sức mình làm được.
Đức tin ấy đủ đầy,
Sẽ trở thành diệu lực.
Đức tin là phép mầu,
Đức tin là linh dược,
Chí nguyện muốn viên thành,
Lấy đức tin làm trước.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin cầu chúc cho Ưng, cả quyến thuộc, tất cả anh chị em tín hữu gần xa và Bà Mười ở quê nhà đều được luôn bình an mạnh giỏi và trên đường tu hành đạo nghĩa được có nhiều phước đức trí huệ.
THANH SĨ
Lá thư số 251: Tokyo, ngày 20-2-1969
Lá thư số 251: Tokyo, ngày 20-2-1969
Tokyo, ngày 20-2-1969,
Gởi Nguyệt Cảnh
Nguyệt Cảnh thân mến,
Nguyệt Cảnh thân mến,
Tôi đã được thơ của Cảnh, cám ơn Cảnh đã có lòng viết thơ thăm hỏi và cầu chúc tôi được sức khỏe nơi tha phương khách địa. Dạo nầy tôi cũng được mạnh khỏe như thường. Xin Cảnh anh chị em đồng đạo cùng Bà Mười ở quê nhà nên an tâm lo tu thân hành đạo cho được chí thiện chí chánh, để bổn phận bổn nguyện đều được song toàn. Những điều của Cảnh đã hỏi tôi xin có ý kiến giản dị như dưới đây:
-Người tu hành ở giữa xã hội đời, trong tâm trí chưa được thuần chơn thì thường bị sanh nhiều vọng niệm, các vọng niệm ấy do lục căn đối tiếp lục trần hằng ngày mà phát khởi. Hầu hết nó vì cái nhục thân, nhưng cái nhục thân là giả tạm thì các vọng niệm cũng giả tạm theo.
Dù cho có vọng niệm bao nhiêu cũng luống công vô ích. Hãy định tâm xét nghĩ luôn luôn như vậy cho đến khi các vọng niệm không còn lý do tồn tại và tự nó tan đi như các vần mây bị tan dần trong ánh nguyệt, và như các làn sóng tự lặng đi trên mặt nước hồ. Và theo pháp đối trị, khi có tà niệm thì nên lấy chánh niệm để trừ, nghĩa là lấy niệm Phật để trừ niệm ma, lấy niệm thanh để trừ niệm trược v.v... Nói tóm lại, tất cả đều phải dùng sức tự tỉnh, tự giác làm trụ cột. Và chính cái sức nội lực tự trị ấy mới có phương pháp đối trị có hiệu quả kỳ bí chơn thật bất hư và vững mạnh hơn sức thần chú bên ngoài.
Nhưng việc càng khó càng phải tập luyện lâu ngày, không nên hấp tấp. Cần phải trì chí và phải đầy đủ đức tin.
Sắt đốt lâu mới mềm,
Tật sửa lâu mới hết.
Vọng luyện lâu mới chơn,
Tu phải kiên phải quyết.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Cảnh, cả quyến thuộc, tất cả anh chị em tín hữu và Bà Mười ở quê nhà đều được mọi sự an lành.
THANH SĨ
Lá thư số 252: Tokyo, ngày 25-2-1969
Lá thư số 252: Tokyo, ngày 25-2-1969
Tokyo, ngày 25-2-1969,
Gởi Thanh Phong
Thanh Phong thân mến,
Thanh Phong thân mến,
Bức thơ đề ngày 2-11-68 tôi đã nhận được. Rất cám ơn Thanh Phong đã có lòng viết thơ thăm nom và cầu chúc sức khỏe của tôi. Hiện thời tôi vẫn mạnh khỏe, xin Thanh Phong và anh chị em ở quê nhà nên an lòng lo tu hành chơn chánh và phụng sự đạo nghĩa cho tròn bổn phận và chí nguyện của mình đã và đang tiến bước trên cuộc sống và trên đường tu, mặc dù có gặp cảnh trái ngang thử thách đáo để của thế sự nhân tình.
Hãy nhớ rằng:
Muốn tươi sắc ngọc sắc ngà,
Đừng buồn những lúc người ta giũa mài.
Càng nhiều thử thách đắng cay,
Càng thêm sáng tỏ tương lai tu hành.
Xưa nay những vị đạo thành,
Vị nào cũng gặp muôn nghìn gian lao.
Nghiệp lâu nay chất ngất cao,
Không đời đục phá thì nào có tan.
Tu hành thì phải kiên gan,
Thân dù sao cũng Phật đàng cứ đi.
Đi cho đến cõi Liên Trì,
Để hoàn toàn được thoát ly hồng trần.
Còn mấy điều của Thanh Phong đã hỏi trong thơ, tôi xin giải đáp vắn tắt như dưới đây:
Người tu hành thì phải từ bi. Lòng từ bi không bao giờ thay đổi, nhưng thực hiện công việc từ bi rất có nhiều cách, mà đại khái là tùy theo khả năng, tùy theo hoàn cảnh, tùy theo cơ hội và tùy theo con người để áp dụng phương châm cho thích ứng, và cho có hiệu quả. Tuy nhiên, nếu muốn thực hiện công việc từ bi ở buổi sống đầy cạnh tranh chen lấn bằng sức mạnh, bằng thế lực kim tiền và bằng mọi thủ đọan gian hùng mạnh khóe như ngày nay thì người tu cần phải có đức tin thật cao, có tánh dũng cảm thật mạnh, để vừa là khắc phục những cái khiếp nhược, tham sanh úy tử, trọng ngã khinh nhân còn sót lại nhiều ít trong lòng mình, vừa là khắc phục những cái chướng ngại đón ngăn hâm dọa khủng bố của ngoại cảnh nữa mới được. Người tu hành mà không lòng từ bi, không làm việc từ bi, thì không có nhiều công đức để trợ trưởng cho đạo quả mau thành tựu được. Nhưng cần phải cho đúng chỗ để cứu giúp được người và cũng để cho mình khỏi sự lỗi lầm ân hận.
Trong lúc chưa đọan sạch tâm trần mà bỗng chết đi, thì sau khi đó thần thức sẽ đi theo cái nghiệp nào mạnh nhứt. Và trong lúc hấp hối, trong lòng tha thiết niệm Phật và cầu Phật tiếp rước một cách chí thành thì sẽ được sức mầu nhiệm của Phật hóa độ cho về Phật được.
Vấn đề nam nữ chung sống với nhau, quyết tâm cứu giúp nhau khỏi cảnh đau khổ, được thoát vòng tục lụy, chớ không để làm cho nhau bị đau khổ, bi sa đọa, bi mê muội tâm hồn và bị trở nên con người tội lỗi, thì không có gì gọi là trái ngược đạo pháp. Nhưng nên ghi nhớ kỹ lại chính mình phải triệt đễ trung thành với bổn phận cao cả của mình, phải hoàn toàn tự chủ lấy tâm chí của mình trên đường chánh đạo và phải đừng bao giờ để mình phản bội cái lương tâm của mình và những người tín nhiệm kính mến nơi mình. Đó là điều cốt yếu của sự cùng sống và cùng độ nhau vậy.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Thanh Phong, tất cả anh chị em tín hữu và Bà Mười ở quê nhà đều được bình an mạnh lành và được có nhiều phước đức trí huệ.
THANH SĨ
Lá thư số 253: Tokyo, ngày 12-3-1969
Lá thư số 253: Tokyo, ngày 12-3-1969
Tokyo, ngày 12-3-1969,
Thưa Má,
Hiện thời Má và anh chị em đồng đạo ở quê nhà có được bình an mạnh giỏi như thường không? Những thơ từ bên nhà gởi qua con đã nhận được hết, ở bên nầy gần nửa tháng 3 đi rồi mà vẫn còn lạnh lắm. Bữa nay từ sáng tới giờ tuyết xuống thật nhiều, gấp mấy lần hơn mọi năm. Cả thành phố Đông Kinh phủ đầy những tuyết trắng như lợp bằng vạn lớp bông gòn. Ở sân nhà và ở ngoài đường tuyết nằm cao lên bốn năm tấc Tây.
Hiện thời Má và anh chị em đồng đạo ở quê nhà có được bình an mạnh giỏi như thường không? Những thơ từ bên nhà gởi qua con đã nhận được hết, ở bên nầy gần nửa tháng 3 đi rồi mà vẫn còn lạnh lắm. Bữa nay từ sáng tới giờ tuyết xuống thật nhiều, gấp mấy lần hơn mọi năm. Cả thành phố Đông Kinh phủ đầy những tuyết trắng như lợp bằng vạn lớp bông gòn. Ở sân nhà và ở ngoài đường tuyết nằm cao lên bốn năm tấc Tây.
Hôm nay bị tuyết làm cho nhiều nơi xe hơi xe điện không chạy được phải đình chỉ lại. Độ một tuần lễ trước đây tuyết cũng đã xuống thật nhiều, nhưng kém hơn lần nầy. Trước khi tuyết rơi và sau khi tuyết lạnh khí trời trở nên lạnh hơn lúc bình thường, lạnh như nằm trong thùng nước đá. Tuy vậy, hiện thời con vẫn được mạnh khỏe. Xin Má và anh chị em ở quê nhà nên an tâm chớ lo ngại.
Và lúc nào cũng vậy, Má và anh chị em đồng đạo ở quê nhà nhớ lo khuyến khích nhau tinh tấn tu hành đúng đạo từ bi chí thiện. Rán trừ lục căn diệt lục trần, hành lục độ cho phát lục thông. Đồng thời rán lo tạo lớn phước điền, để trợ duyên cho Phật quả và rán tăng cao đức độ khoan từ kính ái đạo nghĩa cứu độ đại đồng trong mọi hoàn cảnh thiên hạ hữu sự đau khổ gian nguy.
Trong khi hành đạo cần phải giữ vững đức tin như núi đá và cần có tâm hồn tự chủ và tinh thần bất khuất trước mọi sức đàn áp bắt buộc rù quến bất lương vô đạo của ác thế tà tâm. Được như vậy mới là tu hành chơn chánh và có thể đạt đạo chứng quả như bổn nguyện.
Đời buồn càng rán tu hành,
Cho vui trời đất cho lành thế gian.
Đời càng đau khổ lầm than,
Nên dùng sức đạo làm tan khối sầu.
Đời không nhứt định đâu lâu,
Hãy đem cảnh Phật để thâu người về.
Đời mê khiến khổ trăm bề,
Dùng tâm giác Phật giải mê tình đời.
Đời nay cho đến đời mơi,
Sống trong chánh đạo là đời an vui.
Vắn tắt có mấy lời, con cầu xin ơn trên Phật Trời hộ độ cho Má và tất cả anh chị em đồng đạo gần xa ở quê nhà đều được vạn sự an khương.
Con của Má
P.B.: Còn 500 bánh nữa đến nay vẫn chưa nhận được.
THANH SĨ
Lá thư số 254: Tokyo, ngày 20 -3-1969
Lá thư số 254: Tokyo, ngày 20 -3-1969
Tokyo, ngày 20 -3-1969
Hoài Ân thân mến,
Trong lúc nầy ở quê nhà Ân, cả gia quyến, tất cả anh chị em tín hữu và Bà Mười có được bình an mạnh lành như thường không? Riêng tôi ở bên nầy hiện thời cũng được sức khỏe và còn nghỉ lễ mùa xuân cho đến ngày 14 tháng Tư tới mới đi dạy ở đại học trở lại. Tuy nghỉ lễ xuân nhưng tôi vẫn bận việc luôn, cho nên có nhiều thơ của anh chị em còn đọng lại, tôi chưa có dịp hồi đáp được. Nhưng thế nào tôi cũng chia thì giờ ra viết thơ để trả lời cho những anh chị em đã có lòng biên thơ thăm tôi.
Trong lúc nầy ở quê nhà Ân, cả gia quyến, tất cả anh chị em tín hữu và Bà Mười có được bình an mạnh lành như thường không? Riêng tôi ở bên nầy hiện thời cũng được sức khỏe và còn nghỉ lễ mùa xuân cho đến ngày 14 tháng Tư tới mới đi dạy ở đại học trở lại. Tuy nghỉ lễ xuân nhưng tôi vẫn bận việc luôn, cho nên có nhiều thơ của anh chị em còn đọng lại, tôi chưa có dịp hồi đáp được. Nhưng thế nào tôi cũng chia thì giờ ra viết thơ để trả lời cho những anh chị em đã có lòng biên thơ thăm tôi.
Ân và anh chị em tín hữu ở trên đường giác ngạn đã được đặt bước đến mức nào rồi? Có phải chăng vì sống trong gian khổ thì nhiều mà cảnh an nhàn thì ít. Vả lại, hằng ngày còn bị mùi đời xông ướp đã khiến cho số đông anh chị em lần lần dừng bỏ bước tu và lui vào vòng tục lụy làm cho ô uế cả thân tâm và mọc đầy những gốc rễ tội ác. Thật đáng tiếc vô cùng! Bị lạc mất ngàn vàng cũng không tiếc uổng bằng bị lạc mất một người tu.
Mối đạo buông luôn khổ vạn đời,
Rán trì đạo lại đệ huynh ơi!
Muốn không sanh diệt nên hành đạo,
Đời mến ưa bao cũng tạm thời.
Ân và anh chị em có nhận thấy như vậy không? Ân và anh chị em rán nhứt tâm tin hướng Tam Bảo, tưởng niệm Di Đà để nhờ công đức và sự gia hộ nhiệm mầu để được ra khỏi biển khổ sông mê ngay ở kiếp tu hiện tại. Thuở xưa trong khi Đức Phật Thích Ca ở Kỳ Viên tịnh xá của nước Xá Vệ, có người đại thương buôn vào một ngày nọ trước khi đi lấy san hô bảo vật ở biển xa, y liền đến mời Đức Phật đến nhà để y cúng dường và nghe pháp. Đức Phật nhận lời. Sáng hôm sau, Đức Phật dắt môt số đệ tử đi đến, người thương buôn rất vui mừng ra đón Đức Phật vào nhà và cúng dường xong rồi nghe Đức Phật nói Pháp. Người thương buôn đã được thâm ngộ và lễ bái Đức Phật một cách thành kính. Khi đó Đức Phật dạy rằng: "Ở biển cả có nhiều tai nạn nguy hiểm, người nên tưởng niệm Tam bảo, gìn giữ ngũ giới, để được nạn khỏi tai qua và được trở về một cách vô sự".
Người thương buôn xin vâng lời Đức Phật và xin Đức Phật dạy thêm khiến lòng y thêm được mở tỏ. Sau khi Đức Phật ra về, người thương buôn với một số thủy thủ mang lương thực hành lý xuống thuyền đi ra biển cả. Sau đó mấy hôm thuyền bị sóng to nhồi như cành lá lung lay trong cơn bảo tố. Kế đó, có vị Thần Biển hiện ra quỉ dạ xoa thân hình xấu xí, mặt mũi xanh dờn, cửa mồm lồi nanh vút và nơi khóe miệng có lửa cháy như ngọn lửa lò. Quỉ dạ xoa kềm thuyền lại và lườm ngó người thương buôn nói rằng: "Chắc ngươi chưa gặp ai có tướng diện khiếp sợ như ta phải không?
Người thương buôn trông thấy tướng diện quỉ dạ xoa làm rởn tóc gáy, xong liền nhớ ngay lời Đức Phật, tức khắc tập trung tinh thần nhứt tâm tưởng niệm Tam bảo và cầu xin Đức Phật gia hộ, thì ngay sau đó thấy lòng khiếp sợ tan đi và liền trả lời mạnh mẽ với quỉ dạ xoa rằng: "Ta đã thấy những kẻ còn khiếp sợ gấp bao nhiêu lần hơn nhà ngươi nữa". Quỉ dạ xoa hỏi: "Những kẻ đó như thế nào?" Người thương buôn trả lời: "Đó là những kẻ phạm tội thập ác rơi vào địa ngục bị lũ quỉ ngục La Sát xúm lại đâm chém, ném trên núi gươm đao, quăng vào rừng chông kiếm, bắt ngồi trên xe lửa, chôn thân trong hầm lửa, nhốt mình giữa khối băng lạnh và nấu thân trong dầu sôi đầy cứt đái, chịu cực hình thống khổ như vậy hàng ngàn muôn năm liên tiếp không ngừng. Đó mới là đáng khiếp sợ gấp bao nhiêu lần hơn nhà ngươi".
Quỉ dạ xoa nghe nói như thế, làm thinh biến đi mất. Mặt biển liền lặng sóng và trở lại yên tịnh như thường. Rồi mấy hôm sau, Thần Biển lại hóa ra một người đàn ông gầy ốm còn da bọc xương như người sắp chết, hiện đến bên cạnh thuyền ngó vào mặt người thương buôn nói rằng: "Ngươi có thấy ai gầy ốm như ta không?" Người thương buôn trả lời: "Ta đã thấy những kẻ gầy ốm gấp bao nhiêu lần hơn nhà ngươi nữa". Người đàn ông ấy hỏi: "Những kè ấy là ai?" Người thương buôn trả lời: "Ấy là những kẻ phạm tội ghen ghét, keo lận, ích kỷ bị rơi vào đường ngạ quỉ, đầu to nhưư vồ đá, bụng lớn như trống chầu, cổ nhỏ như cây kim, tóc rối, mặt đen, trải bao nhiêu năm cũng vẫn bị đói khát, không hề nghe đến tên các món ăn. Những kẻ đó lại còn bị gầy ốm gấp bội hơn nhà ngươi". Người đàn ông nghe nói vậy liền biến mất trong biển cả nhanh như chớp.
Kế sau đó độ mấy hôm, Thần biển lại hóa ra một thanh niên trẻ đẹp, hiện ngay trước mặt người thương buôn và bảo rằng: "Người đã có thấy ai trẻ đẹp như ta không?" Người thương buôn đáp: "Ta đã thấy có những vị trẻ đẹp gấp bao nhiêu lần hơn nhà ngươi nữa". Người thanh niên hỏi rằng: "Những vị đó là ai?" Người thương buôn trả lời: "Đó là những vị tưởng Tam bảo, trì ngũ giới, hành thập thiện được sanh cõi trời, dung nhan tướng mạo đẹp đẽ phi thường, ở thế gian nầy không có ai bì kịp, nhà ngươi so với những vị ấy như khỉ so với tiên khác xa nhau một trời một vực". Người thanh niên Thần biển nghe câu trả lời ý lấy làm thẹn thùa kinh ngạc và nghĩ rằng người thương buôn nầy trí rất nhanh và rất rõ thông đạo lý, nên muốn thử hỏi thêm liền đưa tay mặt ra mút một bụm nước và hỏi người thương buôn rằng: "Một bụm nước nầy so với cái biển nước, bên nào nhiều hơn?" Người thương buôn đáp: "Một bụm nước nhiều hơn cái nước biển". Người thanh niên Thần Biển gắt: "Ai xem cũng thấy cái biển nước nhiều hơn bụm nước. Câu nói của ngươi trả lời không thể tin được". Nhưng người thương buôn nói: "Nhà ngươi nói đúng. Nhưng ý nghĩa của ta nói, nếu lấy sự thường thức trong đời nầy thì không thể nào phán đoán được. Để ta giải thích cho nhà ngươi được biết. Dù nước biển có nhiều đến đâu đi nữa khi thế giới nầy bị tiêu diệt, thì nó cũng cạn hết và trở lại với cái không không. Nhưng một bụm nước mà biết tâm thanh tịnh chơn thành ra dâng cúng Đức Phật, Mẹ, Cha, bá tánh, hoặc những người ăn xin, hoặc những loại thú cầm v.v… thì ví dù tất cả sự vật trên thế giới nầy có bị tiêu diệt hết đi nữa, cái công đức ấy vẫn được vĩnh cữu tồn tại không thể nào mất. Thế cho nên ta mới nói nước biển ít mà nước trong bụm tay thì nhiều là như vậy".
Nghe rõ những lời ấy thanh niên Thần biển rất vui mừng và xin quy y thọ giáo. Đồng thời đem ngọc trong biển ra tặng người thương buôn và gởi riêng một số ngọc quí nhờ trao lại cúng dường Đức Phật. Xong rồi thanh niên Thần Biển biến đi. Sau đó, người thương buôn cùng đoàn thủy thủ quày thuyền trở về bổn xứ, đi đến lễ bái Đức Phật, trao lại những ngọc quí báu của Thần Biển đã phát tâm cúng dường và thưa rằng: "Bạch Đức Thế Tôn, chúng con hữu phước đã được Thế Tôn chỉ giáo, nên đã được thoát khỏi tai nạn ở biển cả, được châu ngọc và được trở về nhà một cách an toàn. Đây là nhờ ân đức của Thế Tôn. Vậy xin Đức Thế Tôn cho chúng con vào hàng đệ tử". Đức Phật liền bảo: "Tốt lắm các ngươi đều có tướng lành như các tu sĩ, có thể khai ngộ quả phẩm La Hán được". Đức Phật nhận lời. Và thật đúng như lời Đức Phật, một thời gian sau đó, Người thương buôn và đoàn thủy thủ đều được chứng quả La Hán.
Ân và anh chị em tín hữu ở quê nhà nên lấy mẫu chuyện trên đây để thêm đức tin tu hành và khắc phục mọi gian truân quái ngại. Hãy nhứt tâm tưởng niệm Tam Bảo Như Lai, hãy nghiêm thủ giới hạnh, hãy gieo sâu giống lành và hãy nhen đốt đèn tâm cho thấy đường qua bến giác.
Vắn tắt mấy lời, tôi xin chúc cho Ân, cả gia quyến, tất cả anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà đều được vạn an.
THANH SĨ
Lá thư số 255: Tokyo, ngày 22-3-1969
Lá thư số 255: Tokyo, ngày 22-3-1969
Tokyo, ngày 22-3-1969,
Thiện Hỷ thân mến,
Tôi đã nhận được thơ của Hỷ. Tôi rất cám ơn Hỷ đã có lòng cầu chúc tôi được khỏe mạnh nơi tha phương. Thật ra thơ của Hỷ Tôi đã nhận được khá lâu rồi, nhưng vì thì giờ quá eo hẹp, cho nên để trễ đến hôm nay tôi mới có dịp hồi âm. Xin Hỷ vui lòng thứ lỗi cho.
Tôi đã nhận được thơ của Hỷ. Tôi rất cám ơn Hỷ đã có lòng cầu chúc tôi được khỏe mạnh nơi tha phương. Thật ra thơ của Hỷ Tôi đã nhận được khá lâu rồi, nhưng vì thì giờ quá eo hẹp, cho nên để trễ đến hôm nay tôi mới có dịp hồi âm. Xin Hỷ vui lòng thứ lỗi cho.
Mấy câu chuyện của Hỷ đã hỏi, tôi xin có ý kiến đơn giản như sau đây:
Chính mình trước hết phải lo trồng,
Trời sẽ nắng mưa xuống chẳng không.
Tự lực có thì tha lực có,
Ấy là cảm ứng rất dung thông.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Hỷ, cả gia quyến và tất cả anh chị em tín hữu ở quê nhà đều được luôn luôn khỏe mạnh an vui và được có nhiều phước đức trí huệ.
THANH SĨ
Lá thư số 256: Tokyo, ngày 25-3-1969
Lá thư số 256: Tokyo, ngày 25-3-1969
Tokyo, ngày 25-3-1969,
Gởi Trần Thị Bích Liên
Trần Thị Bích Liên thân mến,
Trần Thị Bích Liên thân mến,
Tôi đã nhận được thơ Bích Liên. Thành thật cám ơn Bích Liên đã có lòng viết thơ thăm hỏi sức khỏe của tôi nơi đất khách, mà còn cầu nguyện cho tôi sớm được viên mãn bổn phận thiêng liêng. Hiện thời tôi vẫn được sức khỏe và đi dạy ở đại học như thường lệ, không có gì thay đổi. Được biết ở quê nhà Bích Liên và anh chị em đồng đạo và Bà Mười đều được mạnh lành tôi rất an lòng. Bích Liên còn nhỏ tuổi mà sớm phát tâm cầu đạo Bồ Đề, gia đình Bích Liên hẳn đã nhiều đời rắm sâu duyên lành với Phật pháp, đọc thơ Bích Liên như đọc được lòng Bích Liên, qua bốn câu thơ mà Bích Liên đã gói ghém, xuất phát đầy hương vị đạo pháp, khiến cho lòng tôi rất mừng.
Sanh vào thời mạt pháp mà sớm tỉnh tâm giác ngộ, lại thêm có được nhiều khiếu thơ văn đó là một sự hy hữu.
Tôi xin hướng dẫn Bích Liên mấy vần kệ như dưới đây:
Khéo tùy thuận các duyên,
Cởi mở hết phiền não,
Đừng để cho chướng ngại,
Đổi kiếp tục ra Tiên.
Đổi kiếp tục ra Tiên,
Bước chân Phật nối liền,
Kiếp nầy xong bổn nguyện,
Đồng dự hội Hoa Liên.
Bích Liên ơi!
Đường về Phật trong người có khiếu,
Rán mà soi cho liễu bớ Liên!
