Thi Lục -Thanh Sĩ

Thi Lục - Thanh Sĩ

LỜI NÓI ĐẦU

LÒI NÓI ĐẦU


sau khi quyển "Lá Thư Đông Kinh" ra đời, gồm sưu tập những văn phẩm của ông Thanh Sĩ từ khi xuất ngoại sang Đông Kinh năm 1955 cho đến năm 1973, chúng tôi theo sự yêu cầu của số đông độc giả tín hữu, hôm nay cho xuất bản tiếp quyển "THI LỤC" nầy, kết tập những thi phẩm của ông Thanh Sĩ từ năm Mậu Tý 1948 ông ra đời thuyết pháp cho đến năm 1955 ông xuất ngoại.

Việc sưu tập quyển THI LỤC nầy cũng khá vất vả, vì rằng trong 7 năm (1948-1955), Ngoài thuyết pháp ứng khẩu, ông Thanh Sĩ còn tặng thi và cho thi bài rất nhiều, nhưng rất tiếc, vì không được ghi chép hay ghi âm nên tản mác một nơi một mớ.

Quyển THI LỤC này, hôm nay ra mắt được bạn đọc, cũng nhờ nhiều bạn thân kết tập, tức nhiên còn nhiều bài thi chưa được sưu tầm.

Vậy bạn đọc nào còn giữ hay được ông Thanh Sĩ tặng thi mà không thấy đăng trong quyển THI LỤC này, xin vui lòng gửi cho chúng tôi một bản sao để sau này, khi hội được nhiều bài, có thể kết thành một quyển hay bổ sung khi tái bản.

Công trình sáng tác của ông Thanh Sĩ rất phong phú, có thể phân ra làm mấy loại sau đây:
  1. Lời Khuyên Tu Hiền (Châu Thuyết)
  2. Hiển Đạo
  3. Thuyết Pháp Ứng Khẩu
  4. Chú Nghĩa loạt bài huấn luyện đạo đức
  5. Lá Thư Đông Kinh
  6. Thi Lục
  7. Ba Mươi Điều Xử Thế (Những Bổn Phận Của Con Người)
Chúng tôi cố gắng kết tập tất cả thi văn của ông Thanh Sĩ để đáp ứng sự mong cầu của nhiều bạn đọc, muốn có đầy đủ tài liệu hầu nghiêm cứu về tư tưởng của ông, nhứt là để nhận chân pháp môn Học Phật Tu Nhân mà ông đã xiển dương qua các thi văn của ông.

Về phần Hiển Đạo, nếu có đủ phương tiện và cơ duyên, chung tôi sẽ cho tái bản, phụ thêm những phần còn lại, làm thành hai quyển: Nhứt và Nhì.

Về Phần Thuyết Pháp Ứng Khẩu cũng sẽ cho tái bản và phụ thêm những bài thuyết pháp ứng khẩu trong năm Giáp Ngọ (1954) làm thành một quyển.

Về phần Lá Thư Đông Kinh sẽ cho xuất bản tiếp quyển thứ hai và có thể in thêm quyển thứ ba nếu sự kết tập sau này đầy đủ đóng thành một quyển.

Về Phần Thi Lục sau đây là quyển nhất và nếu sau này kết tập được nhiều thêm sẽ cho xuất bản quyển hai.

Như thế chúng ta sẽ có toàn bộ Thi Văn của ông Thanh Sĩ.

Công trình xuất bản vĩ đại này có thực hiện được chăng trong tương lai cũng do sự đóng góp tài liệu và giúp đỡ của quí bạn.

Trân trọng
Sài Gòn, ngày 6 tháng 10 năm 1973
THIỆN DUYÊN


THI LỤC ĐƯỢC CHIA LÀM 3 PHẦN:

I. THI LỤC

1- BÀI THUỐC HUỜN

1- BÀI THUỐC HUỜN


Trời dông bão tứ phương mây phủ,
Trống canh ba giấc ngũ mê hồn.
Cảnh mịt mờ trong mộng hoàn hôn,
Khắp chốn chốn đưa hồn mây bạc.
Bổng gió thổi mùi hương thơm ngát,
Tiếng chuông vàng kêu tạc bên tai.
Ánh thái dương ửng hiện tây đài,
Đồng mở mắt gái tải thức giấc.
Toà sen báu không trung chói rực,
Phật hào quang phóng rọi trùng trùng.
Pháp thần thông mầu nhiệm thung dung,
Khai huyền diệu trường trung thuyết pháp.
Phật Tiên Thánh thượng ngươn khai lập,
Máy hư linh sửa tập dương trần.
Hội công đồng ba cõi định phân,
Đồng ban thưởng công thần xứng vị.
Đất tịnh độ sau nhiều vật quí,
Người chân tu rất phỉ lời nguyền.
Nay ruộng đồng sau lập nhà Tiên,
Khắp nam nữ vui miền Nam quốc.
Kho tàng tích đủ đầy vật thực,
Của Phật Trời sắp đặt để dành.
Thức dậy rồi phủi sạch phàm sanh,
Xem cảnh vật đành rành các việc.
Lập chánh pháp thanh minh tinh khiết,
Khắp đâu đâu tánh thiệt không dời.
Đời thượng ngươn nhiều chỗ thảnh thơi,
Nói sơ lược sau thời nhiều nữa.
Bài thuốc hườn nọi trong bảy bửa,
Phải phân danh tánh dược đủ tình.
Thuốc hườn này tánh rất thông minh,
Một vị thuốc trường sanh đứng trước.
Thuốc hườn ngọt có đường có nước,
Nam kỳ hương ôn dược thêm vào.
Uống thuốc này chẳng có bổ mau,
Rán bền uống ngày sau mới bổ.
Vị từ bi không khi ái ố,
Giữ lòng thanh được trổ bông vàng.
Vị thuốc này bổ tại tâm can;
Coi rẻ vậy đổi vàng không đổi,
Thứ trần bì lột da lốt cổi,
Ruột quýt đường bổ phổi thường thường,
Cái thứ này mạt Trụ đời Thương,
Lập chánh lại Võ Vương miên viễn,
Nhiều thứ thuốc đem vào chế biến,
Đặng ngày sau để tiếng biên thuỳ;
Thứ nghệ vàng dụng nó y-nguy,
Thoa săn thịt đợi kỳ dở bội,
Ngải với nghệ tắm giồi sớm tối,
Đầy đủ rồi ôm tới tại trường.
Thuốc hườn này chất nó hiền lương,
Không hung dữ vì đường Cần Giọt.
Thứ đường lớn cần nhiều chất ngọt,
Nên không hề nổi bọt chua lè.
Thân quá nghèo quần áo tua te,
Cổi bỏ phế ngoài hè ngoài chái.
Nói dong dài thuốc hườn hiệp lại,
Rốt cuộc rồi còn cái vị xưa,
Nhờ ơn trên ban rải phước thừa,
Cho nam nữ sớm trưa tập luyện.
Cảnh Tây Phương Di Đà vận chuyển,
Ngự liên đài phóng điễn xuống trần;
Dụng thần thông cho khắp chúng dân,
Đều được hột sen vàng quý báu.
Đấng thần minh khai thông chánh đạo,
Tỏ huyền cơ chỉ bảo đường về;
Nay sen vàng gần hiệp kiểng quê,
Khắp quê xứ hầu kề nảy nở,
Chốn Liên Trì hào quang rực rỡ,
Vận thời hưng khó thở nhẹ nhàng;
Nhắn chư hiền mau khá sửa sang,
Có sen báo lên đàng nhẹ bước.
Nơi cầu ngân đợi con Ô Thước,
Bắc cầu rồi chạy lướt giang hà;
Nơi rừng tòng hát khải hoàn ca,
Chốn u tịch nhàn ca trăm họ.
Vui quá vui nữ nam lớn nhỏ,
Rán đi xem đừng bỏ hội này.
Hội Phật Tiên Thần Thánh Đông Tây,
Hội vui vẻ tớ Thầy hiệp mặt,
Hội tất cả vạn dân Nam Bắc,
Hội muôn chim giéo giắt trên cành.
Hội muôn loài điểu thú rừng xanh,
Hội vui vẻ trai lành gái tín.
Đây đến cảnh Bồ Đề thanh tịnh,
Cõi thượng ngươn hưởng cảnh thanh nhàn;
Đời thái bình đồng hưởng lạc hoan,
Đời thong thả bạc vàng đầy đống,
Đời không làm có ăn không vọng,
Đời từ bi thương giống thương nòi;
Sạch bụi trần gương sáng chiếu soi,
Lòng bác ái đầy nơi Phật Đạo.
Mùa Thu Năm Đinh Hợi 1947
Ông Hai Bụng làm thuốc hườn, lời quảng cáo của Ông Thanh Sĩ)
2- KHAI TÀNG BỬU NỘI

2- KHAI TÀNG BỬU NỘI


Tặng Thiện Duyên
Rỉ lằn mực bày nguồn bích thuỷ,
Gõ chuông linh rẽ lý tâm trường;
Cảnh mịt mờ tuyết xoá phủ sương,
Cây kim bạc dựa nương màu lạt.
Trong thế sự bày trình đích xác,
Lấy tâm linh lường xét mọi điều.
Mạnh mẽ lòng đèn trí quyết khêu,
Tìm chí lý hoạ thêu tánh đức.
Làm công chánh Thần minh tiếp sức,
Khải hoàn gia nô nức tiếng đồn,
Đeo trước hình quang cảnh Phật môn,
Bảo giác tánh linh tri thời thế.
Gội nhuần ơn Phật Ban phước huệ,
Tỏ khúc chi khai ngộ đạo mầu.
Lấy tin thần mạnh bạo làm đầu,
Thời kiến giải thạnh suy vận hậu.
Biện chơn lý bại thành dễ thấu,
Do lằn mưa nắng lửa nào còn;
Trí tỉnh tuồng tạo vẽ hình son,
Nơi hậu thức hình non bóng nước
Việc nên hư do tâm định trước,
Tùy theo căn tội phước tác thành ;
Cậy sức mình giữa lúc năm canh
Đốt trăm ngọn đuốc minh tỏ rõ.
Xem cả thế coi đầy lớn nhỏ,
Dường thế ni các ngõ là gì?
Cục đen xì thì cũng đen xì,
Khó mà dụng minh tri Nhật Nguyệt.
Trong một ít rồi đây sẽ biết,
Những thời cơ giả thiệt thế nào,
Gắng công tâm đúc tắm bia hào,
Để nhìn thấy vàng thao lẫn lộn.
Sợ là sợ trong ngày hỗn độn,
Lo là lo mất vốn không còn,
Đá mài dao năng liếc năng mòn,
Thời vận bỉ thon gọn lòng dạ.
Sợ là sợ cho người mặt lạ,
Ghê là ghê thói chạ mặt rằn,
Phải dùng lòng căn bản đỡ ngăn,
Rồi hạnh phúc quy căn nhất trí.
Ngày hàng ngày lấy làm xét kỹ,
Phân minh rà chân lý rạch ròi,
Những hai điều không có xem coi,
Rồi ngộ được hình voi chẳng ngại.
Rốt hạnh lành đức tài hiệp lại,
Qui ngươn duyên quảng ái tông truyền,
Lượng theo lời nghĩ kỹ tự nhiên,
Sẽ tỏ khúc bổn nguyên bản tánh.
Xét lý chơn ngõ hành tâm chánh,
Tìm công xưa cứu cánh đời này,
Trong bổn tuồng lý nhiệm vần xoay,
Khá suy thấu Đông, Tây thành tựu.
Thiên nguyện ký tâm thành hựu hựu,
Phật Thánh Tiên vãn cứu hậu tồn,
Phúc chí tâm đức tánh chí môn,
Đáo Cực Lạc Phật tôn chứng thệ.

THI

Thời cơ đưa lại cũng gần đây,
Gắng chí lo toan rõ sự này,
Cố thủ tâm lành nưng đỡ gánh,
Gìn xong tánh nghĩa vác muôn cây.
Có rồi thấu việc thiên sanh biến,
Không thế chưa tường pháp nhiệm hay,
Vận thời thêm lụy cho phàm hạ,
Muốn thảm Nhơn sanh một thuở này.
(7-4-1948 Phú Lâm)
3- NÃY GIỜ PHẬT CÓ VỀ ĐÂY CHĂNG

3- NÃY GIỜ PHẬT CÓ VỀ ĐÂY CHĂNG

Phật đâu đi lại Phật nơi nhà,
Phật vốn tại lòng của chúng ta,
Trí được tịnh thanh là phật ở,
Tâm còn xao động Phật liền xa,
Nghe lời quyến rũ lòng không nhiễm,
Thế sắt mơn man dạ chẳng tà.
Đi đứng nằm ngồi cần tưởng chánh,
Thường hành bình đẳng kiến Ma Ha.
Mãi mãi tịnh lòng thế mới hay,
Nằm ngồi đi đứng chẳng tà tây.
Tính giờ tịnh khắc hơn ngồi thất,
Làm phật làm Thần giữ cách đây.
Đừng tưởng ngồi thiền lòng được lặng,
Chớ làm nhập định đánh không lai.
Phải tường ở chỗ thường huyên náo,
Lòng vẫn tỉnh luôn trí huệ khai.


Tịnh chỗ nói làm tịnh với ta,
Tịnh không tính ác nói năng tà.
Tịnh non chẳng đứng gương Từ Thị,
Tịnh thất không phù Đạo Thích Ca.
Tịnh thể Trường Sanh tầm điếm lữ,
Tịnh như Đạt-Mạ tách rừng già,
Tịnh bồ đề tánh câu vô ngại,
Tịnh vớt nhơn sanh khỏi ái hà.
(10-4-1948 Phú Lâm)
4- THAN ĐỜI