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Bích Liên, quý quyến, tất cả anh chị em đồng đạo Bà Mười ở quê nhà đều được vạn sự an lành tu hành mau sáng tỏ.
THANH SĨ
Lá thư số 257: Tokyo, ngày 27-3-1969
Lá thư số 257: Tokyo, ngày 27-3-1969
Tokyo, ngày 27-3-1969,
Võ Thu Vân thân mến,
Tôi đã nhận được thơ của Thu Vân. Rất cám ơn Thu Vân đã có lòng viết thơ thăm hỏi và có lòng cầu chúc sức khỏe của tôi nơi xứ lạ. Trong lúc nầy tôi vẫn được mạnh khỏe, không có sự gì thay đổi đáng lo. Xin Thu Vân và anh chị em tín hữu cũng như Bà Mười ở quê nhà nên an lòng. Đọc thơ thấy mấy điều nghi vấn của Thu Vân trong thơ, tiện đây tôi xin tạm định nghĩa như dưới đây:
Tôi đã nhận được thơ của Thu Vân. Rất cám ơn Thu Vân đã có lòng viết thơ thăm hỏi và có lòng cầu chúc sức khỏe của tôi nơi xứ lạ. Trong lúc nầy tôi vẫn được mạnh khỏe, không có sự gì thay đổi đáng lo. Xin Thu Vân và anh chị em tín hữu cũng như Bà Mười ở quê nhà nên an lòng. Đọc thơ thấy mấy điều nghi vấn của Thu Vân trong thơ, tiện đây tôi xin tạm định nghĩa như dưới đây:
Ví dụ như người đã có cái tập nghiệp ăn trộm thì thích nghề ăn trộm. Đã có cái tập nghiệp đỉ điếm thì ưa nghề đỉ điếm, đã có đã có cái tập nghiệp ma thì theo ma và đã có cái tập nghiệp người thì theo người v.v… Cứ nghiệp lôi duyên, duyên theo nghiệp mãi mãi như vậy, hết đời nọ sang đời kia. Mà tất cả đều do chúng sanh tâm mê nhiễm hồng trần không phân biệt được sự giả chân, cứ lấy khổ làm vui, nhận giả làm thật, say mê cái thân tạm cõi tạm, không để tâm tìm kiếm cái thân thật cõi thật bất sanh bất diệt vĩnh viễn thường tồn.
Nói tóm lại, phần đông người đời không chịu tu, hoặc không cố gắng tu cho được tỏ ngộ chơn tâm để được giải thoát cái kiếp luân hồi thống khổ. Vì vậy khiến cho trên cõi thế gian nầy, sự sanh tử càng lúc càng nhiều, cảnh đau khổ càng ngày càng thêm không thấy bớt, thật là tội quá. Đại khái về chân lý nhân quả và nghiệp duyên như đã kể trên. Thu Vân và anh chị em tín hữu nên dựa theo đó để suy xét rộng ra hầu có giúp cho sự nhận định không sai lầm, sự tu hành thêm đúng đắn và lòng tín ngưỡng thêm được mạnh mẽ hơn để hành đạo cho mau có kết quả vi diệu.
Đồng thời rán lo ngoài thì tu phước, trong thì tu huệ để làm trợ duyên cho đạo quả. Hãy dày công tu luyện tất nhiên được kiến hiệu như tâm cầu, chớ hấp tấp trong nhứt thời, khó được khai ngộ chứng đắc.
Tập trung cả niệm lực,
Vào A Di Đà Phật.
Tưởng toàn thân như sen,
Trong sen có thần thức.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Thu Vân, cả quyến thuộc, tất cả anh chị em tín hữu và Bà Mười ở quê nhà đều được vạn sự an lành và trên đường tu hành được ngày càng sáng suốt tỏ ngộ.
THANH SĨ
Lá thư số 258: Tokyo, ngày 5-7-1969
Lá thư số 258: Tokyo, ngày 5-7-1969
Tokyo, ngày 5-7-1969,
Gởi Trường, Yến
Trường, Yến thân mến,
Trường, Yến thân mến,
Mấy cái thơ mới gần đây của Trường, Yến bên nầy tôi đã nhận được. Song vì không có thì giờ dư rộng nên trễ đến hôm nay tôi mới có dịp hồi âm, xin Trường, Yến thứ lỗi tôi rất cảm ơn. Dạo nầy Trường, Yến cả gia đình quyến thuộc có được bình an mạnh lành Không? Và công việc tu thân hành đạo có được nghiêm chỉnh tiến lên đồng đều vững mạnh như ý nguyện không? Trường, Yến hãy nhớ đọc đi đọc lại cho được thấu triệt diệu nghĩa độc nhứt bất nhị của bài "Tâm kinh Bát nhã Ba la mật đa" của Phật đã thuyết như sau:
"Quán tự tại Bồ Tát hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách.
Xá Lợi tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc; sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị. Xá Lợi tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm. Thị cố không trung, vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh diệc vô vô minh tận; nãi chí vô lão tử diệc vô lão tử tận. Vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố, Bồ Đề tát đỏa y Bát nhã Ba la mật đa, cố tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố; vô khủng bố, viễn ly nhứt thiết điên đảo mộng tưởng; cứu cánh Niết bàn. Tam thế chư Phật y Bát nhã Ba la mật đa cố đắc A Nậu đa la Tam miệu Tam Bồ Đề. Cố tri Bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chân thật bất hư. Cố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết: “Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ Đề tát bà ha.”
Tâm là cánh cửa thấu non linh,
Bên ấy không hề có tử sinh.
Hãy rán tự mình soi mở lấy,
Bằng chìa vô ngã sức thanh bình.
Trường, Yến, thân quyến và anh chị em tín hữu rán thường hành tinh tấn. Tôi xin cầu chúc tất cả đều được vạn an.
THANH SĨ
Lá thư số 259: Tokyo, ngày 8-7-1969
Lá thư số 259: Tokyo, ngày 8-7-1969
Tokyo, ngày 8-7-1969,
Hường thân mến,
Bức thơ đề ngày 1-7-69 tôi đã nhận được xin cám ơn Hường. Mấy việc Hường đã hỏi tôi xin có ý kiến giản dị như vầy:
Do nghiệp trước chư nhơn,
Thành số mạng thành duơn.
Nếu có thể đổi được,
Nếu hiệu lực mạnh hơn.
Do nghiệp dữ nghiệp lành,
Thành họa sanh phước sanh.
Muốn đổi họa phước ấy,
Phải đổi nghiệp nơi mình.
Vắn tắt của mấy lời, tôi xin cầu chúc cho Hường và cả gia quyến được mạnh lành an vui và có được nhiều phước đức trí huệ.
Bức thơ đề ngày 1-7-69 tôi đã nhận được xin cám ơn Hường. Mấy việc Hường đã hỏi tôi xin có ý kiến giản dị như vầy:
Do nghiệp trước chư nhơn,
Thành số mạng thành duơn.
Nếu có thể đổi được,
Nếu hiệu lực mạnh hơn.
Do nghiệp dữ nghiệp lành,
Thành họa sanh phước sanh.
Muốn đổi họa phước ấy,
Phải đổi nghiệp nơi mình.
Vắn tắt của mấy lời, tôi xin cầu chúc cho Hường và cả gia quyến được mạnh lành an vui và có được nhiều phước đức trí huệ.
P.B.: Nhờ Hường chuyển lời tôi kính thăm tất cả anh chị em tín hữu gần xa.
THANH SĨ
Lá thư số 260: Tokyo, ngày 11-7-1969
Lá thư số 260: Tokyo, ngày 11-7-1969
Tokyo, ngày 11-7-1969,
Hoài Ân thân mến,
Người quen ở Sài Gòn đến: Tokyo đã trao cho tôi hai gói bánh và cái thơ của Ân rồi. Tôi thành thật cám ơn Ân và những anh chị em tín hữu đã có nhiệt tâm giúp tôi về món bánh nầy. Hiện thời ở bên nầy tôi vẫn được bình thường, không có sự gì thay đổi. Xin Ân và anh chị em ở quê nhà nên an tâm củng cố trau giồi đạo hạnh cho được tinh nghiêm giác thắng. Còn nói về các khổ quả của người đời, tôi xin tóm tắt bằng tám câu thơ dưới đây:
Sanh giữa thế gian bởi nợ nần,
Người nên sớm biết để tu thân.
Mượn phàm tục kiếp xoay về Phật,
Thừa ác quả đời lập thiện nhân.
Tin nghiệp phải đền đừng tạo nghiệp,
Biết trần là khổ chớ mê trần.
Sống tu bằng cái tâm vô ngã,
Sẽ hết nợ nần hết chuyển luân.
Rất mong ai ai cũng được biết thức tỉnh và nhứt tâm hướng Phật tu hành chí thiết.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Ân, cả gia quyến và tất cả anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà đều được mạnh giỏi bình an.
Người quen ở Sài Gòn đến: Tokyo đã trao cho tôi hai gói bánh và cái thơ của Ân rồi. Tôi thành thật cám ơn Ân và những anh chị em tín hữu đã có nhiệt tâm giúp tôi về món bánh nầy. Hiện thời ở bên nầy tôi vẫn được bình thường, không có sự gì thay đổi. Xin Ân và anh chị em ở quê nhà nên an tâm củng cố trau giồi đạo hạnh cho được tinh nghiêm giác thắng. Còn nói về các khổ quả của người đời, tôi xin tóm tắt bằng tám câu thơ dưới đây:
Sanh giữa thế gian bởi nợ nần,
Người nên sớm biết để tu thân.
Mượn phàm tục kiếp xoay về Phật,
Thừa ác quả đời lập thiện nhân.
Tin nghiệp phải đền đừng tạo nghiệp,
Biết trần là khổ chớ mê trần.
Sống tu bằng cái tâm vô ngã,
Sẽ hết nợ nần hết chuyển luân.
Rất mong ai ai cũng được biết thức tỉnh và nhứt tâm hướng Phật tu hành chí thiết.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Ân, cả gia quyến và tất cả anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà đều được mạnh giỏi bình an.
THANH SĨ
Lá thư số 261: Tokyo, ngày 14-7-1969
Lá thư số 261: Tokyo, ngày 14-7-1969
Tokyo, ngày 14-7-1969,
Gởi Lê Cảnh Nho
Lê Cảnh Nho thân mến,
Lê Cảnh Nho thân mến,
Mấy cái thơ của Nho trong vòng mấy tháng qua, ở bên nầy tôi đã liên tiếp nhận được hết. Rất cám ơn Nho đã có tâm thành nhớ tưởng đến tôi và chịu khó biên thơ thăm hỏi sức khỏe của tôi luôn. Hiện thời tôi vẫn được khỏe mạnh và vẫn còn đi dạy ở đại học như thường lệ, không có sự gì thay đổi. Chỉ duy từ đầu năm nay, tôi đã phải có lắm chuyện bận rộn hơn trước, cho nên không riêng thơ của Nho mà có chút trăm cái thơ của anh chị em khác còn đọng lại đến hôm nay mà tôi chưa có dịp hồi âm.
Xin Nho cũng như anh chị em tín hữu ở quê nhà vui lòng thông cảm cái lý do chậm trễ nầy mà niệm tình thứ lỗi tôi không xiết cám ơn. Nho, trong việc tu luyện về mặt tâm lặng, trí minh như trời thanh nguyệt lộ. Nho đã được tinh tấn khá đều đặn hay không? Xưa có một tăng sư đọc kinh Pháp Hoa đến câu: "Chư pháp bổn lai thường tự tịch diệt tướng" (các pháp xưa nay thường tự có tướng vắng lặng tịch diệt) ông liền sanh nghi và lúc đi đứng nằm ngồi đều để tâm suy nghĩ mãi, nhưng không liễu giải được.
Vào một hôm nọ, ông ngắm trăng sáng tự nhiên trên không và nghe tiếng chim kêu tự do trên cành bỗng nhiên ông được khai ngộ, ông liền ứng khẩu ngâm lên bài kệ rằng:
Chư pháp tùng bổn lai,
Thường tự tịch diệt tướng.
Xuân chí bá hoa khai,
Hoàng anh đề thọ thượng.
Sự cơ cảm đạo diệu như trên đây, tôi thấy nó có thể trợ duyên cho Nho về mặt tu luyện chứng chân trí huệ hơn mọi mặt huyễn hóa thế gian. Vậy Nho cũng nên lưu tâm chiêm nghiệm và phương tiện phụng hành.
Biết đời trong cái vô thường kiếp,
Hãy sống tu ngoài vị ngã tâm.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin cầu chúc cho Nho, cả gia quyến và tất cả anh chị em tín hữu ở quê nhà đều được bình an mạnh lành và có nhiều phước huệ.
THANH SĨ
P.B.: Tôi có kèm gởi theo đây một tấm ảnh màu của tôi tặng Nho.
Lá thư số 262: Tokyo, ngày 15-7-1969
Lá thư số 262: Tokyo, ngày 15-7-1969
Tokyo, ngày 15-7-1969,
Thi: Phật Pháp
PHẬT PHÁP
Phật pháp cứu người khỏi kiếp mê,
Đưa người về đến cõi Liên Huê.
Vài lời xin nhắn người trong nước,
Phật pháp chung lo tiến mọi bề.
Người đời càng say mê trong giấc mộng trần gian danh lợi dục tình, thì tiếng chuông trong Phật pháp càng cần phải ra tay đánh mạnh không ngừng, để làm cho họ có cơ tỉnh thức. Tôi thiết tưởng như vậy. Tôi xin khuyên anh chị em tín hữu rán thương yêu khuyến khích lẫn nhau tận tâm trau giồi Phật pháp như Thầy Tổ đã chỉ dạy.
PHẬT PHÁP
Phật pháp cứu người khỏi kiếp mê,
Đưa người về đến cõi Liên Huê.
Vài lời xin nhắn người trong nước,
Phật pháp chung lo tiến mọi bề.
Người đời càng say mê trong giấc mộng trần gian danh lợi dục tình, thì tiếng chuông trong Phật pháp càng cần phải ra tay đánh mạnh không ngừng, để làm cho họ có cơ tỉnh thức. Tôi thiết tưởng như vậy. Tôi xin khuyên anh chị em tín hữu rán thương yêu khuyến khích lẫn nhau tận tâm trau giồi Phật pháp như Thầy Tổ đã chỉ dạy.
Phật pháp chẳng những giải thoát các cảnh đau khổ ngu mê của con người đang sống ở hiện tại, mà là còn giải thoát các cảnh đày đọa luân hồi của con người ngay sau khi thác đi. Vì thế cho nên, anh chị em phải rán nhứt tâm trên đường Phật pháp, rán cố gắng rèn luyện thân tâm y như lời Phật pháp.
Đã hiểu Phật pháp thì anh chị em rán tu hành cho được chí chơn, chí thiện, hữu đức, hữu nhân, dù rằng có gặp nhiều thử thách khó khăn và mất nhiều công phu luyện tập hằng ngày. Tất cả những tâm tư ngôn hạnh, anh chị em nên căn cứ theo nền Phật pháp và lấy tư tưởng từ, bi, hỷ, xả đại đồng của Phật pháp, để hòa mình với các tầng lớp dân gian, hầu có phương tiện giúp họ sống an vui được biết tu niệm hiền lành sáng suốt.
Anh chị em nhớ mồi đuốc Phật pháp cho nhau để cùng soi sáng cái xã hội loài người đang đầy đen tối uỷ mỵ, chỉ biết sống lối giành giựt lấn áp bằng mọi thủ đọan gian ác bất nhân, không hề biết xót thương người khác và cũng không hề nghĩ đến cái quả báo ở ngày mai. Đời càng gian ác quỉ huyệt xấu xa bao nhiêu, thì càng thấy Phật Pháp từ bi chơn chánh tốt đẹp bấy nhiêu. Và càng thấy Phật pháp cần phải đề cao trong lúc xã hội đời hoang mang hỗn loạn nguy nghèo. Phật Pháp có sức làm lắng dịu lòng con người, đưa con người vào cảnh sống có tình thương yêu rộng lớn, có đạo nghĩa chơn thành và có hòa bình hạnh phúc.
Con người càng hiểu sâu Phật pháp càng rộng tình yêu thương tha thứ giúp đỡ cho kẻ khác như mình. Do đó sẽ không bao giờ vì lợi mình mà nỡ hại người, hoặc vì sự dục vọng cá nhân mà đi làm những điều tội ác. Cái tinh thần đại đồng giác ngộ của Phật pháp bao giờ cũng tự độ độ tha, tự giác giác tha, rất cao quí vô cùng, không thể nói sao cho cạn, ví dù có bút như rừng mực như biển cũng không tài nào viết ra cho hết được sự lợi ích cao siêu của Phật pháp.
Tình thương yêu cứu độ rộng lớn của Phật pháp trên hơn tất cả tình thương yêu nhỏ hẹp tầm thường của thế gian. Tình Phật pháp thương yêu mà không bị lụy, cứu độ mà không bị ngã, cho nên khối tình ấy, tình đời không thể nào đem so sánh kịp, vậy anh chị em đồng đạo rán lo tu luyện cho thân tâm của chính mình được có khối tình thương yêu cứu độ của Phật pháp, và hãy cố gắng đem nó thực hiện trong khắp nhân gian, bất luận sắc màu giai cấp.
Anh chị em đồng đạo thân mến, người đã tín ngưỡng Phật pháp thì thà chịu chết chớ không chịu làm những gì trái với Phật pháp. Chỉ có thể vì Phật Pháp mà dám hy sinh, dám chịu lao khổ và dám nói dám làm những việc công ích công minh cho người đời, dù trong muôn ngàn nguy hiểm khó khăn. Tôi hy vọng tất cả anh chị em đồng đạo đều được giữ chắc lòng tín ngưỡng như vậy.
Và anh chị em hãy luôn luôn khát khao quí mến tấm lòng tín ngưỡng ấy ở nơi mình và ở nơi mọi người. Đồng thời anh chị em rán cố gắng đem thể hiện tấm lòng tín ngưỡng Phật pháp ấy một cách chơn chánh quảng đại, cụ túc, viên mãn. Anh chị em đừng bao giờ để cho lòng tín ngưỡng Phật pháp nơi mình bị lãng quên, hoặc bị mất dần đi theo thời gian và theo kiếp sống chìm nổi vô thường.
Vắn tắt có mấy lời, tôi thành tâm cầu xin chư vị Phật Thần hộ độ tất cả anh chị em đồng đạo ở gần xa và Bà Mười ở quê nhà đều được vạn sự an lành sáng suốt.
THANH SĨ
P.B.: Đại tá Trần Kiều sang: Tokyo đã gặp tôi. Tôi có đưa cho y hợp sâm Cao Ly nhờ mang hộ về cho Bà Mười. Vậy Bà Mười có nhận được chưa? Còn mấy kỳ bánh trái đã gởi trong khoảng vừa qua rồi đó ở bên nầy tôi đã nhận được hết. Tôi đã có gởi thơ về cho Ân để báo tin ấy rồi. Tôi thành thật cám ơn tất cả anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà nhiều lắm.
Lá thư số 263: Tokyo, ngày 27-7-1969
Lá thư số 263: Tokyo, ngày 27-7-1969
Tokyo, ngày 27-7-1969,
Diệu Kim thân mến,
Tôi đã nhận được thơ của Diệu Kim. Cám ơn Diệu Kim đã có lòng chịu khó viết thơ cầu chúc tôi sang năm mới được thân tâm an lạc ở chốn tha phương. Hiện thời bên nầy còn mùa lạnh, trong lúc tôi đang viết thơ cho Diệu Kim đấy, thì ngoài trời tuyết đang rơi dầy đặc trắng lớp cả thành phố Đông Kinh. Có nhiều nơi xe điện xe hơi không thể chạy được phải ngừng hẳn lại cho đến khi tuyết rơi nhẹ ít đi.
Tôi đã nhận được thơ của Diệu Kim. Cám ơn Diệu Kim đã có lòng chịu khó viết thơ cầu chúc tôi sang năm mới được thân tâm an lạc ở chốn tha phương. Hiện thời bên nầy còn mùa lạnh, trong lúc tôi đang viết thơ cho Diệu Kim đấy, thì ngoài trời tuyết đang rơi dầy đặc trắng lớp cả thành phố Đông Kinh. Có nhiều nơi xe điện xe hơi không thể chạy được phải ngừng hẳn lại cho đến khi tuyết rơi nhẹ ít đi.
Ngoài trời lạnh lắm. Tuy vậy cơ thể tôi vẫn mạnh khỏe như thường, Diệu Kim ơi! Đời là biển khổ sông mê. Kẻ đã sanh ở trong đời hầu hết là vì đã tạo các nghiệp mê khổ. Nếu người nào muốn cho từ đây về sau được ra khỏi biển khổ sông mê thì tự mình trước nhứt phải diệt trừ các nghiệp mê khổ cho sạch tận căn không để sót lại. Vậy Diệu Kim, cả gia đình dầu gặp hoàn cảnh trái ngược, đời sống khó khăn cũng rán nhứt tâm tưởng Phật, cố gắng tu hành lương thiện và kiên nhẫn diệt trừ các nghiệp mê khổ nơi thân tâm đang sống động trong xã hội đời hiện hữu.
Hãy tin mạnh nơi lòng hướng thiện, mộ đạo chơn thành của mình có sức nhiệm mầu của Phật Thần âm thầm chứng minh hộ độ mà lúc nào cũng nên tự giác, tự tỉnh và bền lòng vui vẻ tu thân hành đạo cho được trọn lành trọn sáng, không nên vì tình cảm cá nhân, vì sự sống tầm thường hoặc vì cảnh đời éo le ngang trái khổ sở mà sanh ra phiền não tham sân làm lu mờ đạo tâm.
Thấy đời đâu cũng rối trăm bề,
Kia trả nọ vay khổ thảm thê.
Vì khổ nên tu cho hết khổ,
Bởi mê mới tỉnh để tan mê.
Hãy tăng sức nhẫn khi ngang trái,
Rán mạnh đạo tâm lúc não nề.
Nhớ niệm Quan Âm xin cứu độ,
Một lòng theo Phật đến Liên Huê.
Diệu Kim rán tự mình tinh tấn tu hành nhân đức và hướng dẫn cả gia đình chung lo trau giồi đạo hạnh cho đến lúc toại chí nguyện cầu.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Diệu Kim, cả gia đình và tất cả anh chị em tín hữu ở quê nhà đều được vạn an.
THANH SĨ
Lá thư số 264: Tokyo, ngày 27-7-1969
Lá thư số 264: Tokyo, ngày 27-7-1969
Tokyo, ngày 27-7-1969,
Lệ thân mến,
Tất cả bánh trái hôm nọ tôi đã nhận được hết rồi. Tôi thành thật cám ơn Lệ, anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà nhiều lắm.
Tất cả bánh trái hôm nọ tôi đã nhận được hết rồi. Tôi thành thật cám ơn Lệ, anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà nhiều lắm.
Dạo nầy Lệ, cả gia quyến, tất cả anh chị em tín hữu gần xa và Bà Mười có được bình an mạnh giỏi hay không? Riêng tôi ở bên nầy hiện thời vẫn được sức khỏe và vẫn còn đi dạy ở đại học Waseda như thường lệ. Song có phần bận nhiều hơn trước, thành thử có nhiều thơ của anh chị em đã gởi qua lâu rồi mà chính đến hôm nay tôi cũng chưa có thì giờ để biên thơ hồi đáp. Rất mong rằng anh chị em đều được thông cảm đến cho mà không nỡ trách cứ.
Thơ nầy chỉ báo tin thế thôi xin hẹn ở những nơi khác để nói nhiều câu chuyện dài hơn.
Tôi xin chúc cho Lệ, cả gia quyến, tất cả anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà đều được muôn sự an lành.
THANH SĨ
Lá thư số 265: Tokyo, ngày 12-8-1969
Lá thư số 265: Tokyo, ngày 12-8-1969
Tokyo, ngày 12-8-1969,
Diệu Đạt thân mến,
Mấy cái thơ của Diệu Đạt ở bên nầy tôi đã nhận được hết. Nhưng vì có lắm việc phải bận luôn, nên trễ đến hôm nay tôi mới có dịp viết thơ về cho Diệu Đạt được, xin Diệu Đạt niệm thứ cho. Dạo nầy Diệu Đạt, cả gia quyến và tất cả anh chị em tín hữu ở quê nhà có được bình an mạnh giỏi và có được tiến triển sáng suốt tốt trên đường tu hành đạo nghĩa không? Con đường đạo xuyên qua bầu trời đầy khói lửa rất khó tiến.
Mấy cái thơ của Diệu Đạt ở bên nầy tôi đã nhận được hết. Nhưng vì có lắm việc phải bận luôn, nên trễ đến hôm nay tôi mới có dịp viết thơ về cho Diệu Đạt được, xin Diệu Đạt niệm thứ cho. Dạo nầy Diệu Đạt, cả gia quyến và tất cả anh chị em tín hữu ở quê nhà có được bình an mạnh giỏi và có được tiến triển sáng suốt tốt trên đường tu hành đạo nghĩa không? Con đường đạo xuyên qua bầu trời đầy khói lửa rất khó tiến.
Diệu Đạt và anh chị em tín hữu nhớ mặc áo giới răn phải đội nón khăn nhẫn nhục, mang giày dép tinh tấn, cầm gươm gậy trí huệ và ôm bầu nước từ bi với tâm hồn giải thoát để tiến luôn cho tới cảnh giới toàn thiện toàn minh của đạo Phật và được thành đạo như chư Phật. Hãy tự tin tâm lực dẻo dai cứng rắn của mình có thể thực hiện được cái bổn nguyện của mình ở một giờ phút nào đấy. Đồng thời, cũng nên tin mạnh rằng: Cái thiện nguyện thiện niệm của mình nhứt định có sự âm thầm hộ trợ của chư Phật.
Đời nầy tu được độ muôn đời,
Đã biết tu rồi chớ để lơi.
Rán giũa tâm như là giũa ngọc,
Có ngày ánh sáng hiện như soi.
Diệu Đạt cũng như tất cả anh chị em tín hữu ở quê nhà, hãy rán bình định các tà tâm, duy nhứt các chánh hạnh và xúc tích các công đức từ thiện để vun bón gốc đạo cho đạo quả mau khai, viên dung như bổn nguyện.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Diệu Đạt, cả thân quyến và tất cả anh chị em tín hữu ở quê nhà đều được vạn sự an lành và trên đường tu hành có được nhiều phước huệ.
THANH SĨ
Lá thư số 266: Tokyo, ngày 12-8-1969
Lá thư số 266: Tokyo, ngày 12-8-1969
Tokyo, ngày 12-8-1969,
Hoài Ân thân mến,
Báo tin cho Ân được biết: và Trần Thị Hoài Trân đến: Tokyo, đã có trao lại năm gói bánh và cái thơ của Ân cho tôi rồi. Tôi rất cám ơn Ân và anh chị em ở quê nhà đã có lòng tốt chung lo giúp đỡ tôi về việc bánh trái. Hiện thời tôi vẫn được mạnh khỏe và còn đang nghỉ hè. Mọi việc bình thường không có sự thay đổi đáng phải lo ngại. Xin Ân và anh chị em ở quê nhà nên an tâm.
Báo tin cho Ân được biết: và Trần Thị Hoài Trân đến: Tokyo, đã có trao lại năm gói bánh và cái thơ của Ân cho tôi rồi. Tôi rất cám ơn Ân và anh chị em ở quê nhà đã có lòng tốt chung lo giúp đỡ tôi về việc bánh trái. Hiện thời tôi vẫn được mạnh khỏe và còn đang nghỉ hè. Mọi việc bình thường không có sự thay đổi đáng phải lo ngại. Xin Ân và anh chị em ở quê nhà nên an tâm.
Còn Bà Mười bữa nay đã được phục sức hẳn hay chưa? Tôi thành thật cám ơn những anh chị em đã tận tâm chăm sóc thuốc men, gần gũi an ủi Bà Mười trong lúc ốm đau cũng như lúc bình thường. Tâm tình ấy đối với tôi có giá trị cao quí hơn vàng ngọc. Tôi xin hẹn không bao giờ quên, dù ở ngày nay hay ở những ngày mai mốt.
Về phương diện tu hành Ân và anh chị em ở quê nhà lúc nào cũng rán nhớ: "Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý". Dù ai có muốn nói sao và dù thời thế có đổi sao cũng vẫn một mực duy trì và tập rèn thực tiễn như vậy, đó là kẻ chơn tu hành, mới thật là Phật tử và mới có thể đạt đến chỗ chứng đắc đạo quả được. Nhưng nhằm phải lúc kẻ giả dối đông như chợ nhóm, phường ma quỉ nhiều như cỏ gặp mưa, thì người tu muốn được hoàn toàn kẻ chơn tu hành và chơn Phật tử rất khó trăm phần.
Vậy Ân và anh chị em đồng đạo ở quê nhà rán vững mạnh đức tin nơi chơn lý bao giờ cũng tồn tại và cao đẹp hơn hết, mà luôn luôn hăng hái cố chí tu hành một cách chơn chánh sáng suốt.
Vắn tắt có mấy lời tôi xin chúc cho Ân, quý quyến và tất cả anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà đều được vạn an.
THANH SĨ
Lá thư số 267: Tokyo, ngày 13-8-1968
Lá thư số 267: Tokyo, ngày 13-8-1968
Tokyo, ngày 13-8-1968,
Thưa Má,
Con đã được thơ nhà cho biết Má đã bịnh Chúc tháng rồi, mà vẫn còn dây dưa chưa được mạnh hẳn, khiến con rất xốn xang lo lắng, vậy hôm nay bịnh trạng của Má đã được thật khỏi hay chưa? Con xin khuyên Má rán lo thuốc men, rán chịu khó ăn uống tịnh dưỡng và rán dùng tinh thần Phật pháp vô úy vô ngã cứng mạnh để chống chỏi đối trị các thứ bịnh tật, các thứ phiền não trong thân tâm.
Riêng con không ngớt thành tâm cầu xin ơn trên trời Phật thánh thần hộ độ cho Má được khỏi bịnh hoạn, được khỏi tai nạn và được mạnh lành sống lâu, tu hành sáng suốt, có đủ phương tiện nhắc nhở anh chị em lớn nhỏ trong việc đạo đức tu hiền thương yêu lẫn nhau cứu giúp thật sự.
Hiện thời con vẫn được mạnh khỏe và còn đang nghỉ hè và vừa rồi con đã đi viếng hai miền biển và núi chút mười ngày, mới về trước đây độ mấy hôm. Ngoài ra không có sự gì thay đổi đáng lo. Xin Má và anh chị em đồng đạo gần xa ở quê nhà nên an lòng. Chỉ có mấy lời con xin dừng bút. Con cầu xin Phật Thần phò hộ Má được mạnh luôn và xin Má rán nhớ chuyển lời con thăm tất cả anh chị em đồng đạo.
Con của Má
P.B.: Con xin Má chuyển lời con rất cám ơn những anh chị em đã tận tâm lo săn sóc thuốc men cho Má. Và con rất đồng ý việc Má chưa muốn sang Nhựt thăm con trong lúc hỗn độn nầy.
Lá thư số 268: Tokyo, ngày 4-9-1969
Lá thư số 268: Tokyo, ngày 4-9-1969
Tokyo, ngày 4-9-1969,
Gởi Trần Duy Liên
Trần Duy Liên thân mến,
Rán lướt qua bao chướng ngại đời,
Niết Bàn bước tới mới đành ngơi.
Sống tu vô ngã trên đường đạo,
Giải thoát trong tâm hẹn một lời.
Đời trược, tránh mình khỏi trược lây.
Lóng tâm như suối giữa rừng cây.
Nước trong nguyệt hiện tâm trong huệ,
Đạo nhứt tâm tu đắc có ngày.
Trời đâu cũng soi sáng,
Phật đâu cũng hiểu thông.
Người nhứt tâm tu niệm,
Tức có Phật hộ tòng.
Trần Duy Liên thân mến,
Rán lướt qua bao chướng ngại đời,
Niết Bàn bước tới mới đành ngơi.
Sống tu vô ngã trên đường đạo,
Giải thoát trong tâm hẹn một lời.
Đời trược, tránh mình khỏi trược lây.
Lóng tâm như suối giữa rừng cây.
Nước trong nguyệt hiện tâm trong huệ,
Đạo nhứt tâm tu đắc có ngày.
Trời đâu cũng soi sáng,
Phật đâu cũng hiểu thông.
Người nhứt tâm tu niệm,
Tức có Phật hộ tòng.
THANH SĨ
Lá thư số 269: Tokyo, ngày 5-9-1969
Lá thư số 269: Tokyo, ngày 5-9-1969
Tokyo, ngày 5-9-1969,
Thi: Tu Giống Tánh Sen - Gởi Trần Thị Hồng Liên
Trần Thị Hồng Liên thân mến,
Trần Thị Hồng Liên thân mến,
Tôi đã nhận được thơ Hồng Liên lâu rồi, hôm nay mới có dịp hồi âm. Xin cảm ơn Liên đã có lòng viết thơ vấn an sức khỏe của tôi nơi viễn xứ, mà còn cầu nguyện cho tôi sớm được hồi hương. Được biết Liên, tất cả anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà đều được mạnh lành tôi rất yên tâm một phần lớn. Bên nầy hiện thời tôi vẫn được sức khỏe và mọi việc như thường lệ. Xin ở quê nhà nên an tâm lo đoàn kết lẫn nhau, tương trợ mọi phương diện về vật chất cả tinh thần trong công việc tu hành.
Tu Giống Tánh Sen
Người muốn Liên đài được điểm danh,
Lấy sen bắt chước để tu hành,
Bùn đen khó nhuộm màu trinh bạch,
Nước đục khỏi dời chất khiết thanh.
Giữa chốn xấu xa luôn tốt đẹp,
Trong đời nhơ bợn vẫn thơm lành,
Mùi sen giữ vẹn từ kim cổ,
Tôi giống tánh sen đạo quả thành.
Tôi xin chúc cho Hồng Liên, cả gia quyến, anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà được muôn sự an lành.
THANH SĨ
Lá thư số 270: Tokyo, ngày 7-10-1969
Lá thư số 270: Tokyo, ngày 7-10-1969
Tokyo, ngày 7-10-1969,
Lệ thân mến,
Lệ, cả gia đình, bà con thân quyến và anh chị em đồng đạo ở quê nhà trong lúc nầy có được bình an mạnh khỏe không? Độ nầy ở bên nầy tôi vẫn được sức khỏe, nhưng ở Đại học Waseda nghỉ vì bạo động giữa học sinh đến nay còn bị đình chỉ chưa tựu trường được.
Lệ, cả gia đình, bà con thân quyến và anh chị em đồng đạo ở quê nhà trong lúc nầy có được bình an mạnh khỏe không? Độ nầy ở bên nầy tôi vẫn được sức khỏe, nhưng ở Đại học Waseda nghỉ vì bạo động giữa học sinh đến nay còn bị đình chỉ chưa tựu trường được.
Không riêng đại học Wasada mà các trường đại học khác cũng bị đóng cửa như vậy. Tình hình đại học vẫn còn căng thẳng mặc dù giữa Bộ giáo dục quốc gia và các cơ quan giám đốc trường đã và đang cực lực tìm cách giải quyết cho được ổn thỏa mà cũng chưa thấy triệu chứng gì khả quan. Có thể kéo dài đến năm 70 và nó còn quyết liệt hơn nữa, theo đa số các giới đã cảm thấy, đối lại tình hình trong nước (ở bên nhà) chắc hiện giờ cũng chưa thấy có cái gì lấy làm lạc quan đích thực phải không?
Hôm ngày 5 tháng 9 vừa qua, tôi có nhờ Đại tá Trần Kiều mang hộ về cho Lệ quyển Đại từ điển Pháp Nhựt:
Hôm ngày 5 tháng 9 vừa qua, tôi có nhờ Đại tá Trần Kiều mang hộ về cho Lệ quyển Đại từ điển Pháp Nhựt:
Raguel et Martin
Dictionaire Francais Japanais (dầy 1465 trang)
Vậy Lệ đã nhận được chưa?
Vắn tắt có mấy lời, tôi cầu chúc cho Lệ, cả gia đình thân thuộc, tất cả anh chị em tín hữu gần xa và Bà Mười ở quê nhà đều được chư vị Phật Thần hộ độ bình an mạnh lành sáng suốt.
THANH SĨ
Lá thư số 271: Tokyo, ngày 8-10-1969
Lá thư số 271: Tokyo, ngày 8-10-1969
Tokyo, ngày 8-10-1969,
Gởi Thanh Tùng
Thanh Tùng thân mến,
Thanh Tùng thân mến,
Tôi đã nhận được thơ của Thanh Tùng. Cám ơn Thanh Tùng đã có lòng viết thơ thăm tôi. Hiện thời tôi vẫn được mạnh khỏe. Người đời này nếu không có sâu duyên với Phật thì rất khó phát tâm tin tưởng Phật. Thanh Tùng đã biết hướng lòng về Phật, tất là đã có duyên lành với Phật, vậy hãy rán lo tu niệm cho được giải thoát các nghiệp mê khổ hồng trần. Hữu hình tất hữu hoại, từ cổ chí kim vẫn thế, cho nên người đời cần phải giác ngộ điều ấy và rán tu cầu cho đến cõi bất diệt bất sanh đó là người sáng suốt.
Biết rõ đời người chốn tục đê
Sống đời hãy tỉnh chớ nên mê,
Đêm ngày nhớ niệm Di Đà Phật,
Cực Lạc cầu xin được dựa kề.
Thành tâm niệm Phật tất có Phật chứng minh hộ độ! Thanh Tùng lúc nào cũng rán nhứt tâm niệm Phật. Tôi kèm gởi theo tấm ảnh của tôi thân tặng Thanh Tùng để làm kỷ niệm.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Thanh Tùng, cả quý quyến và anh chị em tín hữu ở quê nhà đều được vạn an.
THANH SĨ
Lá thư số 272: Tokyo, ngày 11-10-1969
Lá thư số 272: Tokyo, ngày 11-10-1969
Tokyo, ngày 11-10-1969,
Niệm Phật Làm Lành
Rán Niệm Phật Làm Lành
Trong khi Niệm Phật ngồi thiền,
Chỉ là niệm Phật chớ xen niệm trần.
Muốn được Phật hóa thân đến rước,
Phải nhứt tâm niệm Phật chí thành,
Giữ lòng niệm Phật cho thanh,
Tất nhiên được Phật rước lên sen vàng.
Thấy nhiều kẻ muốn sang Cực Lạc,
Mà lòng như bụi rác cống mương,
Thế là dầu Phật có thương,
Cũng không thể hiện bên giường rước đi.
Làm tội ác trong khi chưa biết,
Khi biết rồi cương quyết tránh xa,
Một lời niệm Phật phát ra,
Đủ làm sức cảm Di Đà tiếp linh.
Phật độ kẻ hữu tình với Phật,
Chớ Phật không thể rước con ma,
Cho nên khi niệm Phật Đà,
Phải lòng như Phật để mà niệm lên.
Muốn niệm Phật mau nên hiệu quả,
Hãy niệm như vú mẹ con thơ,
Mẹ không quên vú con chờ,
Con thèm sữa mẹ hằng giờ nhớ luôn.
Cửu Phẩm muốn đặt chân tới chỗ,
Chín tầng sen muốn có điểm danh,
Phải nên niệm Phật làm lành,
Lòng thành càng mạnh càng thành tựu mau.
Từ nơi xứ anh đào vạn dặm,
Vài vần thơ xin nhắn quê hương,
Người nào muốn đáo Tây Phương,
Phải vừa niệm Phật phải lương thiện lòng.
Rán Niệm Phật Làm Lành
Trong khi Niệm Phật ngồi thiền,
Chỉ là niệm Phật chớ xen niệm trần.
Muốn được Phật hóa thân đến rước,
Phải nhứt tâm niệm Phật chí thành,
Giữ lòng niệm Phật cho thanh,
Tất nhiên được Phật rước lên sen vàng.
Thấy nhiều kẻ muốn sang Cực Lạc,
Mà lòng như bụi rác cống mương,
Thế là dầu Phật có thương,
Cũng không thể hiện bên giường rước đi.
Làm tội ác trong khi chưa biết,
Khi biết rồi cương quyết tránh xa,
Một lời niệm Phật phát ra,
Đủ làm sức cảm Di Đà tiếp linh.
Phật độ kẻ hữu tình với Phật,
Chớ Phật không thể rước con ma,
Cho nên khi niệm Phật Đà,
Phải lòng như Phật để mà niệm lên.
Muốn niệm Phật mau nên hiệu quả,
Hãy niệm như vú mẹ con thơ,
Mẹ không quên vú con chờ,
Con thèm sữa mẹ hằng giờ nhớ luôn.
Cửu Phẩm muốn đặt chân tới chỗ,
Chín tầng sen muốn có điểm danh,
Phải nên niệm Phật làm lành,
Lòng thành càng mạnh càng thành tựu mau.
Từ nơi xứ anh đào vạn dặm,
Vài vần thơ xin nhắn quê hương,
Người nào muốn đáo Tây Phương,
Phải vừa niệm Phật phải lương thiện lòng.
THANH SĨ
Lá thư số 273: Tokyo, ngày 20-10-1969
Lá thư số 273: Tokyo, ngày 20-10-1969
Tokyo, ngày 20-10-1969,
Gởi Lê Cảnh Nho
Lê Cảnh Nho thân mến,
Lê Cảnh Nho thân mến,
Đạo thịnh thì đời bớt nạn tai,
Rán làm đạo thịnh giữa đời nay.
Sống cùng ý niệm chia vui khổ,
Thác một quyết tâm giải đọa đày.
Cuộc thế lạc nhàn chung sức tạo
Linh hồn siêu rỗi hiệp tâm khai
Phải lo hòa ái trong nhân loại
Ấy đạo từ bi nguyện mỗi ngày.
Tôi đã nhận được hai cây bút và những món quà khác của anh chị em do cô Đẹp chuyển giao hộ. Tôi xin cám ơn Nho và anh chị em nhiều lắm. Vì tôi mãi bận nên báo tin chậm trễ. Xin Nho và anh chị em thứ lỗi cho. Tất cả những điều của Nho muốn biết sớm, tôi mong rằng do đạo hạnh và do thành tâm của Nho mà có một ngày giờ nào Nho sẽ biết được bằng tự lực, hoặc bằng tha lực. Nho rán nuôi đức tin, hy vọng ấy, rán tinh tấn tu hành tịnh niệm.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Nho, cả gia quyến và tất cả anh chị em tín hữu ở quê nhà đều được bình an mạnh lành tu hành sáng suốt.
THANH SĨ
Lá thư số 274: Tokyo, ngày 22-10-1969
Lá thư số 274: Tokyo, ngày 22-10-1969
Tokyo, ngày 22-10-1969,
Gởi Võ Thị Tỏ
Võ Thị Tỏ thân mến,
Võ Thị Tỏ thân mến,
Tôi đã nhận được thơ Tỏ. Xin cám ơn Tỏ đã có lòng viết thơ vấn an sức khỏe của tôi nơi xa ngàn vạn dặm và cầu nguyện cho tôi sớm tròn bổn nguyện và cũng sớm được hồi hương. Thấy nói Tỏ, anh chị em đồng đạo và Bà Mười vẫn được mạnh lành, tôi rất yên tâm một phần lớn. Độ nầy tôi vẫn được sức khỏe và công việc vẫn như thường lệ. Ở quê nhà nên an tâm và rán nỗ lực cùng nhau lo triển khai nền đạo nghĩa.
Tỏ! Thuyền đạo đã và đang xông pha trên dòng đời xuôi ngược, hẳn không sao tránh khỏi những luồng gió tục, hoặc những lượng sóng ma. Nếu Tỏ thấy khi mây trần quá bao phủ, thì cần phải thận trọng hơn để lèo lái cho thật vững vàng trực chỉ tiến qua, cho đến bờ giác nhé! Chớ hãi hùng, khi thấy lòng xao xuyến, nhớ thường niệm: "Nam Mô Định Tam Vương Bồ tát Ma Ha Tát" để vững tâm. Đừng thối chí, khi thuyền gặp phải lúc sóng trần nhồi nhận lắm khi thuyền bị lảo đảo chông chênh, có thể khiến cho thuyền quay đổi hướng phương. Tỏ liền tập trung tinh thần lại niệm câu: "Nam Mô Thường Tinh Tấn Bồ Tát Ma Ha Tát" để lướt qua tiến tới bến bờ giác ngạn.
Tôi ước mong Tỏ, anh chị em đồng đạo ở quê nhà đồng tâm cố gắng tập trung hết trí lực của mình lo công phu giồi mài trau luyện một cách tích cực dẻo dai sớm muộn gì cũng sẽ đạt nguyện.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc Tỏ, anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà đều được vạn an.
THANH SĨ
Lá thư số 275: Tokyo, ngày 24-10-1969
Lá thư số 275: Tokyo, ngày 24-10-1969
Tokyo, ngày 24-10-1969,
Bảy thân mến,
Sống đường chánh đạo một niềm tin,
Thác chín phẩm sen nguyện gởi mình,
Hiện kiếp khổ bao vui trả sạch,
Hồng trần quyết chẳng lụy chơn linh.
Bảy! Tôi vì quá bận rộn việc luôn, nên thơ hồi âm cho Bảy (cũng như những anh chị em khác) rất chậm trễ, xin Bảy cũng như anh chị em khác, vui lòng thứ lỗi cho tôi, tôi khôn xiết cám ơn. Bảy ơi!
Sống đường chánh đạo một niềm tin,
Thác chín phẩm sen nguyện gởi mình,
Hiện kiếp khổ bao vui trả sạch,
Hồng trần quyết chẳng lụy chơn linh.
Bảy! Tôi vì quá bận rộn việc luôn, nên thơ hồi âm cho Bảy (cũng như những anh chị em khác) rất chậm trễ, xin Bảy cũng như anh chị em khác, vui lòng thứ lỗi cho tôi, tôi khôn xiết cám ơn. Bảy ơi!
Lòng mình thấy Phật như soi,
Muốn siêu muốn đọa tự nơi lòng mình.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Bảy, cả gia quyến, tất cả anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà đều được phước huệ viên khai.
THANH SĨ
Lá thư số 276: Tokyo, ngày 27-10-1969
Lá thư số 276: Tokyo, ngày 27-10-1969
Tokyo, ngày 27-10-1969,
Gởi Phạm Thị Hảo
Phạm Thị Hảo thân mến,
Phạm Thị Hảo thân mến,
Tôi đã nhận được thơ của Hảo. Xin thành thật cám ơn Hảo đã có lòng chịu khó viết thơ thăm tôi nơi xứ lạ. Theo câu chuyện của Hảo đã hỏi, tôi xin có ý kiến là: Những sự đau khổ trong đời sống không riêng một mình Hảo đâu, mà là tất cả người nào sanh ra giữa cõi trần nầy cũng đều chịu những cảnh đau khổ, hoặc khổ thân, hoặc khổ tâm, không nhiều thì ít, chớ không ai khỏi. Hảo hãy nhìn rộng ra chỗ nọ chỗ kia thấy còn có những người sống đau khổ cực nhọc, rày đây mai đó, chịu lắm cảnh mình trần thân trải, bầm dập biết bao nhiêu lần hơn Hảo nữa. Hảo nên lấy đó làm sự an ủi và lo tu tâm niệm Phật để giải kiếp mê muội thống khổ hồng trần.
Hảo nên nhớ rằng:
Sanh trong trần bởi nghiệp tiền thân,
Trần vốn là nơi trả nợ trần,
Nghiệp trước tạo nhiều điều khổ thảm,
Nợ nay vay lắm, lắm trầm luân.
Quả lành muốn được gieo nhân thiện,
Kiếp tịnh mong nên hướng Phật Thần,
Thân giả khổ vui đời cũng giả,
Rán tu thân giả đổi thân chơn.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Hảo, cả bà con thân quyến và tất cả anh chị em thiện tín lớn nhỏ gần xa ở quê nhà đều được bình an mạnh lành và tu hành sanh sống được có nhiều phước huệ.
THANH SĨ
Lá thư số 277: Tokyo 30-10-1969
Lá thư số 277: Tokyo 30-10-1969
Tokyo 30-10-1969,
Đỗ Ngọc Bền thân mến,
Tôi đã nhận được thơ của Bền. Tôi rất cám ơn Bền đã có lòng chịu khó viết thơ thăm tôi nơi viễn xứ. Được biết Bền có lòng tín ngưỡng và cảm động trước tiếng chuông thiêng, tôi rất hoan hỷ và hy vọng Bền cố gắng nuôi mầm đạo pháp và ngòi nhân thiện trong thâm tâm cho mỗi ngày một lớn mạnh, đến hạn kỳ hoa Bồ Đề nảy nở tươi sáng thơm tho. Đồng thời, Bền cũng nên có tấm lòng biết thương người như thương mình, biết giúp người như mình và tự giác biết phục thiện để vận chuyển thâm tâm của mình đạt đến mức độ toàn thiện toàn minh, có đủ năng lực và tự tin trên đường sống động tốt lành ở hiện hữu và siêu thoát ở tương lai.
Tôi đã nhận được thơ của Bền. Tôi rất cám ơn Bền đã có lòng chịu khó viết thơ thăm tôi nơi viễn xứ. Được biết Bền có lòng tín ngưỡng và cảm động trước tiếng chuông thiêng, tôi rất hoan hỷ và hy vọng Bền cố gắng nuôi mầm đạo pháp và ngòi nhân thiện trong thâm tâm cho mỗi ngày một lớn mạnh, đến hạn kỳ hoa Bồ Đề nảy nở tươi sáng thơm tho. Đồng thời, Bền cũng nên có tấm lòng biết thương người như thương mình, biết giúp người như mình và tự giác biết phục thiện để vận chuyển thâm tâm của mình đạt đến mức độ toàn thiện toàn minh, có đủ năng lực và tự tin trên đường sống động tốt lành ở hiện hữu và siêu thoát ở tương lai.