4- THAN ĐỜI

Nhìn thế sự biết bao giọt lụy,
Thương đồng bào tâm sĩ rối nùi,
Ôi ! đời chưa được mừng vui,
Nhìn xem thế sự ngậm ngùi ruột gan.
Cũng bởi vì bạo tàn đục cảnh,
Làm lương dân chịu cảnh đao binh,
Than ôi ! thảm thiết muôn nghìn,
Vì đời tận diệt biết mình làm sao.
Ngó dân sự máu đào chảy đọng,
Cảm tình thương luôn đống quốc gia,
Này ai yêu mến san hà,
Đem lòng Trung Nghĩa một nhà Lạc Long.
Hãy tĩnh xét cho dòng cho giống,
Tầm mưu cơ giữ sống cho nhau,
Than ôi! nhìn thấy đồng bào,
Hết tai rồi hoạ xáo xào thân chung.
Ấy cũng bởi xưng hùng xưng bá,
Làm cho dân khổ hạ biết bao,
Gan trung chua xót héo xào,
Tấm lòng nghĩa khí dễ nào lợt phai.
Ngó dân sự đoạ đầy khốn khổ,
Cả muôn loài chịu chổ tan tành,
Số thiên nhứt định đã đành,
Do câu mạnh yếu chẳng lành đớn đau.
Nghe tiếng khóc đồng bào cảm động,
Đám mây mù đâu bổng bủa giăng,
Than ôi! Thiện ác chắc rằng,
Đến nay báo ứng đạo hằng không sai.
Cất tiếng gọi trần ai tỉnh thức,
Dụng tinh thần đạo đức trở về,
Từ đây nước lửa tràn trề,
Binh đao tràn ngập ê hề thây thi.
Ấy cũng bởi thời kỳ tận diệt,
Làm nhiều điều thảm thiết lương dân,
Đói đau cuộc thế hậu gần,
Cơ trời xoay chuyển cõi trần ngày nay.
Càng siết chặt nhiều ngày khổ não,
Nỗi xoay đưa nền đạo hân hoan.
Có chi sánh kịp Phật đàng,
Đến ngày kết cuộc vén màng non Vu,
Nhiều minh nghĩa đền bù quốc thể,
Lắm anh tài bảo vệ non sông,
Sấm vang rõ biết rừng tòng,
Điễn quang chớp nhoáng Lạc Hồng khởi phong.
Sẽ rõ biết Hoa Long Đại Hội,
Cân công bình chẳng mối vị tư,
Hỡi ai trú tín lương từ,
Phen này gắn bó dần dừ không nên.
Phải mạnh mẽ giữ nền đạo đức,
Ngày khải hoàn chầu trực bệ đơn,
Xem coi đến việc Thất Sơn,
Hào quang Phật hiện nghe đờn trên mây.
Hỏi này ai thương Thầy mến đạo,
Một lòng hiền hiếu thảo đừng quên,
Long Hoa riết đến cho bền,
Rõ ràng Bảy Núi lầu đền nguy nga.
Nay than thở ta bà thậm khổ,
Nhưng lực Trời cầm sổ định phân,
Bạo tàng nó phải đáp nhân,
Hiền lương trả quả Thánh Thần sẽ soi.
Than ôi! sắp khởi ngòi chiến quốc,
Vận Nam bang quả đất Trung Ương.
Ngày sau dân sự chật đường,
Thất Sơn đồng lớn chiến trường gớm ghê.
Kẻ ác đức chịu bề khói lửa,
Nỗi đao binh chan chứa một bầu,
Từ nay đến việc không lâu,
Tu đừng mạnh yếu nạn sầu bên lưng.
Phật Tiên Thánh mấy từng mây bạc,
Lìa vị ngôi thừa hạc phàm gian,
Thiêng liêng Phật định vén màn,
Đủ đầy màu nhiệm pháp tràng trị dân.
Nay thế cuộc lắm lần tai họa,
Hỡi còn gieo kiếp đoạ hiền trung,
Ngó dân nước mắt nhỏ ròng,
Cầu trên Tiên Phật cứu dòng Âu Cơ.
Cho khỏi đám mây mờ che đậy,
Xin thứ dung kẻ quấy đồng bào,
Độ người trung trực ngày sau,
Hưởng ân quốc thới chỗ nào ước mong.
Tùy theo hữu đức hữu công,
Ban cho xứng vị ước mong bấy chầy.
Ngày chung cuộc tớ Thầy hội ngộ,
Nhờ oai linh Phật Tổ độ đời,
Cửu huyền thất tổ nơi nơi,
Nhờ ơn cứu rỗi hưởng đời Thanh Tân.
Xem rõ biết phong thần dựng bảng,
Hội mây rồng tỏa rạng non thiều,
Chư Tiên hưởng cảnh tiêu diêu,
Đờn ca sáo thổi thêm nhiều báu xinh.
Sẽ đến lúc Long Đình hội yến,
Trên Thiên Nhan ban thưởng tôi Hiền,
Chói ngời đền Ngọc Rồng Tiên,
Muôn thu thạnh Thới trường miên Lạc Hồng.
Than ôi! tiếng chuông đồng đánh thức,
Gọi lòng hiền nô nức kinh luân,
Ngày nay thế cuộc hầu gần,
Ráng mà để dạ ân cần chùi lau.
Long Hoa Hội xem vào quí báu,
Phật Thần thông phản lão huờn đồng,
Kim Liên đua nở núi sông,
Hào Quang Phật rọi dặm hồng ngũ vân.
Ngày nay được hầu gần bệ ngọc,
Rất toại lòng mưa móc gội nhuần,
Ngai vàng chúa Thánh chăn dân,
Rồng chầu hổ phục quần thần kim giai.
Đến chừng đó nước ngoài tùng phục.
Đồng tung hô cầu chúc Minh Vương,
Tuế tăng vạn tuế Thọ Trường,
Khâm tôn chư quốc Hầu Vương trị vì.
Đến chừng đó Châu Kỳ hạnh phúc,
Hiện ngày nay trong đục chưa tường,
Chờ ngày hội hiệp âm dương,
Thì là hậu Hớn tiền Đường bình yên.
(Phú Lâm 5-5-1948)
5- TỰ THÁN

5- TỰ THÁN


Nhớ những kẻ bán rao hồ mị,
Chạnh nỗi niềm tâm Sĩ héo don,
Lòng không màng kể ngọt ngon, 
Huống chi tiền bạc nào còn nhiễm say.
Tâm chẳng dụng sắc tài của thế,
Quyết đưa người khỏi bể trần lao,
Than ôi! trăm sắc ngàn màu,
Tâm hồn hiền sĩ chút nào say sưa.
Dù lắm kẻ thiếu thừa thiêu dệt.
Càng mừng cho trả hết quả căn,
Trong đêm mượn lấy điễn lằn,
Dắt người trần tục khỏi đàn hiểm nguy. 
Dù lắm kẻ vô nghì ngăn trở, 
Chẳng núng nao bỏ dở tu hiền,
Thương đời càng mãi giáo khuyên,
Mến dân mong gỡ xích xiềng cho dân.
Kêu réo kẻ dò lằng bờ bến, 
Nhắc nhở người đừng mến Trần Gian, 
Long Hoa đại hội Nhà Bàng,
Thương thay những kẻ bạo tàn còn chi. 
Nghĩ thế sự sầu bi lắm lúc, 
Nên ra đời giục thúc nhơn sanh,
Khuyên nhau chung một gốc lành,
Chớ nào phân rẻ cội cành chi đâu.
Bỗng gặp lúc mưa sầu gió thảm, 
Làm cho dân rét cảm lạnh lùng,
Hỡi ai tâm dạ hiếu trung, 
Khá suy cho kỹ nghỉ cùng thương nhau.
Hiền Sĩ quyết tẩu đào khỏi tục,
Nào còn say sắc dục chi chi, 
Lòng mong nối gót Từ Bi,
Nương thiền Bát Nhã kịp kỳ qua sông.
Dù gặp lúc gió dông cũng chẳng,
Lúc nao lòng bình đẳng hiền ngu,
Mong sao quét sạch mây mù, 
Bể Trần khô cạn cho cù đằng phi.
Đến chừng đó tu mi hả dạ,
Dứt hồng trần thông thả non Tiên,
Hết câu ái ố não phiền, 
Đâu còn chen lấn nơi miền trần ai. 
Cả muôn họ gặp ngày Hạnh Phúc, 
Khắp bốn phương hát khúc khải hoàn.
Nam mô cầu Phật Tây Phang,
Từ Bi xuống thế dắt đàn chúng sanh.
Tha bớt kẻ khôn lanh quỷ quyệt,
Dung cho người chẳng biết tu hành, 
Cầu trên nhỏ giọt mưa lành, 
Cam lồ Dương liễu một nhành cứu dân. 
Đời ngươn hạ một lần giải thoát,
Cảnh thượng ngươn an lạc nhà nhà,
Sấm vang điện ngọc lộ ra,
Hào quang đức Phật Di Đà sáng Trưng. 
Trên nhạc trổi chín tầng mây bạc,
Dưới điện đài lầu các nguy nga, 
Phật Tiên Thần Thánh hằng hà,
Định phân chư quốc phục hoà từ đây.
Đến chừng đó sum vầy tôi chúa, 
Lúc khải hoàn Thầy tớ xướng ca,
Nam mô hai chữ Di Đà, 
Đâu đâu cũng niệm nhà nhà bình yên. 
(23-8-1948 Mỹ Hội Đông)
6- TÂN XUÂN TỰ THÁN

6- TÂN XUÂN TỰ THÁN

(Bát Ngôn Quá Từ)
Xuân hỏi Xuân! lắng tai nghe cho rõ, 
Giữa canh thâu bóng thỏ quá lu mờ, 
Xuân hỏi Xuân! cành lá luống xơ rơ,
Non bởi thế có hoa đành xào úa.
Biển bị đời nhấp nhô cơn sóng bủa,
Chiếc thuyền đời gặp sóng phải gặp ghình.
Rượu Quỳnh tương chưa cạn chén gia đình, 
Trà mi lại thăm ăn thêm vị báu.
Xuân hỡi xuân! nay đến kỳ niên đáo,
Ta cũng bền lòng chiếc giáo noi gương, 
Mấy xuân rồi ta cách biệt quê hương,
Ta càng bước, bước đường thêm sành sỏi. 
Đủ lực lượng chớ dễ nào mệt mỏi,
Xuân có về nhắn hỏi với trần quân?
Kìa chị Hằng đi đâu vắng hỡi Xuân, 
Kề tai lại dặn chừng thêm đôi tiếng.
Nghe dịu giọng phù trầm rồi xanh biến,
Khắp địa cầu xao xuyến bởi vân phong.
Máu hận lòng sùi sục ở bên trong, 
Giọt nước thảm bể kia lường cũng kém.
Đời sao nỡ cửa nhà đem quăng ném, 
Vinh chi người chồng chắc mãi thêm tên, 
Cơm đâu ăn mà đi nở vội quên, 
Đất đâu ở Nghĩa xưa đành chẳng nhớ. 
Xuân hỡi Xuân! buồn lòng nên than thở,
Một bóng hình thơ thẳng giữa canh thâu,
Non vì ai mà non phải bạc đầu, 
Biển bởi thế mặt sầu đành nhăn nhó. 
Từ kim Thạch cho đến loài cây cỏ, 
Ta cũng đau lòng giữa cảnh thế ni, 
Nhắn ít lời gọi các bạn cố tri, 
Bài tiệc rượu ngâm thi cùng Lữ Thái.
Nghe điệu giọng phù trầm thêm hăng hái, 
Nước đổ nghiêng ráng hốt lại cho đầy,
bóng Lạc Hồng chắp cánh có liên dây, 
Mong Kim Phụng hiệp vầy nơi bửu cát.
Càng nhắc đến lòng ta dường tan nát, 
Tạo công ôi! ông tráo chác nghiệt cay,
Cảnh thương tâm trạng thái cứ diễn hoài, 
Làm cho cả hiền tài thân vùi lấp,
Mãi chất chứa mối buồn sầu ôm ấp,
Nhếch miệng cười nước mắt tiếp theo môi,
Bởi thương đời ta vụng chén tửu bôi,
Gồm Nam ,Trung ,Bắc một bầu để nấu. 