Còn tuồng đời, thì đâu sẽ có đấy, nịnh tặc thì có trung thần trừ, bạo chúa thì có minh quân trị, tu lối ma quỉ thì có ma quỉ chờ, tu đường Tiên Phật thì có Phật Tiên đón, ớt thì cay, mía thì ngọt, làm lành gặp lành, làm dữ gặp dữ, từ cổ chí kim, sổ thưởng phạt không lầm, và luật nhân quả chẳng sai. Những điều nầy sử sách đã từng ghi rõ, hãy nên tin chắc và hãy nên thận trọng ở các việc suy tư tác động của cá nhân hay của cộng đồng, để tránh những việc lỗi lầm tội khổ riêng hoặc chung rất đáng tiếc và rất khó chuộc cho đời mình ở ngày nay và ngày mai.
Còn việc nước thì tôi tin rằng Việt Nam vẫn trường cửu, dân tộc vẫn tồn tại, chỉ có cá nhân con người hại nước hại dân, thì phải bị trừng phạt tiêu tan theo định luật đào thải thiên nhiên, không tài nào trốn thoát. Cho nên tôi rất khát khao đồng bào cả nước nên cùng nhau giác ngộ và tự tin rằng:
Đồng bào cùng một bọc sinh ra,
Dù Bắc hay Nam vẫn ruột rà,
Cần phải thương nhau trên tất cả,
Mau đem hòa thống cả sơn hà.
Còn việc đạo thì tôi hy vọng những kẻ tu hành nên phát tâm từ bi hỷ xả đại đồng và tăng cường đức tánh bi, trí, dũng như sau:
Thời loạn khó tu cũng rán hành,
Hành cho đời trược hóa ra thanh,
Quyết tu đời thạnh và siêu đạo, (1)
Cực Lạc cùng nhau được đạt thành.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Bền, cả thân quyến, tất cả anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà đều được vạn sự phước tường đạo tâm viên khai.
THANH SĨ
(1) Có bản ghi: “Quyết tu thạnh thế và siêu đạo”,
Lá thư số 278: Tokyo, ngày 4-11-1969
Lá thư số 278: Tokyo, ngày 4-11-1969
Tokyo, ngày 4-11-1969,
Gởi Huỳnh Trung Tín
Huỳnh Trung Tín thân mến,
Huỳnh Trung Tín thân mến,
Tôi đã nhận được thơ của Tín, tôi rất thông cảm với Tín đã có lòng viết thơ thăm hỏi sức khỏe của tôi và kể chuyện nhà cho tôi được biết. Hiện thời tôi vẫn được khỏe mạnh và vẫn còn đi dạy ở trường đại học Waseda, mặc dù kỳ tựu trường năm nay vì bạo động giữa khối học sinh toàn quốc mà phải bị chậm trễ, thay vì ngày 13-9-1969 mà phải bị kéo dài đến 27-10-1969. Ngoài ra, không có sự thay đổi đáng lo. Xin Tín và anh chị em đồng đạo ở quê nhà nên an lòng và rán lo đạo đức nhứt tâm, đoàn kết nhứt trí và tu giúp người như thể giúp ta đầy thiện duyên, và luôn luôn tin tưởng rằng: “Từ nhân vô ác báo, Phật lộ tức đáo niết bàn”. Vậy hãy cố gắng tu luyện thân tâm cho được hoàn thành là một tín đồ chơn tu toàn giác, toàn thiện và mối nhiệm mầu của chư Phật vốn có từ trong lòng của chúng sanh, Tín và anh chị em đồng đạo rán sớm chiều tự tâm soi đục, tìm kiếm cho được thật chứng.
Tín và đồng đạo giữ tim son,
Hành đạo cho tâm được sáng tròn,
Ngoại cảnh thấy rành như kiếng rọi,
Nội tình nghe rõ tợ chuông bon.
Trói trăn thế sự tan như bọt,
Buông chấp ngã nhân sạch tợ mòn,
Chỉ một hướng đi đường phước huệ,
Đưa mình với kẻ đến Linh Sơn.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Tín, tất cả thân bằng quyến thuộc, anh chị em đồng đạo và Bà Mười đều được vạn sự khương an, tu hành trọn lành trọn sáng.
THANH SĨ
Lá thư số 279: Tokyo, ngày 12-11-1969
Lá thư số 279: Tokyo, ngày 12-11-1969
Tokyo, ngày 12-11-1969,
Thưa Má,
Mấy cái thơ vừa rồi ở bên nầy con đã nhận được hết. Thấy nói trong lúc nầy Má vẫn mạnh khỏe và anh chị em đồng đạo gần xa được bình yên, khiến con thấy lòng nhẹ lo một phần nào. Nhưng, Con xin Má lúc nào cũng nên lưu tâm đến sự giữ gìn cơ thể cho có sức khỏe trong mật độ bình thường. Đó là điều giúp con được an lòng hơn hết. Xin Má lấy lòng đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả tha lỗi cho con đã không hầu hạ Má mà còn yêu cầu Má cố gắng quá nhiều ở thân sống cũng như ở tâm tư từ trước đến nay.
Mấy cái thơ vừa rồi ở bên nầy con đã nhận được hết. Thấy nói trong lúc nầy Má vẫn mạnh khỏe và anh chị em đồng đạo gần xa được bình yên, khiến con thấy lòng nhẹ lo một phần nào. Nhưng, Con xin Má lúc nào cũng nên lưu tâm đến sự giữ gìn cơ thể cho có sức khỏe trong mật độ bình thường. Đó là điều giúp con được an lòng hơn hết. Xin Má lấy lòng đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả tha lỗi cho con đã không hầu hạ Má mà còn yêu cầu Má cố gắng quá nhiều ở thân sống cũng như ở tâm tư từ trước đến nay.
Riêng con ở bên nầy, hiện thời vẫn được khỏe mạnh và vừa mới đi dạy học trở lại hôm 27-10-1969 thay vì ngày tựu trường 13-9-1969 (Lý do vì sự bạo động giữa học sinh nên bị trễ). Ngoài ra mọi việc vẫn như thường lệ, không có sự gì đáng lo ngại. Xin Má và anh chị em nên an tâm lo việc tu hành, phụng sự nhân sanh đạo nghĩa, đúng với đạo chánh và tâm từ của Thầy Tổ đã ghi biên giáo hóa một cách tận tường.
Con xin Má tùy phương tiện mà để lời khuyến khích anh chị em đồng đạo hãy tinh tấn trong niềm tin tưởng rằng: Sống theo đạo chánh là thanh, sống theo đạo tà là trược, tu theo đạo chánh là tốt lành siêu thoát, tu theo đạo tà là tội ác xấu xa, thân sống chẳng được người kính yêu và hồn linh sẽ bị trầm luân sa đọa, anh chị em đồng đạo rán cố gắng hết tâm lực của mình để tiến lên cho được thanh được thoát. Và anh chị em đồng đạo giữa nhau nên nghĩ rằng:
Một đường đạo đức một đồng bào,
Sống vẫn có nhau thác có nhau,
Xã hội cùng chung tình cứu trợ,
Tu hành đồng một nghĩa thâm giao.
Trí hòa trí giải trừ mê loạn,
Tình góp tình chia sớt khổ đau.
Đạo biết chung siêu đời biết phúc,
Tâm hồn ấy đáng được truyền rao.
Những lời khuyên trên đây, Má nên phương tiện chuyển đạt cho tất cả anh chị em đồng đạo xa gần đều được đọc thấy. Nếu được anh chị em đồng đạo nhứt tâm hăng hái, tin tưởng tăng tiến trên đường đạo chánh và tâm từ một cách chí chơn chí đại thì ở trong đời sống không có sự hạnh phúc nào bằng và khi thác đi chẳng có sự siêu thoát nào hơn được.
Vắn tắt có mấy lời, con xin thành tâm cầu nguyện ơn trên chư vị Phật Thần ngày đêm hộ trì cho Má được mạnh khỏe và sáng suốt luôn luôn. Xin Má chuyển trao lời con kính thăm và cầu chúc tất cả anh chị em đồng đạo gần xa ở quê nhà đều được bình an mạnh lành và tu hành đạo nghĩa được tốt lành như ý nguyện.
Con của Má
Lá thư số 280: Tokyo, ngày 22-11-1969
Lá thư số 280: Tokyo, ngày 22-11-1969
Tokyo, ngày 22-11-1969,
Nho thân mến,
Liên tiếp hai bức thơ của Nho đề ngày 13-11-69 và 18-11-69 gồm có số cúp bông, tôi đã nhận được hết. Tôi cám ơn sự thành tâm hảo ý của Nho, của Ngọc Thúy, của Duy Liên và của bà Liên về sự giúp đỡ cho tôi trong lúc tôi cần đến nhiều cò để gởi thơ nhiều chỗ. Ở bên nầy, hiện thời đã sắp bước vào mùa đông. Trời đông tuyết sẽ rơi và mỗi ngày lạnh dưới không độ.
Liên tiếp hai bức thơ của Nho đề ngày 13-11-69 và 18-11-69 gồm có số cúp bông, tôi đã nhận được hết. Tôi cám ơn sự thành tâm hảo ý của Nho, của Ngọc Thúy, của Duy Liên và của bà Liên về sự giúp đỡ cho tôi trong lúc tôi cần đến nhiều cò để gởi thơ nhiều chỗ. Ở bên nầy, hiện thời đã sắp bước vào mùa đông. Trời đông tuyết sẽ rơi và mỗi ngày lạnh dưới không độ.
Suốt mười mấy năm qua, tôi vẫn phải chịu lạnh như vậy, mặc dù thân người tôi ốm yếu. Tuy nhiên, tôi vẫn được mạnh khỏe như thường. Xin Nho và anh chị em tín hữu ở quê nhà nên an tâm và lo cố gắng làm tròn phận sự đời đạo.
Phật độ đời nên đạo mở ra,
Dạy siêu Cực Lạc phước Ta Bà.
Ngăn đường tội ác khai đường thiện,
Giải phá tâm mê khắp trẻ già.
Phật độ đời nên đạo mở ra,
Dạy siêu Cực Lạc phước Ta Bà.
Ngăn đường tội ác khai đường thiện,
Giải phá tâm mê khắp trẻ già.
Nho ơi! Đạo mở ra là vì độ tử độ sanh, ban vui cứu khổ và giải mê khai ngộ cho tất cả chúng sanh. Cho nên đạo là từ bi hỷ xả dũng cảm hơn hết. Vậy Nho và anh chị em tín hữu nên lãnh hội cái diệu nghĩa chơn thật của đạo như vậy. Để tu hành tưởng niệm thi thiết cho đúng cách, ngõ hầu đạt đến chỗ công viên quả mãn.
Hướng Phật cầu vãng sanh,
Ngó đời phát lòng lành,
Theo tâm hạnh Bồ Tát,
Đạo quả sẽ viên thành.
Vắn tắt có mấy hàng, tôi xin cầu chúc cho Nho, cả gia đình thân quyến, tất cả anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà đều được bình an mạnh giỏi và phước trí đủ đầy.
THANH SĨ
Lá thư số 281: Tokyo, ngày 30-11-1969
Lá thư số 281: Tokyo, ngày 30-11-1969
Gởi Thiện Hỷ
Thiện Hỷ thân mến,
Thiện Hỷ thân mến,
Tôi nhận được thơ của Thiện Hỷ. Tôi rất cám ơn Thiện Hỷ đã có lòng thăm chúc sức khỏe của tôi nơi khách địa. Đọc thơ, tôi cảm thấy Thiện Hỷ chưa được bình định tâm thần viên đốn, cho nên bao sự phiền não thường tình sanh động và gây ra ý nghĩ nọ kia như tỉnh như mê không chủ định. Vậy nơi đây tôi xin có mấy câu kệ thay vì lời hồi đáp mấy điều của Thiện Hỷ đã hỏi trong thơ:
Thành đạo không do luật,
Mà thành đạo do giác,
Xuất gia mê là ma,
Tại gia ngộ là Phật.
Đạo cứu khổ ban vui,
Tu khai huệ lập đức,
Cả muôn ngàn pháp môn,
Chỉ vì câu giải thoát.
Thiện Hỷ hãy tùy theo hoàn cảnh tâm hạnh của mình để tu tiến cho phù hợp, đừng chấp luật cao luật thấp, hoặc tại gia hay xuất gia vì đó chỉ là phụ thuộc mà thôi.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Thiện Hỷ, cả thân quyến và anh chị em tín hữu đều được vạn an.
THANH SĨ
Lá thư số 282: Tokyo, ngày 30-11-1969
Lá thư số 282: Tokyo, ngày 30-11-1969
Tokyo, ngày 30-11-1969,
Gởi Trường, Yến
Trường, Yến thân mến,
Trường, Yến thân mến,
Dạo nầy Trường, Yến, cả gia quyến và anh chị em tín hữu đó đây có được bình an mạnh giỏi không? Hiện thời ở Nhựt đã vào mùa đông, độ lạnh đến mau hơn mọi năm, ở các tỉnh phía Bắc tuyết đã rơi nhiều rồi, nhưng: Tokyo thì chưa có tuyết, song rất lạnh. Tuy nhiên, tôi vẫn được mạnh khỏe và vẫn còn đi dạy ở đại học như thường lệ, chẳng có gì đáng lo. Xin Trường, Yến và anh chị em ở quê nhà nên an lòng và rán tiếp tục tu hành chín chắn, tùy theo tài sức lo làm bổn phận đời đạo cho được xứng đáng tốt lành.
Trường, Yến, nước nhà còn nằm trong chiến tranh, thì người dân vẫn còn khốn khổ và lắm nỗi lo buồn. Nhưng chiến tranh dù kéo dài đến bao lâu cũng có một ngày phải chấm dứt dưới một hình thức nào đó. Nhưng tôi rất hy vọng chiến tranh được chấm dứt trong sự giác ngộ, trong sự hiếu hòa và trong sự thương yêu tha thứ lẫn nhau một cách chân thành giữa đồng bào dân tộc, để cho cảnh chiến tranh độc ác, họa tương sát tương tàn không còn bị đem tái diễn trở lại.
Theo thiện ý của tôi nhận thấy, nếu hầu hết đồng bào các giới đều cùng có được cái tâm niệm:
Nặng tình nòi giống nhẹ tình ta,
Đặt chủ nghĩa sau nghĩa nước nhà,
Tất được hòa bình và thịnh vượng,
Cảnh nồi da chẳng cớ sinh ra.
Trường, Yến, còn nói đến việc đạo thì không bao giờ cùng vì nó quá rộng lớn, cho nên nơi đây tôi cũng chỉ muốn tóm tắt mục đích của đạo là:
Đạo là rộng độ, rộng tình thương,
Dù kẻ ghét ưa vẫn một đường,
Khuyến dữ trở lành mê trở giác,
Cốt làm ai cũng đáo Tây Phương.
Vậy Trường, Yến và anh chị em tín hữu ở quê nhà nên cùng nhau ý thức cái đạo có nghĩa như vậy và rán tùy phương tiện để thực hiện cái nghĩa ấy một cách đại đồng.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Trường, Yến, quý quyến và tất cả anh chị em tín hữu ở đều được mạnh lành sáng suốt.
THANH SĨ
Lá thư số 283: Tokyo, Tết Kỷ Dậu 1969
Lá thư số 283: Tokyo, Tết Kỷ Dậu 1969
Tokyo, Tết Kỷ Dậu 1969,
Gởi Trường, Yến
Trường, Yến thân mến,
Tôi đã nhận được thơ chúc xuân của Trường, Yến. Tôi rất cám ơn sự thành tâm của Trường, Yến nhiều lắm. Ở bên nầy vẫn còn lạnh lắm, nhưng tôi vẫn được mạnh khỏe và vẫn còn đi dạy ở đại học như thường lệ. Ngoài ra không có sự gì thay đổi đáng nói. Xin Trường, Yến và các anh chị em nơi quê nhà nên an tâm và rán tùy phương tiện lo việc tu phước tu huệ, cho đồng đều viên đốn viên khai.
Trường, Yến thân mến,
Tôi đã nhận được thơ chúc xuân của Trường, Yến. Tôi rất cám ơn sự thành tâm của Trường, Yến nhiều lắm. Ở bên nầy vẫn còn lạnh lắm, nhưng tôi vẫn được mạnh khỏe và vẫn còn đi dạy ở đại học như thường lệ. Ngoài ra không có sự gì thay đổi đáng nói. Xin Trường, Yến và các anh chị em nơi quê nhà nên an tâm và rán tùy phương tiện lo việc tu phước tu huệ, cho đồng đều viên đốn viên khai.
Nhân dịp Tân Niên tôi xin cầu chúc cho Trường, Yến, cả gia quyến và anh chị em tín hữu ở quê nhà đều được suốt năm vui tươi lành mạnh và gặp nhiều may mắn.
Chúc xuân giác đến chẳng Xuân mê,
Cho cả trời Nam sáng nhứt tề,
Biến cải ngục trần thành Cực Lạc,
Để tình với cảnh đẹp như huê.
Thanh Sĩ
P.B.:
Chúc xuân lành đến, dữ lui ra,
Để hợp lòng mong của vạn nhà,
Giữa kẻ đồng bào yêu mến lại,
Cho vui dân tộc, đẹp Sơn Hà.
THANH SĨ
Lá thư số 284: Tokyo, ngày 13-12-1969
Lá thư số 284: Tokyo, ngày 13-12-1969
Tokyo, ngày 13-12-1969,
Hường thân mến,
Bức thơ của Hường tôi đã nhận được. Xin cám ơn Hường. Hiện thời Hường và cả gia đình thân quyến có được bình an mạnh khỏe hay không? Và anh chị em tín hữu ở quê nhà có được an lành chăng? Đồng thời giữa anh chị em có thường đến lui thăm viếng khuyến khích việc tu hành đạo nghĩa cho nhau, chia sớt mọi nỗi vui khổ giữa nhau và liên lạc chặt chẽ với nhau không?
Đồng đạo cần nên khích lệ nhau,
Gương lành góp sức lại nêu cao,
Đạo đời tương cứu dầu sanh tử,
Giải khổ đau chung chỗ nhắm vào.
Hường và anh chị em tín hữu rán đề cao tinh thần ấy giữa người đồng đạo và cũng để xứng đáng là người tu hành chánh đạo. Và Hường cũng như hầu hết anh chị em hãy cố gắng tu tiến đúng mức độ đại đồng của đạo do Đức Phật đã chỉ giáo cho chúng sanh từ lâu.
Đạo chung cho thiên hạ,
Đạo chẳng riêng ai cả.
Đạo chỉ làm siêu thăng,
Đạo không xúi sa đọa.
Đạo dùng giác phá mê,
Đạo lấy phước trừ họa,
Đạo thiện hạnh minh tâm,
Đạo tu thành Phật quả.
Bức thơ của Hường tôi đã nhận được. Xin cám ơn Hường. Hiện thời Hường và cả gia đình thân quyến có được bình an mạnh khỏe hay không? Và anh chị em tín hữu ở quê nhà có được an lành chăng? Đồng thời giữa anh chị em có thường đến lui thăm viếng khuyến khích việc tu hành đạo nghĩa cho nhau, chia sớt mọi nỗi vui khổ giữa nhau và liên lạc chặt chẽ với nhau không?
Đồng đạo cần nên khích lệ nhau,
Gương lành góp sức lại nêu cao,
Đạo đời tương cứu dầu sanh tử,
Giải khổ đau chung chỗ nhắm vào.
Hường và anh chị em tín hữu rán đề cao tinh thần ấy giữa người đồng đạo và cũng để xứng đáng là người tu hành chánh đạo. Và Hường cũng như hầu hết anh chị em hãy cố gắng tu tiến đúng mức độ đại đồng của đạo do Đức Phật đã chỉ giáo cho chúng sanh từ lâu.
Đạo chung cho thiên hạ,
Đạo chẳng riêng ai cả.
Đạo chỉ làm siêu thăng,
Đạo không xúi sa đọa.
Đạo dùng giác phá mê,
Đạo lấy phước trừ họa,
Đạo thiện hạnh minh tâm,
Đạo tu thành Phật quả.
Tánh là đạo như vậy. Hường và tất cả anh chị em tín hữu ở nơi quê nhà rán nhứt tâm hành đạo, dù là ở trong hoàn cảnh nào.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Hường, cả gia đình thân quyến và tất cả anh chị em thiện tín gần xa đều được vạn sự an khương và tu hành ngày càng sáng tỏ.
THANH SĨ
Lá thư số 285: Tokyo, ngày 31-12-1969
Lá thư số 285: Tokyo, ngày 31-12-1969
Tokyo, ngày 31-12-1969,
Thưa Má,
Sức khỏe của Má trong lúc nầy có được bình thường không? Và anh chị em đồng đạo xa gần có được an lành chăng? Lúc nào con cũng lưu tâm sức khỏe của Má và sự an lành của anh chị em đồng đạo ở quê nhà. Như thường niên, hiện giờ ở bên nầy đương trong mùa Đông. Kể từ tháng nầy cho đến cuối tháng 3 khí trời lạnh nhứt. Những cái hồ rộng lớn mênh mông cũng bị đông lại thành nước đá. Người ta đi lại trên mặt hồ như đi lại trên mặt đất, người ta đua nhau đi trượt băng (băng là nước đá) ở trên mặt hồ như chạy trên đất liền, và người ta khoét lỗ băng để câu cá ở dưới đáy hồ là sự thường và cũng là sự thích thú của người Nhựt ở mỗi mùa đông.
Sức khỏe của Má trong lúc nầy có được bình thường không? Và anh chị em đồng đạo xa gần có được an lành chăng? Lúc nào con cũng lưu tâm sức khỏe của Má và sự an lành của anh chị em đồng đạo ở quê nhà. Như thường niên, hiện giờ ở bên nầy đương trong mùa Đông. Kể từ tháng nầy cho đến cuối tháng 3 khí trời lạnh nhứt. Những cái hồ rộng lớn mênh mông cũng bị đông lại thành nước đá. Người ta đi lại trên mặt hồ như đi lại trên mặt đất, người ta đua nhau đi trượt băng (băng là nước đá) ở trên mặt hồ như chạy trên đất liền, và người ta khoét lỗ băng để câu cá ở dưới đáy hồ là sự thường và cũng là sự thích thú của người Nhựt ở mỗi mùa đông.
Nói tóm lại là lạnh lắm. Nhưng việc gì rồi cũng quen đi, dù rằng những việc ấy bản thân chưa từng biết đến. Chính vì thế mà cái xác thân ốm yếu nầy đã được lướt qua những cảnh rét lạnh giá tuyết suốt 14 năm rồi và hiện nay cũng vẫn được mạnh khỏe. Xin Má và anh chị em đồng đạo nên an tâm. Đêm nay 31-12-1969 là đêm giao thừa của Tết Nhựt Bổn. Người nào cũng lo ăn Tết có vẻ rộn rịp. Trên bệ cửa nhà nào cũng có treo bùa nêu. Người thì đi về ăn Tết ở thôn quê, người thì đi ăn Tết ở đô thành, Tuy xứ sở có khác nhau, nhưng vẫn đồng lo ăn Tết.
Song le, Tết Nhựt Bổn nhằm giữa mùa đông rét lạnh, không giống Tết Việt Nam trong mùa xuân ấm nóng, cho nên nó không hấp dẫn được những người ở miền nhiệt đới (xứ nóng) đặc biệt là những người Việt Nam đang trú ngụ tại đây dù là lâu hay mau. Tháng tới đây là đến Tết Việt Nam, mặc dầu cái Tết còn nằm trong cảnh chiến tranh, nhưng Tết vẫn là Tết. Và mỗi người dầu muốn dầu không cũng phải lo ăn Tết như thường lệ. Có phải không Má?
Con ngày đêm thường cầu nguyện khát khao sớm có cái Tết trong hoàn cảnh toàn dân cả nước tay bắt mặt mừng, đầm ấm vui tươi thật sự. Nếu cảnh Tết nguyện vọng ấy chưa đến thì con vẫn còn thấy lòng khô héo như cây lá thu đông. Nhưng đây không phải chỉ có riêng con đâu mà còn có rất đông người thật tâm yêu nước, yêu dân và hiếu hòa hiếu nghĩa cũng vẫn thấy lòng khô héo như con vậy và có thể nhiều hơn nữa.
Tình đây với nước với dân,
Gắn liền nhau thể như thân với hồn.
Nước loàn dân khổ đây buồn,
Dân an nước thạnh là nguồn đây vui.
Cầu dân nước sớm thuận xuôi,
Cho thuyền Việt chạy suốt trời Bắc Nam.
Thưa Má, còn về việc tu hành đạo đức bất luận lúc nào con cũng mong mỏi và khuyến khích anh chị em đồng đạo rán cố gắng trau luyện tinh thần như gương bụi được lau ra, như gươm sét được mài ra cực kỳ sáng bén để cho không thẹn trước Phật và không hổ trước người.
Tu nay, tu mai, tu đến cùng,
Tu cho đạt đạo đúng lòng mong,
Độ mình độ kẻ đồng siêu thoát,
Dầu khổ nạn bao cũng một lòng,
Cái nguyện ước của con đối với nước, với dân, đối với sự tu hành trên đường đạo, bao giờ cũng tích cực thiết tha như đã ghi trên đây. Xin Má phương tiện chuyển đạt đến tất cả anh chị em đồng đạo được biết, để cùng nhau cố gắng đến chỗ thành tựu viên dung.
Vắn tắt có mấy lời, con cầu xin trời Phật hộ độ Má được mạnh lành và anh chị em đồng đạo được an hảo.
Con của Má
Lá thư số 286: ĐÔNG KINH, Năm CANH TUẤT 1970
Lá thư số 286: ĐÔNG KINH, Năm CANH TUẤT 1970
ĐÔNG KINH, Năm CANH TUẤT 1970
Mong năm xuôi nước thuận lòng người,
Cho cả đồng bào máu hết rơi,
Xứ xứ tan bao mùi súng đạn,
Nhà nhà khỏi những cảnh tơi bời.
Hòa dân tộc một tình yêu nước,
Bình Bắc Nam chung sống tốt tươi.
Thực nước Việt do người Việt chủ,
Hiện minh nói giống mạnh lành vui.
THANH SĨ
Lá thư số 287: Tokyo, Năm Canh Tuất
Lá thư số 287: Tokyo, Năm Canh Tuất
Tokyo, Năm Canh Tuất,
Gởi Nguyễn Quí Bảo
Nguyễn Quí Bảo thân mến,
Nguyễn Quí Bảo thân mến,
Bước sang năm mới tôi thành tâm cầu chúc ông, cả gia đình thân quyến và bà con lớn nhỏ ở quê nhà đều được suốt năm lành mạnh may mắn vui tươi và sáng suốt. Nhứt định sẽ gặp nhau tại cố quốc Việt Nam.
THANH SĨ
Lá thư số 288: Tokyo, ngày 18-1-1970
Lá thư số 288: Tokyo, ngày 18-1-1970
Tokyo, ngày 18-1-1970,
Trường, Yến, Thiện Hảo
Trường, Yến, Thiện Hảo thân mến,
Trường, Yến, Thiện Hảo thân mến,
Bức thơ đề ngày 24-12-1969 tôi đã nhận được, tôi rất cám ơn Trường, Yến, Thiện Hảo đã có lòng tưởng nhớ đến tôi luôn và đã chịu khó biên thơ thăm hỏi sức khỏe của tôi hiện đang gởi thân trên đất khách. Biết Trường, Yến, Thiện Hảo và anh chị em tín hữu ở quê nhà đều được mạnh lành tôi rất mừng. Phần tôi ở bên nầy vẫn được sức khỏe, vẫn còn đi dạy ở đại học như thường lệ, mặc dù đang giữa mùa đông rét mướt.
Ở: Tokyo hiện thời mỗi buổi sáng lạnh dưới zero 2, 3 độ. Nhưng sáng nay đã lạnh dưới zero 4 độ. Còn ở miền Bắc như là Hokkaido thì sáng nay lạnh dưới zero 26 độ. Nói tóm lại là lạnh lắm. Lạnh đến nỗi các hồ nước trong thành phố: Tokyo đều bị đông cứng thành nước đá. Nhìn trên đường phố thấy người nào cũng đi cóm róm và thở ra hơi ngùn ngụt như vòi nước sôi phun ra.
Hồi đầu tháng giêng nầy ở Nhựt đã ăn Tết. Nhưng Tết nằm trong mùa đông giá tuyết, nhìn đâu cũng thấy đầy những màu khô khan lạnh lẽo, không vui ấm như cảnh Tết bên ta. Nhưng Tết vẫn là Tết, dầu là người giàu nghèo, dầu là người muốn hay không, cũng phải theo người, theo cảnh chung quanh lo ăn Tết như thường lệ. Nhân dịp xuân sắp đến, tôi xin có tám câu thi cầu chúc Việt Nam như sau đây:
Cầu có Xuân lành đến nước ta,
Xuân cho vui vẻ khắp gần xa,
Hòa đồng bào một tình yêu mến,
Bình Bắc Nam chung cảnh thái hòa.
Đạo chánh đời minh toàn xứ xứ,
Đức lành hạnh tốt cả gia gia,
Việt Nam là của người dân Việt,
Nam nữ chung lo thạnh nước nhà.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin cầu chúc cho Trường, Yến, Thiện Hảo và tất cả anh chị em tín hữu ở quê nhà, bước sang năm mới đều được luôn luôn mạnh lành và tu hành sáng suốt, suốt năm như bổn nguyện.
Thanh Sĩ
P.B.: Hôm nay ngày 24-8-1969 rồi, cháu Đẹp đến: Tokyo có gặp tôi và đã trao lại cho tôi hai cây viết Parker, 50 coupon, mứt gừng mứt sen và mười cái bánh. Tôi rất cám ơn anh chị em có lòng hảo tâm đối với tôi.
THANH SĨ
Lá thư số 289: Tokyo, ngày 22-1-1970
Lá thư số 289: Tokyo, ngày 22-1-1970
Tokyo, ngày 22-1-1970,
Diệu Đạt thân mến,
Tôi đã nhận được bức thơ của Diệu Đạt. Tôi rất cám ơn Diệu Đạt vẫn còn nhớ tôi và chịu khó viết thơ thăm chúc sức khỏe của tôi ở nơi viễn xứ. Hiện thời tôi vẫn được mạnh khỏe và vẫn còn đi dạy ở trường đại học Waseda mặc dù đang giữa mùa đông giá tuyết rét lạnh mỗi ngày dưới zero từ 2 đến 3 độ (ở mỗi buổi sáng).
Trên đường đạo hạnh Diệu Đạt nên tùy hoàn cảnh và điều kiện của thân tâm để tiến đồng đều vững mạnh trong mức chánh tâm chánh hạnh và chánh đạo từ bi giác ngộ của Phật của Thầy đã khuyến giáo. Trên đường tu hành gặp nhiều chướng ngại khó khăn là thường sự, hãy cố gắng vượt qua để đạt mục đích cao cả thiêng liêng của lòng mình đã và đang khát khao mong ước thệ nguyện. Vậy tôi xin tóm vào tám câu thi dưới đây để Diệu Đạt và anh chị em tín hữu ở quê nhà đọc đến và hiểu mỗi câu theo ý Phật Đà truyền giáo.
Rán tịnh lòng cho lặng tợ gương,
Lo tu giải thoát kiếp trần dương,
Đời dầu trói buộc đừng dừng bước,
Đạo có gian truân chớ ngán đường.
Đúng hạnh Quan Âm trau mãi mãi,
Như tâm Bồ Tát luyện luôn luôn.
Phật hằng ngày nhớ, lòng theo Phật,
Truyền nối Phật tâm tợ nước nguồn.
Bước sang Xuân Canh Tuất, tôi xin cầu chúc cho Diệu Đạt, cả gia đình thân quyến và tất cả anh chị em tín hữu ở quê nhà đều được mạnh giỏi bình an may mắn sáng suốt suốt năm.
Rán tịnh lòng cho lặng tợ gương,
Lo tu giải thoát kiếp trần dương,
Đời dầu trói buộc đừng dừng bước,
Đạo có gian truân chớ ngán đường.
Đúng hạnh Quan Âm trau mãi mãi,
Như tâm Bồ Tát luyện luôn luôn.
Phật hằng ngày nhớ, lòng theo Phật,
Truyền nối Phật tâm tợ nước nguồn.
Bước sang Xuân Canh Tuất, tôi xin cầu chúc cho Diệu Đạt, cả gia đình thân quyến và tất cả anh chị em tín hữu ở quê nhà đều được mạnh giỏi bình an may mắn sáng suốt suốt năm.
THANH SĨ
Lá thư số 290: Tokyo, ngày 12-1-1970
Lá thư số 290: Tokyo, ngày 12-1-1970
Tokyo, ngày 12-1-1970,
Gởi Lê Cảnh Nho
Lê Cảnh Nho thân mến,
Bước sang năm mới, tôi xin cầu chúc Nho, cả gia đình quyến thuộc và tất cả anh chị em tín hữu ở quê nhà đều được khai hoa Bồ Đề tâm và được suốt năm mạnh lành may mắn.
Mong Xuân Như Ý
Mong Xuân như ý của dân ta,
Xuân nở lòng người tợ nở hoa,
Đạo thạnh đời an vui cả nước,
Đức khai trí hiển sáng muôn nhà.
Hòa tình Nam Bắc chung đầm ấm,
Bình cảnh phú bần hết cách xa,
Nước được tự cường và tự chủ,
Ta không thẹn tiếng một Sơn Hà.
Lê Cảnh Nho thân mến,
Bước sang năm mới, tôi xin cầu chúc Nho, cả gia đình quyến thuộc và tất cả anh chị em tín hữu ở quê nhà đều được khai hoa Bồ Đề tâm và được suốt năm mạnh lành may mắn.
Mong Xuân Như Ý
Mong Xuân như ý của dân ta,
Xuân nở lòng người tợ nở hoa,
Đạo thạnh đời an vui cả nước,
Đức khai trí hiển sáng muôn nhà.
Hòa tình Nam Bắc chung đầm ấm,
Bình cảnh phú bần hết cách xa,
Nước được tự cường và tự chủ,
Ta không thẹn tiếng một Sơn Hà.
THANH SĨ
Lá thư số 291: Tokyo, Xuân Tân Hợi - 1971.
Lá thư số 291: Tokyo, Xuân Tân Hợi - 1971.
Tokyo, Xuân Tân Hợi - 1971.
Đường đạo đường đời được thuận xuôi,
Sống thế cố tu, không nhiễm thế,
Liên Hoa chung cuộc được lên ngồi.
THANH SĨ
Lá thư số 292: Tokyo, ngày 23-2-1970
Lá thư số 292: Tokyo, ngày 23-2-1970
Tokyo, ngày 23-2-1970,
Thưa Má,
Mấy cái thơ ở quê nhà bên nầy con đã nhận được. Nghe nói Má thường bị cảm và bị chảy, con lấy làm lo.
Mấy cái thơ ở quê nhà bên nầy con đã nhận được. Nghe nói Má thường bị cảm và bị chảy, con lấy làm lo.
Hiện thời, cơ thể của Má có được như thường không? Má thường phục thuốc men và nên ăn uống những thứ rau cải có nhiều chất bổ (sinh tố). Và Con khuyên Má luôn luôn lấy tinh thần giác ngộ đạo pháp rất đại hùng, đại lực, đại từ bi để chinh phục các mối phiền não ở trong tâm và để chiến thắng các thứ chướng ngại ở ngoài đời cho thân tâm lúc nào cũng được an lạc như Đức Tự Tại Bồ Tát. Má nên cho lòng như ánh sáng mặt trời, có sức soi tan sương mù khiến cảnh vật được sáng ra, cho người người thấy rõ lối đi và cũng làm cho người người được trở nên ấm áp trong khi lạnh lẽo. Đạo khai ngộ tất cả chúng sanh, tu cứu độ tất cả người đời, ấy là chánh đạo chơn tu đúng nghĩa từ bi giác ngộ đại đồng của Phật giáo. Con khuyên Má nên giữ gìn cơ thể cho được thường mạnh khỏe, để trợ giúp tâm trí cho được luôn sáng suốt, hầu có đủ điều kiện thực hiện chí đạo và sự tu một cách rộng lớn gương mẫu.
Tinh thần của đạo cả,
Là Từ Bi Hỷ xả,
Chịu khổ hạnh hy sinh,
Để chứng thành chánh quả.
Và tám câu thi dưới đây, Con xin Má đem khuyến khích anh chị em đồng đạo cố gắng tu hành cho được đời đạo song phận và cho Phật nhân được trọn nguyền.
Cố gắng tu hành tín hữu ơi!
Tu chưa được đắc chớ nên thôi.
Đạo hành đạo cho tròn tâm đạo,
Đời xử đời cho vẹn nghĩa đời,
Phật hạnh từ bi rèn sớm tối,
Nhân tình ân hậu tập chiều mơi.
Trọn lành trọn sáng lòng luôn luyện,
Nguyền luyện đạo mầu đến tột nơi.
Vắn tắt có mấy lời, con cầu xin chư vị Phật Thần ngày đêm phù hộ cho Má luôn mạnh lành và tu hành cụ túc cả phước đức trí huệ.
Con của Má
Lá thư số 293: Tokyo, ngày 24-2-1970
Lá thư số 293: Tokyo, ngày 24-2-1970
Tokyo, ngày 24-2-1970,
Gởi Lâm Huyền Trang
Lâm Huyền Trang thân mến,
Lâm Huyền Trang thân mến,
Tôi nhận được luôn cả hai bức thơ của Huyền Trang. Xin cám ơn Trang, Trang đã thường viết thơ thăm tôi và cũng không quên cầu nguyện với ơn trên cho tôi được tăng phần sức khỏe để lo phụng sự Phật Pháp ở nơi xứ lạ quê người.
Ở bên nầy tôi vẫn được mạnh khỏe và vẫn đi dạy ở đại học Waseda như thường. Được biết Trang, anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà được mạnh lành tôi rất mừng lắm.
Đúng như lời của Huyền Trang đã nhận thức trong thơ. Thật hành được Đạo Bát Chánh, không những phá tan được mọi khổ não, mà nó còn có công năng chận đứng được con lộ đầu thai. Chư Tổ từ xưa nay được chứng đắc không một vị nào đi ngoài con đường Bát Chánh Đạo. Bởi nó rất vi diệu và siêu vời, khi tỏ ngộ được rồi thì chắc chắn thành đạo Bồ Đề.
Tôi khuyên Huyền Trang và tất cả anh chị em đồng đạo ở quê nhà, muốn thoát khỏi mọi thống khổ trên đời, không có gì hơn là phải cố gắng thật hành cho đúng mức nền Đạo Bát Chánh đừng để sai chạy. Đồng thời cũng đừng quên lo trừ xong mười việc ác và tạo tác thêm mười điều lành, mới vững vàng trên bước đường tu tiến, nó sẽ được bồi bổ thêm cho cơ thành tựu.
Tuy nhiên, muốn sớm thành đạt, phải tập trung tinh thần cao độ để giác ngộ Phật pháp, mới thấy được lý mầu trong câu: "Thiền định đặt làm thể, Trí tuệ đặt làm mạng" mà Đức Thầy đã dạy.
Vắn tắt có mấy lời. Xin chúc Huyền Trang và tất cả đồng đạo cùng Bà Mười được vạn an.
THANH SĨ
Lá thư số 294: Tokyo, ngày 25-3-1970
Lá thư số 294: Tokyo, ngày 25-3-1970
Tokyo, ngày 25-3-1970,
Bá thân mến,
Tôi đã nhận được thơ của Bá cho hay ba của Bá đang lâm trọng bịnh, tôi liền thành tâm cầu xin Đức Phật A Di Đà lấy lòng đại nguyện đại bi độ sanh độ tử cho ba của Bá được toại nguyện tu hành như lòng đã ôm ấp từ lâu. Đường về cõi Phật không có một ai mang xác mà chỉ mang hồn (vì xác tạm hữu, còn hồn thì chơn không). Tôi rất mong ai ai cũng liễu ngộ điều ấy. Nhứt là nên mạnh tin và mạnh hướng về nơi cõi Phật là nơi bất diệt trường tồn, còn cõi đời xưa nay là nơi vô thường tạm giả. Cho nên nếu khi cảm thấy mình sắp phải bỏ xác thì trước hết hãy nên bình tĩnh tâm hồn đừng sợ sệt, Nếu cần muốn nói lại điều gì khuyến hóa thì cứ nói, bằng không thì cứ lặng lẽ nhứt niệm đưa hồn về cõi Phật mà thôi. Nếu được có tinh thần như vậy tất nhiên có Phật hóa thân tiếp dẫn.
Người tu nên nhớ rằng:
Tôi đã nhận được thơ của Bá cho hay ba của Bá đang lâm trọng bịnh, tôi liền thành tâm cầu xin Đức Phật A Di Đà lấy lòng đại nguyện đại bi độ sanh độ tử cho ba của Bá được toại nguyện tu hành như lòng đã ôm ấp từ lâu. Đường về cõi Phật không có một ai mang xác mà chỉ mang hồn (vì xác tạm hữu, còn hồn thì chơn không). Tôi rất mong ai ai cũng liễu ngộ điều ấy. Nhứt là nên mạnh tin và mạnh hướng về nơi cõi Phật là nơi bất diệt trường tồn, còn cõi đời xưa nay là nơi vô thường tạm giả. Cho nên nếu khi cảm thấy mình sắp phải bỏ xác thì trước hết hãy nên bình tĩnh tâm hồn đừng sợ sệt, Nếu cần muốn nói lại điều gì khuyến hóa thì cứ nói, bằng không thì cứ lặng lẽ nhứt niệm đưa hồn về cõi Phật mà thôi. Nếu được có tinh thần như vậy tất nhiên có Phật hóa thân tiếp dẫn.
Người tu nên nhớ rằng:
Tin Phật mới tu, tu hãy tin,
Mạnh tin Phật tức Phật bên mình,
Người tu khá một lòng tin Phật,
Tức Phật độ mình cả tử sinh.
Tôi xin cầu chúc Bá, quý quyến đều được an lành và xin trao hộ lời tôi kính thăm tất cả đồng đạo.
THANH SĨ
Lá thư số 295: Tokyo, ngày 27-3-1970
Lá thư số 295: Tokyo, ngày 27-3-1970
Tokyo, ngày 27-3-1970,
Gởi Trường, Yến
Trường, Yến thân mến,
Trường, Yến thân mến,
Tôi đã nhận được thơ Trường, Yến báo tin cháu Trinh đã chết. Tôi lấy làm đau lòng. Tôi xin chia buồn với gia đình Trường, Yến về cái chết của cháu Trinh. Đồng thời tôi cầu xin Đức Phật Di Đà tiếp rước linh hồn cháu Trinh vãng sanh Cực Lạc. Trường, Yến ơi! Cảnh sanh ly tử biệt giữa người ruột thịt thân yêu là cảnh xót thương đau đớn vô cùng mà đời sống con người dù cho ai cũng phải gặp cảnh nầy, chớ không thể nào tránh khỏi.
Chết cho người đau buồn, hoặc đau buồn cho người chết, khi thì người nọ khóc cho người kia, khi thì người kia khóc cho người nọ, đó là định nghiệp sanh tử thống khổ của nhân gian. Chắc Trường, Yến đã giác ngộ được cảnh nầy. Tôi xin khuyên Trường, Yến, cả gia đình chớ quá buồn cái chết của cháu Trinh, hãy trấn tĩnh tâm trí để tiếp tục hành đạo một cách tinh tấn dũng mãnh cho đạt đến mức giải thoát kiếp giả tạm nầy.
THANH SĨ
Lá thư số 296: Tokyo, ngày 9-4-1970
Lá thư số 296: Tokyo, ngày 9-4-1970
Tokyo, ngày 9-4-1970,
Thưa Má,
Con đã được thơ nhà cho biết độ nầy quí thể của Má vẫn được sức khỏe và anh chị em đồng đạo gần xa vẫn được an lành con thấy lòng nhẹ bớt phần lo âu. Riêng con ở bên nầy hiện thời vẫn được bình thường và còn đang nghỉ lễ cuộc thi khóa cuối năm và sẽ đi dạy trở lại ở trường đại học Waseda vào ngày 27-10-1970. Tuy trong thời gian hai tháng nghỉ lễ, nhưng con cứ phải bận việc, vì thế mà vắng lâu thơ về cho Má, và anh chị em đồng đạo. Con cúi xin Má thứ lỗi và xin anh chị em đồng đạo niệm tình thông cảm đến cho.
Vắng thơ nhưng chẳng vắng lòng nhau,
Đây đó tâm hồn vẫn cảm giao,
Hãy rán đồng tu đồng chánh hạnh,
Ngày kia họp mặt chẳng sai nào.
Về phần Má, rán cố gắng tu tỉnh, Má chớ nên nghĩ mình đã tuổi già, mà hãy nên nghĩ mình tuổi còn trẻ trên đường đạo, cần phải bảo trọng thể chất và tâm thần cho cả hai đều được tráng lực kiện toàn, để tu luyện đạo mầu cho được huệ rộng như sông biển, đức lớn như núi non, có đủ sức tự độ độ tha qua biển khổ. Xin Má vì đại nguyện từ bi và cũng vì tình thương con mà rán cố gắng tu hành tịnh dưỡng.
Và con cũng xin Má nên phương tiện khuyến tấn anh chị em đồng đạo hãy nghĩ đời là đưa đến kết quả giả tạm, còn đạo là đưa đến kết quả chơn thường, mà hãy cùng nhau rán lo tu hành chơn chánh có nhân, có nghĩa, có đức, có ân để cho khỏi phải chịu những khổ quả ác nghiệp trả lại trong đời. Và hãy nhớ rằng:
Muốn gặp Phật hay muốn thoát trần,
Trên đường đạo hạnh chớ dừng chân,
Giống lành ở thế nên trồng rộng,
Mầm ác trong tâm hãy diệt lần,
Tiếng Phật đắng bao nên cố nuốt,
Lời ma ngọt mấy cũng đừng ăn,
Phật là siêu thoát ma là đọa,
Đường Phật nhứt tâm chớ ngại ngần.
Vắn tắt có mấy lời, con xin chư vị Phật Thần hộ trì cho Má thân thể được luôn luôn mạnh khỏe, tâm hồn được luôn luôn sáng suốt để hoàn thành bổn nguyện giải thoát và Đại Giác Đại Bi. Và con xin Má trao lời con kính thăm tất cả anh chị em đồng đạo ở xa gần.
Con của Má
P.B.: Tôi đã nhận được 600 bánh tráng do Ân nhờ hai người quen, ông Tiêu Minh Ký và ông trung tá Chi mang sang cho vào khoảng hạ tuần tháng 3 dương lịch này, tôi đã viết thơ báo tin cho Ân hay rồi.
THANH SĨ
Lá thư số 297: Tokyo, ngày 20-4-1970
Lá thư số 297: Tokyo, ngày 20-4-1970
Tokyo, ngày 20-4-1970,
Diệu Kim thân mến,
Hôm Tết tôi đã có được thiệp chúc Tết của Diệu Kim và cả gia đình. Tôi rất cám ơn cả gia đình Diệu Kim đã có lòng thành đối với tôi trên đường Phật pháp. Dạo nầy cả gia đình Diệu Kim có được bình an mạnh giỏi không? Dù đang sống trong đất nước chiến tranh hỗn loạn, nhưng Diệu Kim, cả gia đình hãy luôn luôn bình tĩnh sáng suốt tin tưởng chắc chắn ngày mai sẽ được sáng lạng bình minh mà đừng bao giờ để cho lòng tín ngưỡng Phật pháp và tâm hạnh tốt lành bị hư mòn sứt mẻ. Có trồng tất có hưởng, hãy mạnh đức tin trên con đường hành thiện tu chơn:
Đời loạn đừng cho loạn tấm lòng
Vững như ngọn núi giữa cuồng phong,
Sống trong ác thế tâm trong Phật,
Nghiệp khổ trần gian tất giải xong.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin cầu chúc Diệu Kim, cả gia đình đều được nhiều may mắn mạnh lành và tu hành có được nhiều phước huệ và xin trao hộ lời tôi kính thăm tất cả anh chị em tín hữu xa gần.
Hôm Tết tôi đã có được thiệp chúc Tết của Diệu Kim và cả gia đình. Tôi rất cám ơn cả gia đình Diệu Kim đã có lòng thành đối với tôi trên đường Phật pháp. Dạo nầy cả gia đình Diệu Kim có được bình an mạnh giỏi không? Dù đang sống trong đất nước chiến tranh hỗn loạn, nhưng Diệu Kim, cả gia đình hãy luôn luôn bình tĩnh sáng suốt tin tưởng chắc chắn ngày mai sẽ được sáng lạng bình minh mà đừng bao giờ để cho lòng tín ngưỡng Phật pháp và tâm hạnh tốt lành bị hư mòn sứt mẻ. Có trồng tất có hưởng, hãy mạnh đức tin trên con đường hành thiện tu chơn:
Đời loạn đừng cho loạn tấm lòng
Vững như ngọn núi giữa cuồng phong,
Sống trong ác thế tâm trong Phật,
Nghiệp khổ trần gian tất giải xong.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin cầu chúc Diệu Kim, cả gia đình đều được nhiều may mắn mạnh lành và tu hành có được nhiều phước huệ và xin trao hộ lời tôi kính thăm tất cả anh chị em tín hữu xa gần.
THANH SĨ
Lá thư số 298: Tokyo, ngày 12-4-1970
Lá thư số 298: Tokyo, ngày 12-4-1970
Tokyo, ngày 12-4-1970,
Gởi Thanh Tùng
Thanh Tùng thân mến,
Thanh Tùng thân mến,
Tôi đã nhận được thơ của Thanh Tùng. Tôi rất cám ơn Thanh Tùng đã có lòng chịu khó viết thơ thăm hỏi sức khỏe của tôi nơi xứ lạ. Đọc thơ tôi rất thông cảm tâm trạng của Thanh Tùng.