THI

Tân Xuân Mậu Tý cảnh buồn đa,
Kết thúc cuộc đời hưởng Khải ca, 
Khói lửa lần ba Sông núi máu,
Hòa Bình hạnh phúc chữ nhàn ca. 
Vạn dân thải thải đều mừng chủ,
Bốn biển nhà nhà thể một cha, 
Gắng chí vun bồi câu nợ nghĩa,
Rồi đây sẽ thấy Hội Long Hoa. 
7- NHỦ LÒNG CHIẾN SĨ

7- NHỦ LÒNG CHIẾN SĨ

Tặng anh em chiến sĩ Mỹ Hòa Hưng vào khoảng năm kỷ Sửu

Xem tường thảm kịch bi quan,
Màu cờ Nam Việt bay tràn khắp nơi,
Thăng chiến sĩ dễ ngơi thong thả, 
Đứng râu mày nặng dạ Quốc Dân,
Nhớ câu quốc lộ trung thần,
Nhà nghèo mới rõ tâm trần hiếu nhi.
Sông Bạch đằng còn ghi danh rạng, 
Trương oai Hùng đuổi toán quân Nguyên,
Danh thơm Hưng Đạo lưu truyền, 
Ngàn đời trang sử dễ quên anh Tài. 
Thức thì vụ hởi trai thời loạn,
Phải xử mình cho rạng nước non;
Hai vai nghĩa vụ cho tròn, 
Phơi gan trải cật mót bong công lao.
Thân chiến sĩ lượt thao tinh nhuệ,
Chốn xa trường cương thể địch quân,
Thành công với tợ rửa chân,
Thắng quân giặc mạnh như Tần xới cơm.
Hỡi thanh niên đạn bơm chất ngất,
Đám quân thù tàn sát vô lương, 
Đứng lên bảo vệ quê hương, 
Giữ gìn chống chỏi mới tường sức ta.
Chớ suy nhược lơ là với nước, 
Hãy mạnh lên tạo cuộc tương lai, 
Phơi sương trải gió đâu nài,
Chiến trường nếm mật nằm gai bao màng.
Tai văng vẳng bên màn tiếng khóc,
Trông một người hình vốc thăn khô,
Hỡi rằng có sự ở mô? 
Người rằng bị kẻ mưu đồ dã tâm.
Cảnh đau khổ vì mầm vô đạo, 
Mưu hại người cơm áo rả tan,
Ai người ngộ biến thi gan, 
Mau tay vớt chúng lên thoàn Khương Công.
Sống vì nước mới không hổ tiếng,
Thác bởi nhà lưu luyến danh thơm,
Chớ đừng vật chất vùi chôn,
Để cho trong mộng mơ hồn ngay say.
Kiếp nô lệ bởi tay giá áo,
Đời cuối lòn cầu bảo túi cơm,
Nhìn loài học khéo làm khôn,
Quên ơn Tông Tổ trong phồn lợi danh.
Hỏi thanh niên hi sinh nhiệt liệt, 
So gang hùng khí tiết trượng phu, 
Đàng ngay nẻo thẳng chỉnh tu,
Mối giềng hạnh phúc tay thu đem về.
Chớ mãi để ủ ê thương rũ,
Cho giống nòi hấp thụ điêu tàn, 
Ruộng vườn nhà cửa phí hoang,
Ai ra kiến thiết, giang san lũy thành.
Cơn nguy biến nước mình thống khổ, 
Đứng làm người có hổ cùng chăng?
Thất phu hữu trách mới rằng,
Nhà tan cửa nát đâu an dạ ngồi.
Lời khuyến khích tỉnh hồi ngó lại,
Nhìn non sông khóc hại tình ni,
Đạo gìn ớ bạn cố tri,
Đời cho rạng mặt vít tì nhuốc nhơ. 
Ai lữ khách hững hờ đi nhé!
Chớ mua đồ chia rẽ lòng dân, 
Gom thâu thống khổ nhân thân,
Gây nên sức mạnh tinh thần đấu tranh. 
Đừng thất bại hỡi ngành cô độc, 
Hãy chặt gìn chủng tộc giang sơn,
Ngẩn ngơ ai chớ giận hờn, 
Mau toàn dứt sạch cá nhơn bớ người.
Xa xa giọng nói buồn cười...
...
8- KIẾN TÁNH

8- KIẾN TÁNH

Ngươn hạ nan tri lẽ chánh tà,
Muốn tường vàng ngọc chọn lừa ra,
Nhiệm mầu ẩn hiện trong tim óc,
Suy nghiệm cho rành biết Phật ma.

Phật ma hình trạng giống y nhau,
Chỉ khác tâm mê tánh giác nào,
Chu đáo biện minh câu thiện ác,
Mới khỏi lạc lầm thứ giả thau.


Giải thau tô điểm rất tinh anh,
Cần biết đem ra thí nghiệm rành,
Trùng độc ẩn sâu trong cốt tủy,
Bao đời khắc nghiệt chúng quyên sanh.


Quyên sanh khổ nhục kiếp mày hoa.
Đành thác tròn xong mối hận nhà,
Song ghé mắt nhìn trang lịch sử,
Chi cho khỏi thẹn với san hà.

San hà huyền vũ ánh tinh ba,
Tuấn kiệt tài hùng thao diễn ra,
Khắc phục địch thù danh chói đỏ,
Muôn vàn tiết nghĩa dậy hùng ca.
27-2-1949 Long Xuyên (30-1- Kỷ Sửu)
9- TÌNH ĐỜI

9- TÌNH ĐỜI

Nỗi lòng ai được thấu cho chăng?
Có miệng mà không một tiếng rằng,
Trông thấy tình đời sa nước mắt,
Sao còn tật đố với kiêu căng.

Kiêu căng ỷ lại sự oai quyền,
Mưu sự tại nhân thành sự Thiên,
Chớ vội khinh khi người thiện chí,
Sau rồi đọa lạc khổ liên miên.
27-2-1949 Long Xuyên (30-1- Kỷ Sửu)
10- XUẤT TÌNH CỦA NHÀ TU HIỀN

10- XUẤT TÌNH CỦA NHÀ TU HIỀN

Tình thương văn vật chốn Ta Bà,
Tình ái đồng bào gặp thiết tha,
Tình cảm huyền thông truyền đạo đức,
Tình yêu thiện tín đến Long Hoa.
Long Xuyên ngày 28-2-1949 (1-2- Kỷ Sửu)
11- NĂM MẬU TÝ 1948

11- NĂM MẬU TÝ 1948

Ba năm trường trải phải chăng là?
Cô quạnh lòng đơn ta với ta,
Đi trước, thương Thầy kêu ráo tiếng,
Theo sau đồ đệ thét gầy da.
Sau ngày vắng bóng từ bi đó,
Càng lúc tín đồ lạc bước xa,
Thừa dịp trời khuya khêu đuốc huệ,
Nhưng cũng vô duyên với trẻ già.

PHẬT là giác ngộ cái chơn tâm,
GIÁO Đạo vô vi lý tuyệt trầm.
HÒA hợp Từ Bi năng Hỷ Xả,
HẢO cầu bác ái dẹp thù thâm.
NGUỒN tâm mảnh lực trừ tham ái,
GỐC tánh oai hùng trị dục dâm.
TỪ mẫn độ tha trong bá tánh,
BI tràn lê thứ biết hồi tâm.