Thanh Tùng chớ quá than thân,
Nhiều người còn nặng nghiệp hơn Thanh Tùng.
Nhưng nay dù bị khổ lung,
Mà tu tỉnh được sẽ tung khỏi phàm.
Kiếp mê để mãi sao kham!
Khá theo Phật chuyển tục phàm ra Tiên.
Năm qua để cỏ trong điền,
Năm nay rán có lúa thiên dư xài.
Dù cày ở đất khô chai,
Nhưng người năng tưới có ngày trổ bông.
Giác hay mê cũng tại lòng,
Hãy vừa cầu Phật hãy công phu thường.
Khi mây trần chẳng còn vương,
Thì là ánh Phật Tây phương thấy liền.
THANH SĨ
Lá thư số 299: Tokyo, ngày 14-4-1970
Lá thư số 299: Tokyo, ngày 14-4-1970
Tokyo, ngày 14-4-1970,
Gởi Phạm Thị Hảo
Phạm Thị Hảo thân mến,
Phạm Thị Hảo thân mến,
Thơ Thảo đề ngày 2-2-1970 Tôi đã nhận được. Cám ơn Hảo đã có lòng tin tưởng kính mến tôi trên đường Phật pháp. Trong lúc nầy tôi vẫn mạnh khỏe, không có sự gì thay đổi đáng lo. Xin Hảo và anh chị em ở quê nhà nên an tâm để lo sống lành và lo hành chánh đạo.
Đạo là đường về Phật, Pháp là lối thoát phàm, Nếu người đời muốn khỏi vòng luân hồi thống khổ trong lục đạo tam đồ thì trước hết phải tin tưởng tu hành theo Phật Pháp. Nhưng người đời nay, đa số nghiệp tội sâu dầy, phước đức hiếm hoi và trí huệ cạn cợt, trên đường giải thoát không đủ sức tự độ, cho nên cần chuyên niệm A Di Đà Phật để nhờ Phật hóa độ cho được về cõi Tịnh Độ, hết các sự sanh tử luân hồi. Vậy Hảo hãy nhớ thường âm thầm niệm Phật.
Đời sống tạm theo mấy tấc hơi,
Sống đời chớ để tánh mê đời,
Trong lòng nhớ niệm Di Đà Phật,
Được Phật Độ về, thật thảnh thơi.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Hảo, cả bà con và anh chị em tín hữu ở quê nhà đều được an lành.
Thanh Sĩ
P.B.: Tôi có kèm gởi theo đây một tấm hình màu của tôi, thân tặng Hảo để làm kỷ niệm trên đường tu hành chánh đạo.
THANH SĨ
Lá thư số 300: Tokyo, ngày 6-6-1970
Lá thư số 300: Tokyo, ngày 6-6-1970
Tokyo, ngày 6-6-1970,
Đảnh thân mến,
Bức thơ của Đảnh đề ngày 23-1-70 tôi đã nhận được. Nhưng cái thơ khác của Đảnh thì tôi không được. Tôi rất cám ơn vợ chồng của Đảnh vẫn còn nhớ tôi và chịu khó viết thơ thăm tôi nơi viễn xứ. Hiện thời tôi vẫn được mạnh khỏe và vẫn đi dạy ở trường đại học Waseda như thường lệ. Ngoài ra chẳng có sự gì thay đổi, xin Đảnh và anh chị em ở quê nhà nên an lòng tiếp tục trong lẽ sống đời và sống đạo, có nhân nghĩa, có trí giác một cách chân lý sâu rộng để thật xứng đáng là người tín đồ Phật giáo chí thành chí thiện.
Bức thơ của Đảnh đề ngày 23-1-70 tôi đã nhận được. Nhưng cái thơ khác của Đảnh thì tôi không được. Tôi rất cám ơn vợ chồng của Đảnh vẫn còn nhớ tôi và chịu khó viết thơ thăm tôi nơi viễn xứ. Hiện thời tôi vẫn được mạnh khỏe và vẫn đi dạy ở trường đại học Waseda như thường lệ. Ngoài ra chẳng có sự gì thay đổi, xin Đảnh và anh chị em ở quê nhà nên an lòng tiếp tục trong lẽ sống đời và sống đạo, có nhân nghĩa, có trí giác một cách chân lý sâu rộng để thật xứng đáng là người tín đồ Phật giáo chí thành chí thiện.
Mấy bài thi của Đảnh tôi chỉ đọc ở ý chí của Đảnh chớ tôi không chấp niêm vận. Thấy Đảnh có ý chí quan thiết mong cầu cho đồng bào nhơn loại sớm được thanh bình hạnh phúc đạo đức vui hòa, Đó là điều rất tốt đẹp, mà chính tôi và có lẽ còn nhiều người khác nữa cũng rất muốn như vậy. Còn việc khổ nước, khổ dân, tôi thấy khổ lòng từ giờ phút. Nếu Đảnh để tâm trầm tĩnh suy biện đến thì tất nhiên sẽ hiểu được Đảnh ơi!
Việc khổ nước hay việc khổ dân,
Khổ nào cũng vẫn có nguyên nhân,
Muốn ăn trái ngọt đừng gieo đắng,
Mong được siêu sanh chớ nhiễm trần.
Sống hãy biết đang trong sống tục,
Đời đừng mê quá cuộc đời tân,
Tân không đạo nghĩa là tân tận,
Cần phải giác tâm hướng Phật Thần.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Đảnh, cả gia đình và tất cả anh chị em đồng đạo ở quê nhà đều được vạn sự khương an.
THANH SĨ
Lá thư số 301: Tokyo, ngày 28-6-1970
Lá thư số 301: Tokyo, ngày 28-6-1970
Tokyo, ngày 28-6-1970
Hoài Ân thân mến,
Xin báo tin cho Ân được biết là hồi 10 giờ sáng nay 28-6-1970, Đại tá S. gặp tôi và đã trao lại cho tôi gói quà (năm trăm bánh tráng) và cái thơ của Ân.
Xin báo tin cho Ân được biết là hồi 10 giờ sáng nay 28-6-1970, Đại tá S. gặp tôi và đã trao lại cho tôi gói quà (năm trăm bánh tráng) và cái thơ của Ân.
Tôi thành thật cám ơn lòng tốt của Ân và Đại tá K. của anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà đối với tôi trước sau vẫn một niềm nồng hậu.
Được biết tất cả anh chị em tín hữu và Bà Mười hiện thời vẫn được an lành, tôi rất mừng, về phần tôi ở bên nầy cũng vẫn được sức khỏe và vẫn đi dạy ở trường đại học Waseda như thường lệ. Trường sắp nghỉ hè từ ngày 4 tháng 7 cho tới ngày 5 tháng 9 mới khai giảng lại. Nhưng mặc dầu trong lúc nghỉ hè, tôi vẫn còn phải bận nhiều việc khác nữa, cho nên tôi vẫn không được rảnh như ý muốn.
Ân! Bề đạo hạnh giữa Ân với anh chị em tín hữu gần xa có được tiếp tục hăng hái trau giồi luyện tập hằng ngày không? Ân và anh chị em hãy nên tùy phương tiện chỉ dẫn khích lệ cho nhau được vững mạnh đức tin và được tiến bước cao xa tốt đẹp trên đường đạo đức tu hành. Và lúc nào cũng nên thương yêu rộng, đoàn kết rộng, để đúng giáo thuyết từ bi và cũng để có sức mạnh vô biên cho các công việc làm vĩ đại.
Vắn tắt có mấy lời, tôi cầu chúc cho Ân, cả gia quyến, tất cả anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà đều được luôn luôn mạnh lành sáng suốt.
THANH SĨ
Lá thư số 302: Tokyo, ngày 22-1-1970
Lá thư số 302: Tokyo, ngày 22-1-1970
Tokyo, ngày 22-1-1970,
Gởi Lê Cảnh Nho
Lê Cảnh Nho thân mến,
Lê Cảnh Nho thân mến,
Bước sang năm mới tôi xin cầu chúc cho Nho và cả gia đình quyến thuộc và tất cả anh chị em tín hữu ở quê nhà đều được khai hoa Bồ Đề tâm và được suốt năm mạnh lành may mắn.
Mong Xuân Nước Nhà
Xuân có về cho Hòa cho Hảo,
Xin đừng về để gây bạo gây hung,
Xuân đã qua dân chịu lắm hãi hùng,
Xuân nay đến rất mong Xuân thống nhứt.
Xuân rán giúp đồng bào Trung, Nam, Bắc,
Cùng nắm tay thắt chặt lại tình thương,
Cùng xóa đi thù hận giữa chiến trường,
Cùng kiến tạo một đường dân no ấm.
Chẳng còn bóng kẻ ngoài leo lên giẫm,
Ý nguyện nầy thăm thẳm luống chờ trông,
Mong Xuân chớ có phụ lòng.
THANH SĨ
Lá thư số 303: Tokyo, ngày 29-12-1970
Lá thư số 303: Tokyo, ngày 29-12-1970
Tokyo, ngày 29-12-1970,
Gởi Lê Cảnh Nho
Lê Cảnh Nho thân mến,
Mấy cái thơ của Nho tôi đã nhận được hết, nhưng một phần vì do bận dạy ở đại học Waseda và một phần do sức khỏe không cho phép, nên chỉ không riêng Nho mà với anh chị em khác tôi cũng không có viết thư hoặc hồi đáp thơ cho ai cả.
Lê Cảnh Nho thân mến,
Mấy cái thơ của Nho tôi đã nhận được hết, nhưng một phần vì do bận dạy ở đại học Waseda và một phần do sức khỏe không cho phép, nên chỉ không riêng Nho mà với anh chị em khác tôi cũng không có viết thư hoặc hồi đáp thơ cho ai cả.
Tôi xin Nho và tất cả anh chị em ở quê nhà có thể cảm biết được điều ấy mà không nỡ trách phiền. Tôi không xiết cám ơn.
Nghe tin Nho bịnh nhưng hôm nay đã được khỏi hẳn chưa? Bịnh thân nhẹ hơn bịnh tâm và do bịnh tâm mà sinh ra bịnh thân là phần lớn. Nho nên chú trọng đến luôn. Song le, nếu muốn trị tâm bịnh đến tận gốc, thì chỉ có thứ thuốc "Tịnh Quán" mà thôi. Nhưng trong khi nấu thuốc Tịnh Quán không nên dùng những thứ củi lửa có tính chất chỉ cháy bừng chóng nhứt thời, hoặc tồn tại những thứ khói mù tro độc thì nó sẽ có kết quả ngược lại với ý nguyện mà thôi, chớ chẳng khác hơn. Vậy Nho rán dụng từ trí lực của đạo tâm thuần chánh để thắng phục chư duyên. Nhứt tâm Tịnh Quán cho đến khi nào thấy tâm, thấy Phật như thấy mặt trong gương.
Còn vấn đề Đại hội Tôn giáo Thế giới tại Nhựt Bổn vừa qua mà Nho muốn biết có hữu hiệu đến mức độ nào, thì tôi xin nói trong sự thấy biết của tôi đó là chỉ thêm lên một tiếng kêu gọi Hòa Bình như thường niên mà thôi, chớ chưa có đủ ảnh hưởng đem lại hòa bình ngay như ý muốn. Vì nó chưa biểu hiện được tánh chất thống hợp các tình yêu hòa bình vô tư, bất chấp màu da dân tộc và chủ nghĩa. Tôi nghĩ theo thường thức thì:
Thế bình trước hết phải nhân bình,
Dân ý cùng hòa nước được minh,
Nếu muốn thế bình, minh được quốc,
Hãy tôn dân ý trọng dân tình.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin dừng bút. Xin cầu chúc Nho, cả gia đình thân hữu được bình an mạnh giỏi vui tươi và xin Nho chuyển hộ lời tôi kính thăm tất cả anh chị em tín hữu gần xa ở quê nhà đều được an lành và tu hành sáng suốt.
THANH SĨ
Lá thư số 304: Tokyo, ngày 27-2-1971
Lá thư số 304: Tokyo, ngày 27-2-1971
Tokyo, ngày 27-2-1971,
Thưa Má,
Thơ nhà đề ngày 3-2-1971 con vừa mới nhận được hồi trưa nay (27-2-71) và mấy cái thơ trước con cũng đã nhận được hết. Được biết Má hiện thời vẫn được khỏe mạnh và anh chị em tín hữu ở quê nhà cũng được an lành, thì lòng con thấy nhẹ đi một phần lớn. Hiện nay con đang bận việc lo thi cho những sinh viên lên lớp và ra trường của trường Đại học Waseda. Ngoài ra còn phải bận nhiều việc khác nữa, thành ra không có dư thì giờ để viết thơ về thường và đáp thơ nhanh chóng như lúc trước. Con xin Má tha tội và anh chị em vui lòng thứ lỗi cho và thế nào con cũng cố chiết thì giờ để viết thơ về thường như lúc trước kia.
Thưa Má, con xin Má lúc nào cũng nên bồi dưỡng sức khỏe và nêu cao tấm gương đạo hạnh trên nền tảng tín, nguyện, phụng, hành, tác phước trì giới và định tâm cho khai huệ Phật. Xin Má đừng nghĩ tuổi già, mà là hãy nên nghĩ tuổi Phật bất diệt bất sanh trường tồn vĩnh lạc.
Thơ nhà đề ngày 3-2-1971 con vừa mới nhận được hồi trưa nay (27-2-71) và mấy cái thơ trước con cũng đã nhận được hết. Được biết Má hiện thời vẫn được khỏe mạnh và anh chị em tín hữu ở quê nhà cũng được an lành, thì lòng con thấy nhẹ đi một phần lớn. Hiện nay con đang bận việc lo thi cho những sinh viên lên lớp và ra trường của trường Đại học Waseda. Ngoài ra còn phải bận nhiều việc khác nữa, thành ra không có dư thì giờ để viết thơ về thường và đáp thơ nhanh chóng như lúc trước. Con xin Má tha tội và anh chị em vui lòng thứ lỗi cho và thế nào con cũng cố chiết thì giờ để viết thơ về thường như lúc trước kia.
Thưa Má, con xin Má lúc nào cũng nên bồi dưỡng sức khỏe và nêu cao tấm gương đạo hạnh trên nền tảng tín, nguyện, phụng, hành, tác phước trì giới và định tâm cho khai huệ Phật. Xin Má đừng nghĩ tuổi già, mà là hãy nên nghĩ tuổi Phật bất diệt bất sanh trường tồn vĩnh lạc.
Má ơi!
Dầu đời quá ác quá hôi tanh,
Má cũng rán nêu đạo hạnh lành,
Khuyên kẻ đồng môn tăng thiện nguyện,
Giúp người tín hữu vững lòng tin,
Chơn tu giải thoát muôn trần tục,
Chánh giáo cứu an vạn thế tình,
Thiện chí sẽ thành như ý chí,
Phật đài chỉ một chữ Sơn Minh.
Vắn tắt có mấy lời, con cầu xin ơn trên chư vị Phật Thần hộ độ cho Má được luôn mạnh khỏe, được sống lâu và được mỗi ngày mỗi tăng cao phước huệ. Và xin Má chuyển hộ lời con kính thăm tất cả anh chị em tín hữu khắp đó đây ở quê nhà.
Con của Má
P.B.: Khi nào nhận được bánh con sẽ báo tin cho quê nhà được biết.
THANH SĨ
Lá thư số 305: Tokyo, ngày 9-3-1971
Lá thư số 305: Tokyo, ngày 9-3-1971
Tokyo, ngày 9-3-1971,
Gởi Trường, Yến
Trường, Yến thân mến,
Trường, Yến thân mến,
Tất cả thơ của Trường, Yến tôi đã nhận được hết. Mỗi lần nhận được thơ là mỗi lần tôi rất cám ơn và rất cảm động tấm lòng kính ái của Trường, Yến đối với tôi trên đường đạo Pháp. Đáng lý tôi phải hồi tin ngay những khi được thơ của Trường, Yến hoặc là được thơ của anh chị em tín hữu khác, nhưng vì tôi quá bận việc ở trường đại học Waseda và bận các việc giao tế khác và hơn nữa cũng nhằm đúng lúc sức khỏe chế ngự một phần lớn, thành ra tôi phải cam chịu sự chậm trễ trong việc viết thơ về cho tất cả anh chị em ở quê nhà. Tôi thành thật xin anh chị em tín hữu và Trường, Yến ở quê nhà vui lòng thứ lỗi cho.
Nghe tin Trịnh Thị Thiện mãn phần tôi thấy đau lòng. Nhưng cái chết trong niềm tin Phật giáo và sâu đậm của Trịnh Thị Thiện tất nhiên đã được siêu sanh "Tịnh Độ" theo tôi nhận thấy. Xin Trường, Yến trao hộ lời tôi thành thật chia buồn với tang quyến.
Trường, Yến ơi! Đời là biển khổ, không bao giờ cạn. từ ức kiếp xưa đã khổ cho đến ngày nay cũng vẫn khổ. Khổ có muôn ngàn hình thức khác nhau trên cái thân sống của con người, không thể nào tả hết được.
Muốn giải thoát những nỗi khổ nầy chỉ có con đường tu Phật mà thôi. Tu với tất cả tấm lòng "Trần bất nhiễm, Phật nhứt tâm". Vì chỉ có Phật mới là hoàn toàn siêu thoát trầm luân sanh tử đạt đáo cảnh an vui tịch tịnh Niết Bàn mà thôi. Vậy Trường, Yến cũng như anh chị em tín hữu khác ở quê nhà hãy cố gắng tịnh tâm hướng Phật từ giờ phút một trong lúc sinh hoạt giữa trần gian.
Giống Phật sẵn trong lòng,
Mỗi ngày nhớ chăm nom,
Nắng Di Đà mưa phước,
Đúng kỳ sẽ trổ bông.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Trường, Yến, cả quyến thuộc đều được vạn sự an lành và xin trao hộ lời tôi kính thăm tất cả anh chị em tín hữu đó đây.
THANH SĨ
Lá thư số 306: Tokyo, ngày 10-4-1971
Lá thư số 306: Tokyo, ngày 10-4-1971
Tokyo, ngày 10-4-1971,
Cảnh Nho thân mến,
Tôi đã nhận được thơ Nho đề ngày 26-2-71. Rất cám ơn Nho đã thường viết thơ thăm chút tôi nơi viễn xứ. Hiện thời tôi vẫn được sức khỏe và vẫn còn dạy ở trường đại học Waseda như thường lệ. Không có sự gì thay đổi đáng ngại. Xin Nho và anh chị em an lòng. Về tình hình Việt Nam tôi theo dõi hằng ngày, tôi thấy lòng khôn xiết đau buồn cho chiến tranh Việt Nam quá kéo dài và lan rộng, khiến cho cảnh huống chết chóc đau khổ cơ hàn thêm trầm trọng, mà giữa người Việt với người Việt phải gánh chịu nặng nề hơn ai hết.
Tôi đã nhận được thơ Nho đề ngày 26-2-71. Rất cám ơn Nho đã thường viết thơ thăm chút tôi nơi viễn xứ. Hiện thời tôi vẫn được sức khỏe và vẫn còn dạy ở trường đại học Waseda như thường lệ. Không có sự gì thay đổi đáng ngại. Xin Nho và anh chị em an lòng. Về tình hình Việt Nam tôi theo dõi hằng ngày, tôi thấy lòng khôn xiết đau buồn cho chiến tranh Việt Nam quá kéo dài và lan rộng, khiến cho cảnh huống chết chóc đau khổ cơ hàn thêm trầm trọng, mà giữa người Việt với người Việt phải gánh chịu nặng nề hơn ai hết.
Ý thức tổ quốc như thế nào? Tình đồng bào để nơi đâu? Thế giới ai ai cũng đặt câu hỏi và cũng phải ngạc nhiên cho cảnh chiến tranh trường kỳ thảm khốc ở Việt Nam hơn ở đâu hết. Đọc thấy dư luận thế giới mỗi ngày, lòng tôi thấy đau như cắt ruột. Tôi tự hỏi ngay giờ phút nầy người Việt Nam lấy gì để chứng minh một lần nữa rằng đất nước Việt Nam đã có bốn ngàn năm văn hiến và dân tộc Việt Nam đã cùng sanh một bào thai (như lịch sử đã chép)? Câu trả lời nầy có phải chăng chỉ có tất cả người Việt Nam hãy cùng chung một lòng yêu đồng bào trên hơn những màu sắc tư tưởng đảng phái thì mới chứng minh được điều ấy, có phải không?
Nếu giữa người Việt Nam cùng biết nhứt trí trở lại một tấm lòng như vậy, thì việc giải quyết ổn thỏa chiến tranh Việt Nam có thể mau chóng được. Vì cái chìa khóa ấy chính ở trong lòng người Việt Nam. Nho! Còn cách thiền quán để thấy Phật tâm thì đúng là sự hồi quang phản chiếu đấy. Nhưng phải quán bằng tâm vô sở chấp, thì mới thấy được chơn tâm. Hãy nghe bài kệ sau đây:
Trong cây có trái hoa,
Trong tâm có Phật Đà,
Chớ thấy bằng ngoại tướng,
Phải thấy bằng tâm ta.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Nho, cả gia đình thân quyến và tất cả anh chị em tín hữu ở quê nhà đều được an khang.
THANH SĨ
Lá thư số 307: Tokyo, ngày 3-4-1971
Lá thư số 307: Tokyo, ngày 3-4-1971
Tokyo, ngày 3-4-1971,
Hường thân mến,
Tôi đã liên tiếp nhận được hai bức thơ của Hường. Cám ơn Hường vẫn một lòng kính mến tôi và đã chẳng quên ngõ lời vấn an sức khỏe của tôi nơi hải ngoại. Hường! Người tu (dù tại gia hay xuất gia) muốn đạt đạo thì trước hết phải nhứt tâm hành đạo và muốn trọn đạo thì lúc nào cũng nên vững mạnh đức tin. Có nhứt tâm hành đạo mới có huệ trổ phước sanh và có vững mạnh đức tin mới có thể vượt qua các lượng sóng ma gió tục.
Và thể chất với tinh thần của con người gần như gắn liền nhau, cho nên khi thể chất yếu thì tinh thần cũng dễ bị yếu theo. Nếu tinh thần yếu theo thể chất, thì sẽ bị thể chất lôi cuốn. Mà sự lôi cuốn ấy lương thiện thì ít, còn tội ác thì nhiều. Thế nên người biết học đạo tu thân thì cần phải làm chủ tinh thần, vững mạnh đức tin và nhứt tâm hành đạo, bất chấp hoàn cảnh và thời gian nào.
Đó là cái khí tiết và chí nguyện bất di bất dịch của những người tu học Phật pháp. Vậy Hường rán cố gắng đề cao và đẩy mạnh lòng tự tín, tự nguyện và tự giác trên đường tu chánh giáo, sống thiện lương mặc dù đang ở giữa cuộc đời đầy dẫy những cảnh đau thương, hỗn độn và gian loàn.
Tôi xin khuyên:
Chủ tâm, minh tâm, định tâm,
Tất nhiên sẽ thấy Quan Âm, Di Đà.
Lòng luôn có Phật với ta,
Thì đời khổ mấy cũng là thấy vui.
Rán tu cho đạo thấm mùi,
Để mùi đời chẳng còn nơi chen vào.
Muốn cho hết kiếp trần lao,
Hãy nghe lời Phật rán trau hạnh lành.
Lóng tâm hết trược ra thanh,
Để đem đời đạo thực hành cho xong.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Hường, cả gia quyến và tất cả anh chị em tín hữu ở quê nhà đều được luôn bình an mạnh lành và tu hành sáng tỏ.
THANH SĨ
Lá thư số 308: Tokyo, ngày 14-4-1971
Lá thư số 308: Tokyo, ngày 14-4-1971
Tokyo, ngày 14-4-1971,
Thưa Má,
Con đã nhận được thơ, biết Má vẫn mạnh khỏe và anh chị em đồng đạo gần xa ở quê nhà vẫn được bình an, thì con lấy làm yên tâm nhiều lắm. Hiện thời con cũng được sức khỏe như thường, và kỳ nghỉ lễ mùa xuân nầy sắp hết con sẽ đi dạy trở lại ở trường đại học Wasada vào ngày 24-4 Dl nầy. Ngoài ra chẳng có sự gì thay đổi đáng lo. Xin Má và anh chị em tín hữu nên an lòng.
Đường xa kính gởi chút tâm,
Trước là thăm mẹ sau thăm đạo đồng.
Cầu xin Trời Phật hộ tòng,
Mẹ già mạnh khỏe đạo đồng bình yên.
Vượt qua các cuộc đảo điên,
Cao thâm đạo đức linh thiêng tâm hồn.
Lời Thầy, lời Phật Thế Tôn,
Chân thành như giáo, tâm ôn như truyền.
Thắng muôn ác quái dụ khuyên,
Như Tam Tạng mấy ngàn niên xưa rồi.
Xác nầy tuy ở xa xôi,
Nhưng hồn nầy vẫn ở nơi quê nhà.
Khổ đồng đạo tức khổ ta,
Đau buồn của mẹ tức là đau con.