Đứng đợi ai đây cái tuổi xuân?
Hình như hiểu chán kiếp phong trần,
Đang tìm nẻo nhiệm đưa nhơn loại,
Đến chỗ siêu vời của Thánh Nhân.
12- ĐÁP TỪ THƠ MỜI BÌNH THẠNH ĐÔNG

12- ĐÁP TỪ THƠ MỜI BÌNH THẠNH ĐÔNG

(Châu Đốc)
Tiếp được thơ mời của quý ông,
Hiềm gì khó thể đẹp như lòng,
TRUNG NGUƠN lẽ ấy đây xin kiếu,
THƯỢNG CỔ đàng kia đó sẽ mong.
Vạn pháp duy tâm nhờ thấu đáo,
Muôn điều bốn thức hãy dung thông,
Tuy là bữa đó không tham dự,
Có cảm thì luôn ứng tại lòng.
Chào quý ông,
Bình Thạnh Đông,
Ngày Rằm tới,
Lễ vườn bông,
Lòng chỉnh chạc,
Nén hương nồng,
Nhờ huệ cố,
Đấng thiên công.
13- NHÀ NGHÈO

13- NHÀ NGHÈO

Nghèo mà trong sạch mới là hay,
Tu niệm khuyên người hãy nhớ đây,
Thà đói rạng mày đâu tiếng nhuốc,
Hơn no hổ mặt bởi tà tây.
Cây lành đặng hưởng nên trồng tỉa,
Giống dữ không nhờ chớ khá gây,
Thưởng phạt căn nào theo quả nấy,
Cần tu mới khỏi họa vương lây.
14- NHÀ GIÀU

14- NHÀ GIÀU

Tích đức minh minh phước vẫn còn,
Sang giàu việc phải nhớ keo sơn,
Giúp người đói rách công như biển,
Độ kẻ cơ bần quả tợ non.
Mặn lạt chánh đàng nương dạ sắt,
Chua cay gặp nẻo vững lòng son,
Muốn sau được hưởng nền an lạc,
Tích đức minh minh phước vẫn còn.
15- QUA BẾN GIÁC

15- QUA BẾN GIÁC

Muốn qua bể khổ phải bền gan,
Lìa bỏ tâm mê dứt mộng tràng,
Cõi Phật an nhiên đầy ngọc báu,
Hồng trần loạn lạc thiếu cơm vàng.
Tâm thường thanh tịnh trì công quán,
Tánh mãi dung thông tỏ kiến quang.
Hãy rán đánh tan mùi vật chất,
Đạo pháp rồi sau hưởng lạc nhàn.
16- TẶNG ANH HOÀNH ở Long Thuận tỉnh Châu Đốc

16- TẶNG ANH HOÀNH ở Long Thuận tỉnh Châu Đốc

Nên làm những việc khó làm xong.
Khá nhớ cày gieo miếng ruộng lòng.
Gặp lúc mưa dầm lo nhổ cỏ,
Nhằm khi nắng hạn liệu ra công.
Ăn cơm phải nhớ người làm ruộng,
Uống nước mong ơn kẻ bới sông,
Lấy đó mà lường khi thác mất,
Đi theo sử sách để thơm nồng.

Ngàn muôn sự vật chẳng ngoài tâm.
Phủ mặt vô minh khó nổi tầm,
Biết cách khai đường về Tịnh Độ,
Tầm phương vạch nẻo đến Lôi Âm.
Tu thân giữ được điều nghiêm chỉnh,
Sửa tánh gìn cho nét tỉnh trần,
Nói nói, làm làm không trở tráo,
Nhờ vầy nếu được họa đâu thâm.
17- TẶNG ÔNG CÒ DỐT Ở xã Phú An, Châu Đốc

17- TẶNG ÔNG CÒ DỐT Ở xã Phú An, Châu Đốc

Kẻ dữ cùng ta rất thiện duyên
Mặc dù lời lẽ chúng không kiêng,
Từ bi bác ái hằng tha thứ,
Có chí yêu đời dốc dạy khuyên.

Dạy khuyên cho kẻ biết tu hành,
Hướng thiện quày đầu bớt lợi danh,
Hòa hiệp Thánh Tiên nơi Cấm địa,
Muôn đời sĩ tử được thơm danh.
18- VỊNH RƯỢU

18- VỊNH RƯỢU

Thứ rượu nó thường hại thế gian,
Say sưa la lối náo dân làng,
Lúc chưa cụng chén còn nhơn nghĩa,
Chừng nhậu vài ly chửi lộn rang.
Cô bác xóm chòm nghe phát ghét,
Vợ con gia đạo thấy bầm gan,
Nhiều khi ngã gục nơi bờ bui,
Vì rượu hư thân biết mấy ngàn.
19- THUỐC ĐIẾU và TRẦU

19- THUỐC ĐIẾU và TRẦU

Thuốc điếu cho là việc tiểu ti,
Sao còn tập nhiễm nó mà chi,
Đói cơm khát nước nên cần thiết,
Nhả khói phun mây có ích gì!

Ích gì vôi thuốc hộp trầu cau,
Ba món ăn vô nước đỏ ngầu,
Tốn kém bạc tiền không bổ ích,
Khuyên người sớm bỏ khỏi mòn hao.
20- TẶNG ÔNG CẢ ĐẠT

20- TẶNG ÔNG CẢ ĐẠT

Thương thảm trần gian quá đỗi mê,
Nhà Tiên cửa Phật quyết đưa về,
Đem lời chỉ bảo câu thanh nhã,
Người chẳng lòng ưa lại nhún trề.

Nhún trề dạ sắt há nài sao?
Càng ghét càng tăng phẩm giá cao,
Nghị lực xông pha nơi biển khổ,
Dìu dân cho khỏi lúc ba đào.
21- LỤC TRẦN

21- LỤC TRẦN

Sắc tướng chừng xem giữ tánh không,
Thinh âm nghe đến khiến xao lòng,
Hương nồng ngào ngạt khuyên đừng mến,
Vị thấm ngọt ngon dạ chớ trông.
Xúc cảm cao sang danh dục vọng,
Pháp cầu danh lợi chớ nên mong.
Sáu điều hư thiệt bày rành rẽ,
Giữ đặng ngày sau thoát cõi hồng.
22- LỤC CĂN

22- LỤC CĂN

Mắt xem sắc tướng cũng như không,
Tai lắng âm thinh chẳng động lòng,
Mũi ngửi hương thơm như chẳng có,
Lưỡi lừa mỹ vị thể là không.
Thân trừ vật dục tâm thanh tịnh,
Ý diệt tham cầu tánh sạch trong,
Lục tặc tránh xa khuyên chớ đắm,
Căn nguyên Phật Thánh ở nơi lòng.

Tửu vào tâm trí phải tâm cuồng,
Sắc đắm hao thân khí kém luôn,
Tài nhiễm lụy thân đa khổ ách,
Khí hùng thù ghét có đâu suôn.

Thường hành lục tự niệm Di Đà,
Tửu, sắc, khí, tài hãy tránh xa,
Những mong Cực Lạc người đi đến,
Nơi chốn ngục tù chúng dang ra.


Mờ mờ tỏ tỏ cảnh u minh,
Trên mấy từng trời xuất Đẩu Tinh,
Dưới đất chập chùng cây lá rũ,
Mơ màng cuộc thế buổi giao chinh.


Bên thềm thủ thỉ bạn ve ru,
Hồn mộng trong sương quá mịt mù,
Những tưởng trông ai, ai chẳng thấy,
Mãi ngồi mấy lão nói lu bu.
23- PHẬT TỨC TÂM

23- PHẬT TỨC TÂM

Tự tâm Phật Thánh chớ nào ai ?
Bút mực nghiên son cố chí mài;
Khêu đuốc từ bi soi khắp chúng,
Tỏ đèn trí huệ rọi cùng ai.
Thinh thang bốn biển ai thông hiểu,
Rộng lớn một nguồn kẻ có hау?
Gió kép mưa đơn đây đứng đợi,
Đúng kỳ xuất hiện hiệp nhiều tay.
---
Ghét thương, thương ghét mặc tình ai,
Đạo đức tay mong cứ miệt mài,
Ôm mớ kinh luân ra độ chúng,
Nắm giềng đạo pháp dắt trần ai.
Tuồng đời hiếm kẻ mưu thâm hiểm,
Cuộc thế bao người trí giỏi hay,
Tuốt ngọn gươm linh ta đứng đợi,
Chờ thời thiên định mới ra tay.