Khối tình đồng đạo chẳng mòn,
Lòng thương nhớ mẹ núi non khó bì.
Ngày đêm cầu Đức Từ Bi,
Mau xoay thuận bước đường đi về nhà.
Để cùng tín hữu gần xa,
Dắt nhau đến chốn Liên Hoa Phật đài.
Người nào cũng được hoa khai,
Đúng như chí nguyện lâu nay tu hành.
Vắn tắt có mấy lời con xin chư vị Phật Thần hộ độ Má được luôn luôn mạnh khỏe, sáng suốt và trường thọ. Đó là sự trợ trưởng lớn nhứt cho con. Và xin Má trao lời con kính thăm tất cả anh chị em đồng đạo xa gần.
Con đã nhận được thơ, biết Má vẫn mạnh khỏe và anh chị em đồng đạo gần xa ở quê nhà vẫn được bình an, thì con lấy làm yên tâm nhiều lắm. Hiện thời con cũng được sức khỏe như thường, và kỳ nghỉ lễ mùa xuân nầy sắp hết con sẽ đi dạy trở lại ở trường đại học Wasada vào ngày 24-4 Dl nầy. Ngoài ra chẳng có sự gì thay đổi đáng lo. Xin Má và anh chị em tín hữu nên an lòng.
Đường xa kính gởi chút tâm,
Trước là thăm mẹ sau thăm đạo đồng.
Cầu xin Trời Phật hộ tòng,
Mẹ già mạnh khỏe đạo đồng bình yên.
Vượt qua các cuộc đảo điên,
Cao thâm đạo đức linh thiêng tâm hồn.
Lời Thầy, lời Phật Thế Tôn,
Chân thành như giáo, tâm ôn như truyền.
Thắng muôn ác quái dụ khuyên,
Như Tam Tạng mấy ngàn niên xưa rồi.
Xác nầy tuy ở xa xôi,
Nhưng hồn nầy vẫn ở nơi quê nhà.
Khổ đồng đạo tức khổ ta,
Đau buồn của mẹ tức là đau con.
Khối tình đồng đạo chẳng mòn,
Lòng thương nhớ mẹ núi non khó bì.
Ngày đêm cầu Đức Từ Bi,
Mau xoay thuận bước đường đi về nhà.
Để cùng tín hữu gần xa,
Dắt nhau đến chốn Liên Hoa Phật đài.
Người nào cũng được hoa khai,
Đúng như chí nguyện lâu nay tu hành.
Vắn tắt có mấy lời con xin chư vị Phật Thần hộ độ Má được luôn luôn mạnh khỏe, sáng suốt và trường thọ. Đó là sự trợ trưởng lớn nhứt cho con. Và xin Má trao lời con kính thăm tất cả anh chị em đồng đạo xa gần.
Con của Má
Lá thư số 309: Tokyo, ngày 15-4-1971
Lá thư số 309: Tokyo, ngày 15-4-1971
Tokyo, ngày 15-4-1971
Gởi Thiện Duyên
Thiện Duyên thân mến,
Tôi vừa mới nhận được thơ của Thiện Duyên hồi trưa nay. Tôi liền gọi điện đến phòng thơ ký của ông Niwano, thì họ cho biết rằng đại hội đã đình chỉ, vì lý do đại biểu các nước khác không đến được (trừ nước Việt Nam) và lý do thứ hai là vì phải lo chuẩn bị Đại hội Phật giáo Thế giới tại Tích Lan vào khoảng tháng 5, 6 tới đây. Và họ đã nói với tôi là họ đã có gởi thơ thông tri cho đại biểu tôn giáo các nước được biết rồi. Vậy Thiện Duyên đã nhận được thơ ấy chưa? Xin báo tin có thế thôi. Tôi xin chúc cho Thiện Duyên và anh chị em tín hữu ở quê nhà đều được luôn luôn mạnh lành và gặp nhiều may mắn trong mọi tác động đạo đức và nước nhà.
Thiện Duyên thân mến,
Tôi vừa mới nhận được thơ của Thiện Duyên hồi trưa nay. Tôi liền gọi điện đến phòng thơ ký của ông Niwano, thì họ cho biết rằng đại hội đã đình chỉ, vì lý do đại biểu các nước khác không đến được (trừ nước Việt Nam) và lý do thứ hai là vì phải lo chuẩn bị Đại hội Phật giáo Thế giới tại Tích Lan vào khoảng tháng 5, 6 tới đây. Và họ đã nói với tôi là họ đã có gởi thơ thông tri cho đại biểu tôn giáo các nước được biết rồi. Vậy Thiện Duyên đã nhận được thơ ấy chưa? Xin báo tin có thế thôi. Tôi xin chúc cho Thiện Duyên và anh chị em tín hữu ở quê nhà đều được luôn luôn mạnh lành và gặp nhiều may mắn trong mọi tác động đạo đức và nước nhà.
Thanh Sĩ
Phụ bút: Chánh trị và kinh tế cần phải đi đôi cũng như bao tử với bộ óc. Thế cho nên cần phải tạo lập nhiều tổ chức kinh tế một cách tích cực bằng mọi hình thức sắc thái phương châm hợp cảnh, hợp tình, hợp lý, hãy nhắm vào sở cầu cần thiết của công chúng.
THANH SĨ
Lá thư số 310: Tokyo, ngày 6-5-1971
Lá thư số 310: Tokyo, ngày 6-5-1971
Tokyo, ngày 6-5-1971,
Gởi Trần Duy Liên
Trần Duy Liên thân mến,
Thơ của Duy Liên đề ngày 29-4-71 và mấy cái thơ trước tôi đã nhận được. Tôi rất cám ơn Liên đã không quên tôi và còn chịu khó viết thơ thăm tôi, mặc dù người Liên đang sống trong quân tình, ít thì giờ dư và đầy gian khổ. Được biết Liên hiện thời vẫn được mạnh lành tôi rất mừng. Tôi cầu xin Chư vị Phật Thần ngày đêm phù hộ Liên và tất cả anh chị em tín hữu ở quê nhà trong mọi hoàn cảnh an nguy.
Phần tôi ở Nhựt trong lúc nầy cũng được như thường và vẫn còn đi dạy ở trường đại học Wasada, mọi việc không có gì thay đổi đáng kể, xin Liên và anh chị em tín hữu nên an tâm. Tiện đây tôi cũng khuyên Liên và tất cả anh chị em trong đạo lúc nào cũng tự giác và tự nhớ rằng đời mình với đạo có căn duyên có liên hệ mật thiết như bóng với hình mà luôn luôn cố gắng tu hành đúng đạo và tận dụng mọi khả năng trong thiện chí để đoàn kết dung hòa tất cả anh chị em tín hữu, để bảo tồn nguyên vẹn nền đạo và làm phát triển lớn rộng sáng tỏ mối đạo đến mức độ đại đồng đúng chơn truyền Thầy Tổ và đúng bổn phận môn nhân đã thực tâm thức tỉnh hướng thiện tu hành theo Phật đạo.
Trần Duy Liên thân mến,
Thơ của Duy Liên đề ngày 29-4-71 và mấy cái thơ trước tôi đã nhận được. Tôi rất cám ơn Liên đã không quên tôi và còn chịu khó viết thơ thăm tôi, mặc dù người Liên đang sống trong quân tình, ít thì giờ dư và đầy gian khổ. Được biết Liên hiện thời vẫn được mạnh lành tôi rất mừng. Tôi cầu xin Chư vị Phật Thần ngày đêm phù hộ Liên và tất cả anh chị em tín hữu ở quê nhà trong mọi hoàn cảnh an nguy.
Phần tôi ở Nhựt trong lúc nầy cũng được như thường và vẫn còn đi dạy ở trường đại học Wasada, mọi việc không có gì thay đổi đáng kể, xin Liên và anh chị em tín hữu nên an tâm. Tiện đây tôi cũng khuyên Liên và tất cả anh chị em trong đạo lúc nào cũng tự giác và tự nhớ rằng đời mình với đạo có căn duyên có liên hệ mật thiết như bóng với hình mà luôn luôn cố gắng tu hành đúng đạo và tận dụng mọi khả năng trong thiện chí để đoàn kết dung hòa tất cả anh chị em tín hữu, để bảo tồn nguyên vẹn nền đạo và làm phát triển lớn rộng sáng tỏ mối đạo đến mức độ đại đồng đúng chơn truyền Thầy Tổ và đúng bổn phận môn nhân đã thực tâm thức tỉnh hướng thiện tu hành theo Phật đạo.
Nói tóm lại, đạo là thuốc của bịnh đời và đạo cũng là đuốc của đêm đời cho nên Liên và anh chị em rán đi trên con đường đạo và rán nhứt tâm hành đạo cho được viên thành.
Không đạo thì đời chỉ khổ thêm,
Muốn đời trong ấm với ngoài êm,
Mỗi người hãy nhớ trau tâm đạo,
Tất cảnh an vui đến trước thềm.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Liên và anh chị em tín hữu ở quê nhà đều được vạn sự an lành và trên đường tu hành được sáng suốt toại nguyện.
THANH SĨ
P.B.: Khi có ảnh mới tôi sẽ gởi về cho Liên.
Lá thư số 311: Tokyo, ngày 26-5-1971
Lá thư số 311: Tokyo, ngày 26-5-1971
Tokyo, ngày 26-5-1971
Hường thân mến,
Tôi đã nhận được thơ và coupon. Cám ơn Hường, Trường, Yến và anh chị em tín hữu ở quê nhà vẫn nhớ tưởng đến tôi và cố gắng tu hành. Hiện giờ tôi vẫn được tương đối khỏe mạnh và vẫn còn đi dạy ở trường Waseda như thường lệ. Ngoài ra chẳng có sự gì đáng lo. Xin Hường và anh chị em ở quê nhà nên an tâm tiến bước vững mạnh trên đường tu hành tiến về đức Phật. Trong tâm lúc nào cũng nên nhớ tự nguyện tu thân hành đạo cho đến khi hết vô minh phiền não, hết mê lầm, được hoàn toàn giác ngộ sáng suốt, giải thoát kiếp luân hồi thống khổ mới thôi.
Tôi đã nhận được thơ và coupon. Cám ơn Hường, Trường, Yến và anh chị em tín hữu ở quê nhà vẫn nhớ tưởng đến tôi và cố gắng tu hành. Hiện giờ tôi vẫn được tương đối khỏe mạnh và vẫn còn đi dạy ở trường Waseda như thường lệ. Ngoài ra chẳng có sự gì đáng lo. Xin Hường và anh chị em ở quê nhà nên an tâm tiến bước vững mạnh trên đường tu hành tiến về đức Phật. Trong tâm lúc nào cũng nên nhớ tự nguyện tu thân hành đạo cho đến khi hết vô minh phiền não, hết mê lầm, được hoàn toàn giác ngộ sáng suốt, giải thoát kiếp luân hồi thống khổ mới thôi.
Hường và anh chị em tín hữu, hễ mỗi lần nghe thấy sự đau khổ của đời, là mỗi lần nên tự xét mình và nên tự biết ngay rằng đó là do các tánh tham dục và lòng khát ái của con người mà sinh ra. Nếu tánh tham dục và lòng khác ái phàm phu của con người đã được bỏ hết thì những sự đau khổ không còn do đâu mà sanh ra được. Vậy hãy luôn tự xét và tự biết như thế, rồi rán dùng tâm đạo trí minh chế trị các tánh tham dục, lòng khác ái trần gian để nghiệp khổ hết cuốn lôi và tâm hồn sáng suốt nhẹ nhàng siêu về cõi Phật bất diệt bất sanh và trường tồn an lạc. Xin luôn nhớ rằng:
Ánh đời thu ngắn mỗi giờ qua,
Hãy bước mau lên cõi Phật Đà,
Chỉ cõi Phật Đà là bất diệt,
Trần gian sống tạm chẳng lâu xa.
Hường và anh chị em ở quê nhà rán kiện toàn đức tin và thiện nguyện, dù rằng có gặp lắm hoàn cảnh trái ngược khó khăn gian khổ cũng vẫn một mực làm lành lánh dữ niệm Phật trì giới và tu phước huệ cho đến mức tận cùng (viên mãn).
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc Hường, Trường, Yến và anh chị em tín hữu ở quê nhà đều được vạn sự an khương.
THANH SĨ
Lá thư số 312: Tokyo, ngày 10-6-1971
Lá thư số 312: Tokyo, ngày 10-6-1971
Tokyo, ngày 10-6-1971,
Lệ thân mến,
Thơ của Lệ tôi đã nhận được, rất cám ơn Lệ. Và xin cám ơn Lệ một lần nữa về sự gởi bánh cho tôi vừa rồi. Món bánh nầy tôi đã nhận được do ông bạn quen lâu ấy đã trao tận tay tôi tại: Tokyo. Được biết cả gia đình Lệ, tất cả anh chị em tín hữu và Bà Mười ở quê nhà đều được an lành tôi rất mừng. Hiện thời ở bên nầy tôi vẫn được tương đối khỏe mạnh và vẫn còn đi dạy ở trường đại học Waseda như thường lệ. Ngoài ra chẳng có sự gì thay đổi xin Lệ, anh chị em ở quê nhà và Bà Mười nên yên tâm và rán tiếp tục tiến bước trên đường tu, sống có phước huệ chung, có giác ngộ rộng, đúng thuyết từ bi chí thiện của Đức Thầy và của chư Phật Tổ.
Năm nay ngày lễ 18-5 đã như thế nào? Có gì linh động kích thích như thường niên không? Dù ở bên nầy, nhưng tôi vẫn lưu tâm đến ngày 18-5 là ngày kỷ niệm tối cao của người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo. Lẽ ra 18 thàng 5 cũng chính là dịp tay bắt mặt mừng giữa đại gia đình tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo. Lúc nào tôi cũng muốn được nghe thấy ngày nầy giữa anh chị em đồng đạo cùng nhau biểu hiện tinh thần giác ngộ tín ngưỡng cao độ và tình nghĩa đồng đạo đoàn kết thương yêu sâu đậm như anh em ruột rà.
Tinh thần nầy, tình nghĩa nầy là cao đẹp nhứt của người tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo. Nếu tinh thần nầy, tình nghĩa nầy được giữ còn trong người tín đồ, ấy là vinh quang là siêu thoát, nhược bằng tinh thần nầy, tình nghĩa nầy mất đi trong người tín đồ, ấy là khổ nhục là đọa đày theo tôi thiết tưởng như vậy. Lệ, còn những việc giữa bản thân mình với xã hội đời, thì tôi xin tóm vào tám câu thi như dưới đây:
Người nếu thường tâm được giác luôn,
Thuận không đắc chí nghịch không buồn.
Lòng như trăng sáng luôn luôn chiếu,
Dạ tợ nguồn trong mãi mãi tuôn.
Huệ trí phá tan đời hắc ám,
Từ tâm giải thoát kiếp đau thương.
Sống mình sống kẻ trong tình Phật,
Đại độ chơn tu chỉ một đường.
Chúc gia đình Lệ, anh chị em tín hữu và Bà Mười ở quê nhà được vạn an.
THANH SĨ
Lá thư số 313: Tokyo, ngày 10-7-1971
Lá thư số 313: Tokyo, ngày 10-7-1971
Tokyo, ngày 10-7-1971,
Gởi Đặng Phước Huệ
Đặng Phước Huệ thân mến,
Đặng Phước Huệ thân mến,
Tôi đã nhận được thơ của Huệ. Cám ơn huệ đã có lòng viết thơ thăm tôi. Được biết Huệ, anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà được an lành. Tôi rất yên lòng nhiều lắm. Ở bên nầy tôi vẫn mạnh và đi dạy đại học như thường. Nhận định của Huệ trong thơ rất tốt. Phận trai trẻ mà đặt nặng ân đất nước, Đó là điều cơ bản trong cương vị Học Phật Tu Nhân. Nhưng báo ơn đất nước cũng phải tùy tài sức và khả năng của mình bằng mọi cách, chớ không phải ra chiến trường hết mới đền được. Nếu không đủ tài lực đảm đương việc trọng đại, hoặc chưa phải gặp thời để giúp đỡ nước nhà, thì rán tránh đừng làm điều gì sơ suất nguy hại đến quê hương, nhưng Huệ đã quy y theo đạo Phật thì phải đặt trọng tâm rán lo đền đáp cả bốn Trọng Ân mới đủ. Bởi vì ân sanh thành dưỡng dục của tổ tiên cha mẹ, Ân khai mở trí óc cho được sáng suốt của Phật Pháp Tăng và ân đồng bào nhân loại đã hỗ trợ giúp đỡ nhau sự sống trên quả địa cầu nầy. Ngoài ra còn phải tu thập thiện, trừ thập ác và hành bát chánh đạo thì sự tu mới được vững chắc.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cho Huệ, cả quyến thuộc, anh chị em đồng đạo và Bà Mười được vạn an.
THANH SĨ
Lá thư số 314: Tokyo, ngày 8-9-1971
Lá thư số 314: Tokyo, ngày 8-9-1971
Tokyo, ngày 8-9-1971
Hường thân mến,
Tôi đã nhận được thơ của Hường. Tôi rất cám ơn Hường. Hiện thời tôi vẫn được khỏe mạnh và còn đương nghỉ lễ mùa hè cho đến ngày 20-9 mới đi dạy lại ở trường đại học Waseda.
Hường, thể theo thơ của Hường đã hỏi, tôi xin trả lời vắn tắt là: Giờ phút nào tôi cũng muốn nước nhà sớm dứt chiến tranh và muốn tôi sớm có dịp trở về bản xứ, Nhưng cái ý muốn của tôi vẫn còn nhiều chướng ngại. Tôi lấy làm buồn! Nhưng tôi tin rằng cái ý muốn tốt lành của tôi sẽ được đáp ứng không sớm thì muộn.
Hường với anh em ở xứ nhà,
Lấy tình Hòa Hảo thắng can qua.
Tự mình trau đạo khuyên người đạo,
Địa ngục trần gian hiệp mở ra.
Vắn tắt có mấy lời tôi xin cầu chúc cho Hường, cả gia quyến và tất cả anh chị em tín hữu ở quê nhà đều được vạn an.
Tôi đã nhận được thơ của Hường. Tôi rất cám ơn Hường. Hiện thời tôi vẫn được khỏe mạnh và còn đương nghỉ lễ mùa hè cho đến ngày 20-9 mới đi dạy lại ở trường đại học Waseda.
Hường, thể theo thơ của Hường đã hỏi, tôi xin trả lời vắn tắt là: Giờ phút nào tôi cũng muốn nước nhà sớm dứt chiến tranh và muốn tôi sớm có dịp trở về bản xứ, Nhưng cái ý muốn của tôi vẫn còn nhiều chướng ngại. Tôi lấy làm buồn! Nhưng tôi tin rằng cái ý muốn tốt lành của tôi sẽ được đáp ứng không sớm thì muộn.
Hường với anh em ở xứ nhà,
Lấy tình Hòa Hảo thắng can qua.
Tự mình trau đạo khuyên người đạo,
Địa ngục trần gian hiệp mở ra.
Vắn tắt có mấy lời tôi xin cầu chúc cho Hường, cả gia quyến và tất cả anh chị em tín hữu ở quê nhà đều được vạn an.
THANH SĨ
Lá thư số 315: Tokyo, ngày 16-11-1971
Lá thư số 315: Tokyo, ngày 16-11-1971
Tokyo, ngày 16-11-1971,
Gởi Lê Ngọc Đồng
Lê Ngọc Đồng thân mến,
Lê Ngọc Đồng thân mến,
Tôi hân hạnh đã được thơ của Đồng. Tôi rất cám ơn Đồng đã có lòng viết thơ thăm chúc sức khỏe của tôi. Thể theo thơ của Đồng, tôi xin có ý kiến là: Người trong đạo Phật thì nên tôn trọng chùa Phật và lấy chùa Phật tượng trưng cho thế giới từ bi giải thoát tịch tịnh an nhiên. Đồng thời cũng để làm nơi họp nhau ở những ngày sóc vọng để vừa là lễ Phật vừa là diễn giảng và trao đổi ý kiến đạo đức tu hành, hầu có giúp nhau nhứt luật tiến bước trên đường tu niệm chí chơn chí chánh.
Còn đài đọc giảng có thì càng tốt, nhược bằng không có thì đọc đâu cũng được, nên tránh sự tốn kém của anh chị em trong đạo. Đại khái ý kiến của tôi như vậy. Xin Đồng và anh chị em đồng đạo nên thông cảm cho tôi rất cám ơn. Còn việc đạo là đương nhiên, bao giờ tôi cũng chỉ một lời khuyến khích anh chị em tín hữu hãy lấy đạo làm căn bản sanh hoạt tốt lành và làm đường lối siêu sanh mai hậu. Hãy ý thức cuộc đời là giả tạm mà đạo là trường chơn, cho nên dầu ở thời cuộc nào cũng vẫn cố gắng duy trì mối đạo và hành đạo cho đến lúc trong tâm hết trược huờn thanh, chuyển phàm hóa Phật. Tôi rất mong tất cả anh chị em đồng đạo đều có tinh thần như vậy. Tôi xin tóm vào bốn câu thi:
Đạo đường sống phước, thác siêu sanh,
Việc đạo hãy luôn nhớ tiến hành.
Vì ích lợi nhân hơn lợi ngã,
Đêm ngày hướng Phật tịnh tâm thanh.
Còn câu đối ở ngõ chùa "Không Môn" thì tôi xin ghi dưới đây:
Không tâm trần thế duy tâm Phật,
Môn pháp Tịnh Thiền bổn pháp siêu.
空 心 塵 世 唯 心 佛
門 法 凈 禪 本 法 超
Nghĩa là:
Tâm không bụi thế do tâm Phật,
Pháp giáo Tịnh Thiền gốc pháp siêu.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin chúc cả Đồng, thân quyến và tất cả anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà đều được luôn luôn bình an mạnh lành và tu hành sáng suốt.
THANH SĨ
Lá thư số 316: Tokyo, ngày 20-12-1971
Lá thư số 316: Tokyo, ngày 20-12-1971
Tokyo, ngày 20-12-1971,
Gởi Lê Cảnh Nho
Lê Cảnh Nho thân mến,
Lê Cảnh Nho thân mến,
Tôi đã nhận được thơ Nho. Tôi rất cám ơn Nho trong trường hợp nào cũng nhớ tới tôi và biên thơ thăm hỏi sức khỏe của tôi nơi viễn xứ. Hiện thời tôi vẫn tương đối mạnh khỏe và vẫn còn đi dạy ở đại học Waseda, nhưng trung tuần tháng 12 nầy đã nghỉ lễ mùa đông cho đến thượng tuần tháng Giêng tới. Ngoài ra chẳng có sự gì đáng lo ngại, xin Nho và anh chị em ở quê nhà nên an tâm và nên cùng nhau nhứt tề dũng tiến trên đường chánh đạo đại bi.
Bịnh của Nho hôm nay đã được khỏi chưa? Nho! Bịnh gia đình, bịnh thời cuộc, và bịnh tự thân hầu hết là do tâm duyên, do nghiệp tạo mà ra, bản thân cần phải tự giác, tự tỉnh, đó là yếu tố của cách điều trị. Nho nên giác ngộ và nên truy nguyên cái tâm tình sự thế ấy một cách tận tường, để điều trị cho tận gốc.
Còn việc tu luyện như việc trồng cây, cần phải mỗi ngày gia công vun phân tưới nước cho đồng đều thì tự nhiên đúng lúc cây sẽ kết trái đơm bông, chớ tưởng rằng vì muốn cho cây bông trái sớm khai mà đem cả trăm thùng nước tưới vào cây một lúc mà nó sẽ nở bông trái cho đâu. Nho lên quán xét kỹ, trong lúc quán niệm Phật Đà chỉ nhứt tâm cầu Phật giải thoát mà thôi. Đừng ngã chấp, cũng đừng vọng trần, lúc nào cũng chủ tâm, thấy tâm, tất có ngày thấy Phật. Nho nên ghi tâm:
Được chủ tâm thấy tâm,
Giác ngộ hết mê lầm.
Ngày thường nhớ gọi Phật,
Có ngày Phật đến thăm.
Nho và anh chị em tín hữu rán tu hành tinh tấn. Tôi xin cầu chúc Nho và anh chị em tín hữu gần xa ở quê nhà đều được vạn sự an lành tu hành mau sáng tỏ.
THANH SĨ
P.B.: Theo Nho muốn biết thì tôi xin nói tôi sinh năm Thìn 16-3-1927.
Lá thư số 317: Tokyo, ngày 26-12-1971
Lá thư số 317: Tokyo, ngày 26-12-1971
Tokyo, ngày 26-12-1971,
Tho thân mến,
Tôi đã không còn ở Hayamaso đã hơn sáu năm rồi, Nhưng rất may tôi đã nhận được thơ của Tho do ông quản lý Hayamaso biết chỗ ở hiện thời của tôi nên đã chuyển giao hộ cho. Tôi rất cám ơn Tho đã chẳng quên tôi và chịu khó viết thơ thăm tôi nơi đất khách. Hiện thời tôi tương đối được mạnh khỏe và vẫn còn dạy ở trường đại học Waseda như thường lệ (nhưng tôi đang nghỉ lễ mùa đông cho đến ngày 8 tháng Giêng năm tới 1972). Ngoài ra chẳng có sự gì thay đổi đáng lo. Xin Tho và anh chị em tín hữu ở quê nhà nên an tâm lo việc sanh sống tốt lành và lo bề tu hành chơn chánh.
Tôi đã không còn ở Hayamaso đã hơn sáu năm rồi, Nhưng rất may tôi đã nhận được thơ của Tho do ông quản lý Hayamaso biết chỗ ở hiện thời của tôi nên đã chuyển giao hộ cho. Tôi rất cám ơn Tho đã chẳng quên tôi và chịu khó viết thơ thăm tôi nơi đất khách. Hiện thời tôi tương đối được mạnh khỏe và vẫn còn dạy ở trường đại học Waseda như thường lệ (nhưng tôi đang nghỉ lễ mùa đông cho đến ngày 8 tháng Giêng năm tới 1972). Ngoài ra chẳng có sự gì thay đổi đáng lo. Xin Tho và anh chị em tín hữu ở quê nhà nên an tâm lo việc sanh sống tốt lành và lo bề tu hành chơn chánh.
Tho ơi! Tình đời, cảnh đời thường hay dời đổi, nhưng đạo Phật, pháp Phật không hề đổi thay, lúc nào cũng vẫn một mực từ bi tế độ đại đồng và nhắm vào mục đích giải thoát kiếp khổ của tất cả chúng sanh. Cho nên đạo Phật, pháp Phật vẫn tồn tại trong đời và vẫn cần yếu cho đời cho đến khi nào người đời không còn những sự đau khổ. Tho nên vững mạnh lòng tín nhiệm đạo Phật, pháp Phật và cố gắng trau luyện thân tâm cho được hết chất phàm ra tánh thánh bất chấp giới hạn thời gian.
Tịnh tâm được tất huệ tâm khai,
Được tịnh tâm là Phật thấy ngay.
Sống động rán tu tâm được tịnh,
Tịnh tâm do chí thoát trần ai.
Tho rán tinh tấn dũng mãnh trên đường đạo hạnh, tôi xin cầu chúc Tho, cả gia đình quyến thuộc và tất cả anh chị em đồng đạo gần xa đều được luôn luôn mạnh lành gặp nhiều may mắn và được sáng tỏ trên đường tu.
Thanh Sĩ
P.B.: Tôi xin gởi kèm theo đây một tấm ảnh của tôi đã chụp gần đây để tặng Tho làm kỷ niệm.
THANH SĨ
Lá thư số 318: Tokyo, ngày 27-12-1971
Lá thư số 318: Tokyo, ngày 27-12-1971
Tokyo, ngày 27-12-1971,
Gởi Trường, Yến
Trường, Yến thân mến,
Trường, Yến thân mến,
Tất cả bức thơ của Trường, Yến ở bên nầy, tôi đã nhận được hết. Tôi rất cám ơn Trường, Yến. Hiện thời tôi vẫn được mạnh khỏe và đang nghỉ lễ mùa đông cho đến ngày 8-1-72 mới đi dạy trở lại ở trường đại học Waseda. Trong một tháng nghỉ lễ mùa đông, nhưng tôi không được rảnh lắm. Những thơ từ của anh chị em còn đọng lại cả mấy trăm cái, mà tôi chưa có hồi đáp được. Tôi chỉ mong anh chị em vui lòng thông cảm cho. Ngoài ra, tôi không biết phải nói gì hơn nữa trong tình trạng của tôi hiện giờ.
Trường, Yến, lòng Trường, Yến tôi rất biết rõ. Trường, Yến rán cố gắng hành đạo chơn chánh và ngày đêm hướng về đức Phật một niềm. Và nên nhớ:
Muốn thấy Phật nên thấy tánh ta,
Lòng ta với Phật chớ cho xa,
Dầu trong sống động tâm luôn tịnh,
Mượn bước trần sang cõi Phật Đà.
Xin chúc Trường, Yến và anh chị em tín hữu ở quê nhà đều được vạn an.
THANH SĨ
Lá thư số 319: Tokyo, ngày 6-1-1972
Lá thư số 319: Tokyo, ngày 6-1-1972
Tokyo, ngày 6-1-1972,
Lệ thân mến,
Hôm nay là mùng 6 Tết ở Nhựt Bổn. Trước ngày Tết nhà nào cũng lo sắm đồ ăn Tết. Do đó ở chợ phố nào cũng đầy người và nhứt là ở nhà hàng bách hóa (Department store) nào cũng rộn rịp kẻ mua người bán đông gấp bội những ngày thường. Tuy nhiên hiện thời đồng Yen lên giá mà đồng đô la xuống giá quá chênh lệch nhau khiến cho ai cũng phải giựt mình và giá hàng hóa vọt lên cao quá số dự đoán của túi tiền mình. Vì thế mà kẻ xem hàng thì nhiều, nhưng người mua hàng thì ít. Cho nên Tết năm nay ở Nhựt không được lòe loẹt như những cái Tết đã qua.
Tiện đây tôi xin báo tin cho Lệ được rõ là vào ngày 28-12-1971 tôi đã nhận được hai ngàn cái bánh tráng do ông bạn quen đã trao tận tay tôi. (Trước khi nhận bánh, vì muốn biết rõ số bánh nên tôi đã hỏi là bao nhiêu? Thì ông bạn ấy trả lời rằng chỉ hai ngàn cái). Tôi rất cám ơn Lệ, anh chị em đồng đạo và Bà Mười ở quê nhà đã tận tâm giúp đỡ tôi trước sau như một. (Xin Lệ vui lòng chuyển hộ tôi tin nầy cho Bà Mười được biết để an lòng).
Hiện thời tôi vẫn được mạnh khỏe và cuộc nghỉ lễ mùa đông sắp hết, tôi sẽ phải đi dạy trở lại ở trường đại học Waseda vào ngày 8-1-1972 tới đây. Ngoài ra, chẳng có sự gì thay đổi đáng lo. Xin Lệ, anh chị em tín hữu và Bà Mười ở quê nhà nên yên trí và nhứt tâm đoàn kết trên đường tu hành chơn chánh, sống có lương tâm.
Gắn liền tâm Phật với tâm người,
Khổ cùng chia sớt, lạc cùng vui,
Đời hòa nhân, đạo tu hòa Phật,
Đạo với đời nên xử tốt tươi.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin cầu chúc cho Lệ, cả gia quyến, tất cả anh chị em tín hữu gần xa và Bà Mười ở quê nhà đều được luôn luôn bình an mạnh lành và tu hành sáng suốt.
THANH SĨ
Lá thư số 320: Tokyo, ngày 12-1-1972
Lá thư số 320: Tokyo, ngày 12-1-1972
Tokyo, ngày 12-1-1972,
Gởi Việt Hồng
Việt Hồng thân mến,
Việt Hồng thân mến,
Tôi đã được thơ của Việt Hồng. Tôi rất cám ơn Việt Hồng đã có lòng tưởng đến tôi và viết thơ thăm tôi nơi xứ xa vạn dặm. Dầu đang ở hải ngoại, nhưng cảnh nước tình nhà lúc nào tôi cũng để tai mắt nghe thấy đến luôn. Tôi cũng rất đau buồn như Việt Hồng về nội tình của đạo, Đảng cũng như của nước nhà, những kẻ đua chen danh lợi càng lúc càng nhiều, còn người thật tâm liêm chánh đạo nghĩa tu hành nhân thiện càng ngày càng ít. Nhứt là rất ít người yêu nước trước hơn yêu mình, mà là đa số người chỉ yêu mình trước hơn yêu nước, và có đủ mánh khóe lợi dụng việc nước cho đời tư của mình là phần đông. Đó là một trong những nguyên nhân ác hại phân hóa và đố kỵ giữa nhau từ bộ phận nhỏ đến bộ phận lớn trong đạo, Đảng và quốc gia.
Tôi thấy rằng việc đạo, Đảng cũng như việc quốc gia là việc trọng đại trên hết, mọi người cần phải chung lo nghĩ và chung sức làm, thì ở trong tình trạng nào, cũng có thể giải quyết được và cùng chung an vui hạnh phúc được.
Nước cao đạo cả chung nhau,
Riêng phái riêng thân chỉ khổ sầu,
Bất nghĩa nay vinh mai thọ nhục,
Lưới trời chẳng lọt một ai đâu.
Vắn tắt có mấy lời, tôi xin cầu chúc cho Việt Hồng, cả gia đình thân quyến và tất cả anh chị em tín hữu gần xa ở quê nhà được luôn luôn bình an mạnh lành và trên đường tu hành được có nhiều phước huệ.
THANH SĨ
Lá thư số 321: Tokyo, ngày 28-1-1972
Lá thư số 321: Tokyo, ngày 28-1-1972
Tokyo, ngày 28-1-1972,
Xuân Nhâm Tý 1972
XUÂN NHÂM TÝ
Trường, Yến thân mến,
XUÂN NHÂM TÝ
Trường, Yến thân mến,
Chúc cho Trường, Yến mỗi Xuân sang,
Mỗi được tăng cao mức đạo tràng,
Xác tục trau tâm Bồ tát Phật,
Ngọn đèn trí huệ sớm khai quang.
THANH SĨ
Lá thư số 322: Tokyo, ngày 26-2-1972
Lá thư số 322: Tokyo, ngày 26-2-1972
Tokyo, ngày 26-2-1972,
Thưa Má,
Thơ nhà ở bên nầy con đã nhận được. Được tin Má vẫn mạnh khỏe và anh chị em đồng đạo gần xa vẫn được bình an thì con thấy yên tâm một phần lớn. Thưa Má, cái Tết năm nay anh chị em tín hữu gần xa đã có đến viếng đông không? Phong cảnh Tết vui buồn như thế nào? Và có sự gì thay đổi đáng lo không? Ở bên nầy hôm Tết (ta) bị tuyết rơi liên tiếp mấy ngày, không đi đâu được, mặc dù có nhiều chỗ mời đi ăn Tết. Nói tóm lại, cái Tết năm nay ở Nhựt chẳng có một tí gì vui.
Thơ nhà ở bên nầy con đã nhận được. Được tin Má vẫn mạnh khỏe và anh chị em đồng đạo gần xa vẫn được bình an thì con thấy yên tâm một phần lớn. Thưa Má, cái Tết năm nay anh chị em tín hữu gần xa đã có đến viếng đông không? Phong cảnh Tết vui buồn như thế nào? Và có sự gì thay đổi đáng lo không? Ở bên nầy hôm Tết (ta) bị tuyết rơi liên tiếp mấy ngày, không đi đâu được, mặc dù có nhiều chỗ mời đi ăn Tết. Nói tóm lại, cái Tết năm nay ở Nhựt chẳng có một tí gì vui.
Thưa Má, năm cũ qua là năm mới đến, từ xưa nay vẫn như vậy không thay đổi. Nhưng đã hơn 1/4 thế kỷ nước Việt Nam nằm trong cảnh loạn lạc chiến tranh, cho nên hầu hết dân chúng chỉ muốn có cái năm mới thật sự hòa bình hạnh phúc đến cho đất nước dân tộc mà thôi. Con cảm thấy như vậy. Và chính con cũng hằng muốn như vậy. Chớ không muốn kéo dài cảnh tang tóc đau thương. Vì rằng nếu có hòa bình hạnh phúc thì đất nước dân tộc mới có được sự giàu mạnh tự do.
Hòa bình không, tất hạnh phúc không,
Hạnh phúc hòa bình cả nước mong,
Muốn được mạnh giàu như các nước,
Toàn dân yêu nước phải chung lòng.
Con thiết nghĩ như thế, và con hy vọng sớm được trở nên như thế, để cho khói lửa trời Nam được tan đi, đất nước dân tộc Việt Nam được trở nên hòa hợp vui tươi sáng sủa. Thưa Má, về mặt đạo pháp, thì con xin Má chuyển hộ lời khuyến khích anh chị em đồng đạo khắp nơi rán kiên cố đức tin, cố gắng tu hành chơn chánh cho đạo được sáng và đời được thơm. Đừng vì dục vọng vật chất trong nhứt thời mà để cho cuộc đời chìm sâu trong địa ngục.
Sống đời nhưng chớ có mê đời,
Mê đời chỉ khổ đọa người thôi.
Hãy nên tin Phật lo hành đạo,
Hành đạo mới là hết nổi trôi.
Vắn tắt có mấy lời, con cầu xin chư vị Phật Thần hộ độ Má được luôn luôn mạnh lành sáng suốt. Xin Má trao lời con thăm tất cả anh chị em tín hữu gần xa.
Con của Má
Lá thư số 323: Tokyo, ngày 3-12-1972
Lá thư số 323: Tokyo, ngày 3-12-1972
Tokyo, ngày 3-12-1972,
Gởi Trường, Yến
Trường, Yến thân mến,
Trường, Yến thân mến,
Chắc Trường, Yến đã nghe tin tôi bịnh chớ? Trong khi giảng bài tại đại học, thình lình tôi bị ngã xỉu. Tôi đã vào nằm bịnh viện từ hôm 30-4 (1972) cho tới nay, tính ra đã hơn 7 tháng rồi. Bịnh trạng trong người tôi hiện giờ chỉ còn một ít thôi, nhưng còn ốm lắm, cho nên tôi phải nằm điều dưỡng một lúc nữa cho thật lành mạnh.
Đây là bịnh viện (Kokumitsu: Tokyo Daini Byoin) của chánh phủ Nhựt Bổn có đủ phương tiện cho sự điều dưỡng và các bác sĩ cũng như y tá đều tận tâm săn sóc cho mỗi ngày. Nhờ thế mà mặc dầu nằm ở đây hơi lâu nhưng chẳng có sự gì phải lo ngại. Xin Trường, Yến và anh chị em tín hữu ở quê nhà nên an lòng. Đồng thời, hãy nên cùng nhau một dạ thỉ chung như nhứt, vững mạnh đức tin, phụng hành đạo pháp cho được trí đức viên khai, Phật quả đắc thành như thiện nguyện.
Đặt đạo tâm trên vạn sự đời,
Luyện tâm cho thấy tợ gương soi,
Sống đời mê loạn mà luôn giác,
Giác hết khổ đời mới chịu thôi.
Vì còn nằm trên giường bịnh trong người còn yếu và với điều kiện ở bịnh viện không cho phép viết dài, tôi xin ngưng bút và xin hẹn ở những bức thơ khác. Tôi xin chúc cho Trường, Yến, cả gia quyến và tất cả anh chị em tín hữu ở quê nhà đều được vạn sự an lành và tu hành sáng suốt.
Thanh Sĩ
P.B.: Vì đã vào nằm bịnh viện nên tôi không còn ở chỗ cũ nữa hãy tạm thời gởi thơ cho tôi theo địa chỉ dưới đây:
Mr. Kiyoshi T.D. Nhứt c/o Nagafruchi Jchiro
N= 39-16-1 chome Fukajawa
Setagayaku,: Tokyo, Japan.
THANH SĨ
Lá thư số 324: Tokyo, ngày 5-12-1972
Lá thư số 324: Tokyo, ngày 5-12-1972
Tokyo, ngày 5-12-1972,
Hường thân mến,
Lấy đạo làm thuyền vượt bể mê,
Kiếp nầy cõi Phật nguyện trao về
Ở đời vẫn sống trong lòng đạo,
Chín phẩm tòa sen có thuở kề.
Lấy đạo làm thuyền vượt bể mê,
Kiếp nầy cõi Phật nguyện trao về
Ở đời vẫn sống trong lòng đạo,
Chín phẩm tòa sen có thuở kề.
THANH SĨ
Lá thư số 325: Tokyo, ngày 16-12-1972
Lá thư số 325: Tokyo, ngày 16-12-1972
Tokyo, ngày 16-12-1972,
Lệ thân mến,
Tôi đã nhận được thơ của Lệ. Tôi rất cám ơn Lệ đã có lòng cầu nguyện cho tôi sớm được lành bịnh. Hiện thời tôi vẫn còn nằm trong bịnh viện, hôm nay bịnh trong người cũng đã được giảm nhiều rồi, nhưng còn ốm lắm mất mười ký. Thế nên tôi còn cần phải điều dưỡng trong một thời gian nữa cho thật hết bịnh và được phục hồi sức khỏe như xưa. Đây là bịnh viện của chánh phủ rất lớn, có đủ phương tiện cho sự điều dưỡng và các bác sĩ cũng như y tá đều tận tâm chăm sóc cho mỗi ngày. Nhờ vậy mà được an ủi nhiều, mặc dầu nằm đây hơi lâu. Xin Lệ và anh chị em ở quê nhà cũng như Bà Mười nên an tâm.
Tôi đã nhận được thơ của Lệ. Tôi rất cám ơn Lệ đã có lòng cầu nguyện cho tôi sớm được lành bịnh. Hiện thời tôi vẫn còn nằm trong bịnh viện, hôm nay bịnh trong người cũng đã được giảm nhiều rồi, nhưng còn ốm lắm mất mười ký. Thế nên tôi còn cần phải điều dưỡng trong một thời gian nữa cho thật hết bịnh và được phục hồi sức khỏe như xưa. Đây là bịnh viện của chánh phủ rất lớn, có đủ phương tiện cho sự điều dưỡng và các bác sĩ cũng như y tá đều tận tâm chăm sóc cho mỗi ngày. Nhờ vậy mà được an ủi nhiều, mặc dầu nằm đây hơi lâu. Xin Lệ và anh chị em ở quê nhà cũng như Bà Mười nên an tâm.
Tôi xin báo cho Lệ được biết là hai gói quà tôi đã nhận được (một gói 1400 cái) do bà Minh và ông đại diện đến tận bịnh viện trao lại cho tôi. Tôi thành thật cám ơn Lệ, Phổ, tất cả anh chị em tín hữu và Bà Mười ở quê nhà tận tâm lo liệu giúp đỡ tôi không ngừng. Chắc Lệ đã nghe biết lý do tại sao suốt bốn, năm tháng trời tôi không viết thơ về cho ai cả, là vì chính trong lúc đó tôi đang nằm liệt trên giường bịnh không một bước xuống đất không được động đậy nhiều và tất cả sự ăn uống sự đại tiện đều phải nhờ kháng hộ giúp cho suốt cả ngày đêm.
Bác sĩ cấm không cho ai vào thăm cả, chỉ trừ những người đặc biệt lắm mới được phép vào thăm mà thôi, nhưng chỉ trong vòng đôi ba phút là phải đi ra ngay không được ở lâu và cũng không được nói chuyện nhiều. Nói thế là Lệ đã biết là bịnh nặng đến ngần nào rồi, như vậy thì còn viết thơ từ gì được! Chính mấy anh sinh viên Nhựt (mà Lệ đã đề cập trong thơ đó) trước khi đi Việt Nam mấy anh em nầy, hồi năm ngoái đã có gặp tôi tại nhà một người bạn đồng nghiệp của tôi (mấy anh em nầy là học trò của người bạn nầy) và đã có hỏi ý kiến tôi khi đi Việt Nam nên đi khu vực nào là tốt nhứt, tôi chưa kịp trả lời thì ông bạn đồng nghiệp đã bảo rằng nên đi xem khu vực Phật Giáo Hòa Hảo của Sensei là tốt nhứt và sẽ được an toàn hơn hết.
Sau khi mấy anh em (sinh viên) này từ Việt Nam trở về thì tôi đã vào nằm trong bịnh viện rồi, họ xin vào thăm nhưng không được. Họ có nhờ kháng hộ cắt mười móng tay, mười móng chân và một mớ tóc của tôi để họ mang về chùa ở: Tokyo lập đàn cầu nguyện cho tôi được mau bịnh tật tiêu trừ.
Thật là mấy anh nầy có nhiệt tâm tín ngưỡng như anh em tín ngưỡng của mình vậy. Thấy thế tôi rất cảm động! Sau khi trở về Nhựt Bổn, mấy anh bạn nầy đến gặp ngay ông bạn đồng nghiệp của tôi, họ không ngớt lời khen ngợi tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo rất tốt và các khu vực Phật Giáo Hòa Hảo rất an ninh phong phú mặc dù hơn hai mươi năm trong tình trạng đất nước Việt Nam bị chiến tranh liên tiếp. Mấy anh em nầy chưa viết thơ cho Lệ Có lẽ vì họ chưa được vào thăm tôi và cũng chưa được hỏi thăm về đạo Phật Giáo Hòa Hảo đấy.
Còn vấn đề phục hưng tái thiết Việt Nam sau chiến tranh thì chánh phủ Nhựt cũng như các nhà tư bản Nhựt đang nơm nớp muốn góp phần vào đấy. Hiện thời họ đang tích cực nghiên cứu kế sách thích đáng cho không bị mất thiện cảm dân tộc và cũng để không bị nghi ngờ xâm lược kinh tế. Ông Sumo (lực sĩ) to tướng Nhựt liệu người bé nhỏ Việt Nam có đủ miếng thế để chơi với ổng không đây. Không khéo thì bị cái bụng khổng lồ của ổng làm cho mệt người, chớ đừng tưởng dễ ăn đâu. Nhờ vậy mà chẳng ỷ lại, hãy biết tự lực làm trước là thiện sách hơn hết. Tôi thiết nghĩ như vậy.
Còn tôm Nhựt có nhiều nhưng họ phải nhập cảng thêm, họ mua tôm trên 60 nước. Năm nay Nhựt nhập cảng tôm trên 90 ngàn tấn. Hiện thời Nhựt đang xúc tiến mạnh vấn đề nuôi cá nuôi tôm, họ đã được đại thành công, nhưng tổn phí nhiều quá, thành ra giá cả vẫn còn mắc lắm.
Vắn tắt có mấy lời, tôi cầu chúc Lệ, anh chị em tín hữu và Bà Mười ở quê nhà đều được bình an.
THANH SĨ
Lá thư số 326: Tokyo, ngày 6-2-1973
Lá thư số 326: Tokyo, ngày 6-2-1973
Tokyo, ngày 6-2-1973,
Tết Quí Sửu 1973 (Bài Thi chúc xuân cuối đời của Ngài Thanh Sĩ)
Tết Quí Sửu
Cảnh Nho thân mến,
Chúc Nho năm mới suốt năm vui,
Đời hết úa xào đạo thắm tươi,
Gánh nặng hồng trần ngày một nhẹ,
Bước chân hướng Phật kịp muôn người.
P.B.: Tôi vẫn còn nằm trong bịnh viện. Bịnh tình đã khá nhẹ mỗi ngày, nhưng vẫn còn tiếp tục điều dưỡng cho thật được bình phục.
Tết Quí Sửu
Cảnh Nho thân mến,
Chúc Nho năm mới suốt năm vui,
Đời hết úa xào đạo thắm tươi,
Gánh nặng hồng trần ngày một nhẹ,
Bước chân hướng Phật kịp muôn người.
P.B.: Tôi vẫn còn nằm trong bịnh viện. Bịnh tình đã khá nhẹ mỗi ngày, nhưng vẫn còn tiếp tục điều dưỡng cho thật được bình phục.
THANH SĨ
Lá thư số 327: Tokyo, ngày 27-1-1973
Lá thư số 327: Tokyo, ngày 27-1-1973
Tokyo, ngày 27-1-1973,
Xuân Quí Sửu 1973
CHÚC XUÂN QUÍ SỬU
Trường, Yến thân mến,
Năm Quí Sửu đáo lai,
Chúc già trẻ gái trai,
Đồng tâm lo xây đắp,
Nền Phật pháp rộng khai.
---
VỌNG XUÂN NAM BẮC
Đồng bào Nam, Trung, Bắc,
Tình Hòa Hảo thắt chặt,
Chấm dứt họa nồi da,
Lửa chiến tranh thật tắt.
---
VỌNG XUÂN HÒA BÌNH
Kim niên Xuân có lai trình,
Xin mang thật sự hòa bình cho dân,
Nhớ chăng tôi đã bao lần!
Van Xuân chớ có phụ dân muôn cầu.
Cầu mong khắp cả đâu đâu,
Mừng Xuân thống nhứt trong bầu trời thanh,
Không còn thẹn với sử xanh.
CHÚC XUÂN QUÍ SỬU
Trường, Yến thân mến,
Năm Quí Sửu đáo lai,
Chúc già trẻ gái trai,
Đồng tâm lo xây đắp,
Nền Phật pháp rộng khai.
---
VỌNG XUÂN NAM BẮC
Đồng bào Nam, Trung, Bắc,
Tình Hòa Hảo thắt chặt,
Chấm dứt họa nồi da,
Lửa chiến tranh thật tắt.
---
VỌNG XUÂN HÒA BÌNH
Kim niên Xuân có lai trình,
Xin mang thật sự hòa bình cho dân,
Nhớ chăng tôi đã bao lần!
Van Xuân chớ có phụ dân muôn cầu.
Cầu mong khắp cả đâu đâu,
Mừng Xuân thống nhứt trong bầu trời thanh,
Không còn thẹn với sử xanh.
THANH SĨ