Ngu hèn cam phận dám tranh ai,
Len lỏi hương thôn để trí mài,
Đầu đội trời xanh mang khổ chúng,
Chơn lần đất đỏ chịu sầu ai.
Nghêu ngao năm tháng dầu nguy hiểm,
Chểnh chệ ngày giờ biết dở hay,
Gió lộng buồm trương ai khóc hận,
Thôi đành ngậm miệng cứ khoanh tay.

Cảm hứng thi văn nhả mấy vần,
Đâu lòng tự kỷ nét hào nhân,
Chuyển xoay trái đất càng thêm lạ,
Thay đổi hoàn cầu thiệt tối tân.
Báu vật trân châu phơi mặt đất,
Hoa xinh cảnh đẹp trải non thần.
Hỡi kẻ trinh lương đầy nhiệt huyết,
Ngày qua tháng lại biết ngàn cân.

Vững lòng mạnh mẽ lướt qua truông.
Dầu gặp chông gai dạ chớ buồn,
Nhẫn nhẫn muôn điều an thửa phận,
Bao nhiêu ngàn chuyện đặng thân suôn.
Mưa rào cây lá càng tươi thắm,
Gió dật trái bông biết đâu buông,
Đại lực đại hùng khuyên hãy nhớ,
Gặp thuở rồng mây hết tủi buồn.
Tại xã Vĩnh Chánh (Long Xuyên)
20-5-1949 nhằm ngày 23-4 Kỷ Sửu
24- LỜI TRUYỀN RAO

24- LỜI TRUYỀN RAO

Truyền rao khắp cả thôn hương,
Tín đồ Phật giáo được tường giả chơn.
Thời kỳ mạt pháp hạ nguơn,
Tà sư ngoại đạo thừa cơn ứng hành,
Gieo vào đầu óc nhơn sanh,
Những điều quái lạ như cành ghẹo chim.
Như ai đạo lý muốn tầm,
Gắng công lọc lựa khỏi lâm quỉ tà.
Có nhiều bài vở đặt ra,
Không thông nghĩa lý điêu ngoa hoang đường,
Nói rằng: Quan trấn Nam phương,
Ông nầy ông nọ giữ đường vào đâu ?
Nghe qua lòng bắt thảm sầu,
Thiên cơ huyền bí ai hầu lảu thông ?
Dám truyền những chuyện cuồng ngông,
Cho người mê muội thêm lòng đảo điên.
Thấy dân dại dột thảm phiền,
Nghe càn tin bướng chép biên lan tràn.
Sợ người lạc bước rừng hoang,
Truyền rao cho đó luận bàn xét suy.
Đức Thầy giáo đạo Nam kỳ,
Từ năm Kỷ Mão tới thì ngày nay,
Biết bao giảng kệ thi bài,
Dạy dân rành rẽ không sai chút nào.T
Tùy theo trình độ thấp cao,
Hạp dùng pháp lý ngọt ngào thanh bai,
Chúng sanh đui tối thảm thay,
Đem lời chỉ dạy lẽ ngay thông thường.
Chớ đâu luận việc hoang đường,
Cho dân mù quán biết nương nơi nào.
Nay nhiều bài giảng nói cao,
Nói cao mà rất tầm phào vô liêm,
Hô hào chẳng chút tự khiêm,
Động lòng thương xót nỗi niềm bá gia.
Tir đây đồng đạo trẻ già,
Muốn coi giảng kệ bài ra người nào.
Văn từ chải chuốt thanh thao,
Nói năng chơn chánh siêu cao lý mầu,
Нạр thео Phật Thích huyền sâu,
Vô vi chánh đạo mới hầu chơn nguyên,
Đó lo thuyết hóa Phật Tiên,
Mới là trí hiện phổ truyền cứu dân.
Còn ai xưng thánh xưng Thần,
Làm điều giả dối nếu gần hiểm nguy,
Hữu hình tắc hoại ra chi?
Không không thời có, có thì hóa không.
Ông chi to lớn mặc ông;
Không phân giai cấp mới lòng chơn như.
Đạo tâm bình đẳng thường cư,
Chúng sanh nhứt thiết Phật ư tại lòng,
Đó là tự tánh chơn không,
Bằng làm sắc tướng tà tông đó mà.
Xin trong đồng đạo gần xa,
Từ đây kim chỉ nghiệm ra minh tình.
Lời lành phổ biến tâm minh,
Từ Bi chỉ dẫn không tình ghét ganh.
Nếu ai hữu chí tu hành.
Nghe rồi sửa lại tâm thành mến yêu.
Ngày 10 tháng 5 năm Kỷ Sửu (6-6-1949)
25- TẶNG ĐỘI PHÒNG VỆ

25- TẶNG ĐỘI PHÒNG VỆ

Thôn Phú Nhuận, Long Xuyên, đêm 15-5-1949
nhằm 18-4 Kỷ Sửu (Tiếp theo lời giảng trước)

Vừa ngưng tiếng kệ qua rồi,
Mà trong huynh đệ mãi ngồi không lui.
Đạo cùng nếm sau mùi hương khói,
Thêm lời vàng tỏ nỗi tình ni,
Bền lòng chẳng muốn ra đi,
Thôi thời nếm chút lời thi sau nầy.
Hãy nhẹ bước đàng mây nhanh chóng,
Thoát mê đồ được lóng lòng trong;
Về nơi cõi Phật an lòng,
Khỏi còn chịu nỗi não nồng thương đau,
Kinh với sám thanh thao thảnh thoát,
Kệ cùng cơ tỏ chút lời than;
Những khuyên tu tỉnh xóm làng,
Trau giồi đạo đức lo toan phận mình.
Chừng nghe đặng oai linh sấm nổ,
Biết Iuật Trời cầm sổ định phân;
Ngày nay Nam Bắc vạn dân,
Hãy còn bi lụy muôn phần khóc than,
Kẻ mến đạo tầm đàng tu niệm,
Người lung lăng mưu tiếm giang san;
Tự quyền tự trọng bạo tàn,
Ỷ tài lấn thế nào toan thương đời,
Nhủ khách tục lòng thời trau sửa,
Khuyên người đời hằng bữa sửa thân;
Lầm sao vẹn vẻ lòng nhân,
Lầm sao đến việc Phong Thần được xem.
Hàng Phật Thánh lâm phàm trợ thế,
Dùng đạo mầu cứu tế bá gia;
Ước sao dân sự nhà nhà,
Đồng tâm tu niệm Phật Đà chiếu tri.
Sau sẽ được hồi quy thượng cổ,
Cả muôn đời hưởng chỗ thanh tân;
Khỏi còn chịu lắm não nần,
Cõi trần mang mển xác thân não phền.
Lời khuyên răn mối giềng Phật pháp.
Quá yêu đời lấn áp thảm thay,
Thương nhau chớ lạt đừng phai,
Mến ưa thì phải hằng ngày đỡ nâng.
Xin nhủ khách trần gian tỉnh thức,
Nên biết rằng Phật lực quyền oai,
Từ bi bác ái rộng dài,
Cứu đời độ kẻ thẳng ngay đem về.
Đứa bạo ngược nhiều bề lo lót,
Phật thần nào cứu vớt bạo tàn,
Nỗi niềm mở miệng riêng than,
Dầu hung dầu dữ cũng đàn Rồng Tiên.
Nên nói đó ưu phiền chi xiết,
Nhưng tới ngày tận diệt khó toan,
Dầu cho thông cảm Phật đàng,
Với lòng chư Thánh không toan được nào.
Số chỉ định Thiên tào đã nắm,
Phật, Thánh, Tiên chỉ tấm lòng thương,
Dùng lời khuyến khích thôn hương,
Dùng lời đạo đức phô trương đấy mà.
Nếu sớm tỉnh DI Đà hằng niệm
Nhờ Phật Trời tầm kiếm độ cho,
Thánh Tiên đã sẵn hẹn hò,
Đến ngày chung cuộc có đò vô vi.
Đấng Phật Thánh từ bi rộng lớn,
Cứu người đời rõ đấng chí công,
Đem về tận Hội Hoa Long,
Được nhìn rõ biết Tiên Rồng đài mây.
Vạn dân ôi ! Bồng lai đã lộ,
Tuy ngày giờ còn khổ phải cam,
Rốt rồi nhìn cánh đồng Nam,
Vạn dân vui thú cõi phàm lại Tiên.
Trên Thánh chúa vẻ hiền ít có,
Mến yêu dân con đỏ khác chi,
Dùng lời bác ái từ bi,
Định phân tất cả người thì vạn dân.
Tôi khuyên nhủ sớm toan tròn phận,
Hầu sau nầy thời vận đẩy đưa,
Cùng chung đoàn tụ phước thừa,
Đồng nhau thọ hưởng sớm trưa thanh nhàn.
Ôi dân ôi ! đêm tràng bịn rịn,
Vừa nghe qua định tĩnh phải chăng,
Bây giờ nghe rõ đạo hằng,
Thì là chắc chắn ăn năn thật thà.
Còn e nỗi về nhà quên ráo,
Có nhớ gì chỉ bảo kệ kinh,
Làm sao tánh tục sớm linh.
Tâm phàm hãy dẹp mới mình chơn tu.
Lời khuyên nhủ mịt mờ hắc ám
Dùng trí mầu thâm cảm phá tan,
Hỡi ai hãy khá ngồi an,
Lòng lành hãy sớm liệu toan lo làm.
Vì nhớ lại cõi phàm còn khổ,
Đến mai nầy tầm độ sanh linh,
Hỡi ai hãy khá niệm tình,
Để cho Thanh Sĩ yên mình thêm lên.
Dầu mến yêu khuyên bền tâm chí,
Hãy về nhà xét kỹ ăn năn,
Mến người lương thiện đạo hằng,
Thương thời trau sửa mới rằng là thương.
Hãy mạnh lên ra đường về nghỉ,
Đều có lòng tận tụy đêm nay,
Thôi thời chớ lạt đừng phai,
Hãy nên rảo bước ra ngoài thẳng xông.
26- NỘI TÌNH CHIA RẼ

26- NỘI TÌNH CHIA RẼ

Nam quốc lương dân khổ buổi nầy,
Phái phe thù oán chúng thêm gây,
Đau lòng Phật giáo chia ba khối,
Đứt ruột vì chưng vắng mặt Thầy.
Mạnh yếu giựt dành tai chửa dứt,
Hơn thua tranh đấu chẳng ngừng tay,
Đông phong rét lạnh thương không thuốc,
Già trẻ bôn ba đặng rước Thầy.
27- NHÂN SĨ ĐỒNG TÂN

27- NHÂN SĨ ĐỒNG TÂN

Vắng vẻ canh thâu ứa ruột rà,
Bên thềm lấp lửng bóng Hằng Nga,
Tựa hồ nhân sĩ sang chơi đấy,
Đàm luận cho vui chuyện nước nhà.


Nước nhà thắc mắc khó phương châm,
Nội loạn chưa rồi kế ngoại xâm,
Dân chúng khát khao câu Độc Lập,
Nhưng sao cưa cứa chẳng xô ầm.


Nội bộ lung tung giữa lúc nầy,
Con thuyền nhảy lái chịu lây quây,
Phương chi giải cứu cơn nguy biến,
Kẻo phải nghiêng be chết cả bầy.


Đạo lý uyên thâm xét chẳng cùng,
Thiên hình vạn tượng thảy hàm dung,
Mở mang trí hóa trong Trời Đất.
Bốn biển tai nghe thảy phục tùng.


Phục tùng qui mạng lá cờ Châu,
Nước trị dân an thảy nhiệm mầu,
Thảy thảy dưới trên đồng nhứt trí,
Thượng nguơn hồi phục hưởng dài lâu.
28- ĐÁM GIẶC Ở TÂM

28- ĐÁM GIẶC Ở TÂM

Đám giặc ma vương dấy cả thành,
Tinh thần cố thủ quyết thừa tranh.
Mũi tên phiền não ghim đôi mắt,
Lưỡi kiếm mê si clém nát mình.
Đất lòng sáu giặc mong xâm chiếm,
Vua tánh một thân chống toán binh;
Xông pha năm cửа tuông bầy khỉ,
Trừ tướng rna vương được thái bình.
(Ngày 16-7-1949 nhằm ngày 21-6 Kỷ Sửu)
29- CON NGƯỜI CỦA TA

29- CON NGƯỜI CỦA TA

Ta ngồi suy gẫm tận tường ra,
Cái xác thần nầy của mẹ cha;
Nhà ở cơm ăn nhờ bá tánh,
Thuốc men quần áo của đàn na.
Nắng nôi mưa gió ân thiên địa,
Vật liệu cần dùng của vạn gia.
Đầu đội trời cao chơn đạp đất,
Chỉ có tinh thần đó thiệt ta.
30- SỰ ĂN UỐNG CỦA TA

30- SỰ ĂN UỐNG CỦA TA

Mặn lạt ta đâu có tưởng nào,
Mặc tình cá thịt hoặc tương rau.
Bá gia muốn dọn chi ăn nấy;
Mặn lạt ta đâu có tưởng nào.
31- LÒNG TA

31- LÒNG TA

Mong mỏi trau giồi tánh Phật nhi,
Độ đời nối chí đấng từ bi.
Chúng sanh nếu mãi còn luân chuyển,
Nguyện gánh cho trần cái khổ ni.


Khổ ni lãnh chịu cảnh trần gian.
Lần lượt non đài đặng rảnh rang.
Nếu một phút nào dân thống khổ,
Ta dầu Cực Lạc khó ngồi an,


An ngồi tự tại möt mình ta,
На giới điêu linh mấy vạn nhà.
Dám hỏi tâm phàm đau đớn chẳng?
Huống hồ Phật Thánh lại nhàn ca.



Nhàn ca ngồi ngó há đành đâu,
Ruột rối tơ vò lệ ướt bâu.
Len lỏi hương thôn lo dắt chúng,
Ra ngoài biển khổ hưởng dài lâu.



Lâu dài sanh tử hết đeo mang,
Hôm sớm an cư cảnh Niết Bàn;
Gồm đủ sáu thông ra tế thế,
Dắt dìu thiên hạ bớt gian nan.


Nhẫn nhẫn nhẫn hòa cố nhúm nhen,
Đã là lực kém với tài hèn,
Xoay chiều qui định trong phương sách,
Có thể nhà ta cải vận đen.


Di Đà Phật Tổ, Phật Thầy ông,
Thế Chí Quan Âm chứng đáy lòng.
Ngày tháng gương xưa nô nức mãi,
Cố tình soi rọi cánh trời đông.
(Ngày 13-10-1949, nhằm 22-8 Kỷ Sửu)
32- TỪ GIẢ CẦN THƠ

32- TỪ GIẢ CẦN THƠ

Giờ đây hiền sĩ lui hài,
Mượn lời châu ngọc tỏ bày nguồn cơn.
Mấy trăng quạnh quẽ lòng đơn,
Ra vào thổn thức trách hờn phận duyên
Đêm nằm giấc ngủ nào yên,
Ngày thời thơ thần sầu riêng một mình,
Xanh xanh mét mét mặc tình,
Lòng nầy đâu quản thân hình ốm đau,
Miễn cho đạo hạnh thâm cao,
Khắp trong lê thứ máu đào được ngưng.
Ngồi nhìn nước mắt rưng rưng,
Thấy dân lao khổ biết chừng nào nguôi.
Ngọc son bụi cát lấp vùi,
Trong bầu thiên lý ngút ngui mịt mờ.
Ta nào đem dạ tưởng mơ,
Mà trong bá tánh mãi ngờ đến ta.
Lưng trời én nhạn kêu la,
Bên thềm tiếng dế rì rà tư lương.
Chị Hằng ẩn dạng tuyết sương,
Làm cho anh Cuội đêm trường lạnh tanh.
Rú rừng hiển tượng lộn quanh,
Từ bi ôm chặt sỏi sành lướt qua.
Lòng nhơn cứu tế hải hà,
Được tâm mến kẻ thiệt thà hiền lương.
Mấy trăng nương ngụ gia đường,
Chăn mền giúp đỡ đêm sương lạnh nồng.
Thề rằng chứng có Núi Sông,
Ơn Người ghi tạt vào lòng chẳng sai.
Đạo mầu thâm diệu ai hay,
Kệ kinh quan điểm quyết khai tục phàm.
Cuộc trần phú quí chẳng ham,
Vinh hoa tạm giả chán nhàm lắm ôi,
Nhứt tâm đạo đức vun bồi,
Tìm nguồn bích thủy rửa đời bợn nhơ.
Núi rừng cây cối sơ rơ,
Chim muôn điểu thú gật gờ gió rung.
Ngồi suy gan ruột lạnh lùng,
Tưởng người cảnh khổ hải hùng xót thương.
Nguyện cho khắp cả bốn phương,
Vạn dân được sớm dứt đường chiến tranh.
Ngẩng nhìn tất cả dân sanh,
Tâm tràng áo não tựa cành héo khô.
Hoàn cầu dân biết nam mô,
Thì đâu đến đỗi nấm mồ bỏ hoang,
Ớ nầy đồng đạo sửa sang,
Cuộc đời khác thể mơ màng chiêm bao.
Hiếu trung gom đủ lược thao,
Nhìn xem công lý thiên tào xử phân.
Đất Trời, Tiên, Phật, Thánh Thần,
Cũng đồng tam cõi một lần quang minh.
Cuộc đời trước nhục sau vinh,
Hết bần tới phú thiên đình thưởng ban.
Nhủ khuyên tất cả xóm làng,
Gắng công tu niệm gặp đàng vinh hoa.
Sĩ hiền nay đã rời xa,
Để chơn nơi khác đặng mà khuyên dân.
Khuyên người bố đức thi ân,
Làm điều phước thiện được gần Phật Tiên.
Вас muôn khó sánh lương hiền,
Thanh bần phú trược của tiền tiêu ma,
Thuyền từ gặp lúc phong ba,
Cắm sào đậu lại ngót đà ba trăng.
Tuy nay mặt bể chưa bằng,
Nhưng cầm lái vững đâu rằng sóng xao.
Vững lòng chẳng có núng nao,
Miễn cho bá tánh được vào tâm tu.
Cành huyên đượm vẻ đêm thu,
Phận làm con trẻ đền bù sao xong.
Phải chi hầu hạ bên phòng,
Sớm khuya đắp lạnh quạt nồng mới ưng.
Không đành tách gót dời chưn,
Thương tình huynh đệ khúc đờn tiêu dao.
Muốn cho đạo hạnh một màu.
Lỗi niềm mẫu tử lệ trào năm canh,
Xin khuyên hãy rán tu hành,
Bền lòng ẩn nhẫn chớ tình nôn nao.
Hỡi ai cứu tế nhìn vào,
Đây xin từ giã chúc mau công thành.
Xa xa thấy dạng xanh xanh,
Lần lần khuất bóng người lành xa khơi.
An Giang chốn ấy đến nơi,
Chúc cho bá tánh hưởng đời bình an.
Năm1949
33- CẢNH GIA ĐÌNH NGHÈO

33- CẢNH GIA ĐÌNH NGHÈO

Nhà nhỏ con đau vợ ốm gầy,
Ông chồng túng rối chạy lây quây
Đầu trên giúp đỡ vài tô bắp,
Xóm dưới giùm cho ít củ khoai.
Bà vợ quơ quàu ba cắc sáu,
Ông chồng chạy chọt bốn đồng hai.
Đem về thang thuốc cho con dại,
Nồi thuốc chưa sôi trẻ thở dài.
34- CẢNH NGHÈO CỦA NGƯỜI DÂN QUÊ

34- CẢNH NGHÈO CỦA NGƯỜI DÂN QUÊ

Ở HẬU GIANG

Gia bần trí đoản chịu đơn côi,
Kẻ đánh người thoi dám hở môi,
Bệ vệ người trên ngồi khoát nạt,
Dưới đành ngậm miệng thấy buồn thôi.



Buồn thôi số phận đám dân hèn,
Cuốc bẫm cày sâu mặt nám đen,
Thêm nỗi thiếu tiền còn hụt bữa,
Vợ chồng con cái rách ten ben.



Ten ben trống trước lại bày sau,
Vợ đói còn con lại ốm đau,
Cấy mướn cày thuê không đủ bữa,
Bị người cướp giựt phải chao nhao.



Chao nhao ngồi ngó khắp quanh nhà,.
Chẳng thấy bò heo chẳng thấy gà,
Con vợ đêm hôm người bắt mất,
Chỉ còn đứa nhỏ khóc tu oa.


Tu oa tiếng khóc cảnh buồn teo,
Léo luống chữ nghèo mắc cái eo,
Ách nước nạn dân ai khéo tạo,
Xô qua đẩy lại đám dân nghèo.


Dân nghèo gặp phải cảnh nghèo thêm,
Buôn tảo bán tần cũng chẳng êm,
Bị kẻ ngăn sông người cấm chợ.
Vả qua vả lại riết dân mềm.



Dân mềm như bột hỡi đời ôi!
Vào cúi ra lòn chịu hết hơi,
Bẩm cậu thưa ông xin mở lượng,
Phận hèn nón sắn mảnh quần tơi.


Quần tơi áo bố rách tua te,
Bạc hỏi tiền vay họ chẳng nghe,
Mãn tháng cùng năm không rảnh nợ,
Kẻ đòi người hỏi phải ư e.


Ư e ần lựa nói cù cưa,
Ức bụng thằng dân bị đánh lừa,
Được lệnh quan tha rồi ma bắt,
Nói rồng nói rắn cũng mình ừa.


Làm mưa làm gió một mình mình,
Ở lộn ăn chung nỗi bất bình,
Quỉ giận thần hờn ai có biết,
Lỗi lầm sửa lại mới tồn sinh.
(Đêm 9-11-1949, nhằm mùng 3-9 Kỷ Sửu)
35- VÌ NƯỚC QUÊN NHÀ

35- VÌ NƯỚC QUÊN NHÀ

Cứu dân như chữa lửa hồng;
Thanh niên có muốn đèo bồng nữa thôi?
Đồng bào sóng giạt bèo trôi,
Nam nhi nghĩa vụ tài bồi non sông.
Gặp ngày quốc phá gia vong;
Sao còn núng nảy cho lòng bê tha.
Xâm lăng chực nuốt bên nhà,
Sao chưa tỉnh giấc nam kha bớ người.
Bày ra lắm chuyên trò cười,
Múa men sân khấu cho người biếm bao.
Trớ trêu ông tạo pha màu,
Sắp tuồng Điêu Thị mận đào Phụng Tiên.
Khiến người Đổng Trác say ghiền,
Lam cho khán giả ngửa nghiêng rộ cười.
Anh em chớ khá biếng lười,
Vùi thân chiếu đất màn trời xông pha.
Vì dân vì nước quên nhà,
Tạm lìa cha mẹ ra mà tùng chinh.
Giàu lòng ái quốc hy sinh,
Với thân chẳng kể gia đình màng chi ?
Vợ con là việc tiểu ti,
Quốc gia đại sự thê nhi đâu bằng.
Dầu cho thiếu mặc thiếu ăn,
Cũng đừng nản chí mới trang anh tài,
Tang bồng hồ thỉ làm trai,
Bọc xương da ngựa đâu nài gian nan.
Nước còn nhà mới vững an,
Một khi nước mất nhà tan còn gì.
Xưa ông Mặc Địch ai bì,
Ngày qua tháng lại bếp thì không đen.
Tấm lòng hào hiệp đã quen,
Vì dân vì nghĩa đua chen phong trần.
Còn ông Đại Võ ba lần,
Đi ngang qua cửa chẳng dừng nghỉ ngơi.
Ba năm ưu thế mẫn thời,
Vùa dân giúp nước chẳng rời gót chơn.
Còn ông Khổng Tử đạo nhơn,
Lưng không dính chiếu Tấn Tần bôn ba.
Trượng phu vị quốc vong gia,
Quên ăn quên ngủ mấy tòa văn chương.
Đem tài học thức phô trương,
Châu lưu truyền bá sử cương nhắc đời.
Chiến binh sĩ tử nhớ lời,
Gánh gồng giềng mối đạo đời an ninh.
Soi gương chẳng thẹn lấy mình,
Chữ Trung, chữ Hiếu, chữ tình chèo đai.
Đứng đầu tổ quốc bớ ai,
Nước nhà điên đảo trổ tài tu mi.
Quốc hồn tiếng gọi ai bi,
Bên tai súng nổ ầm ì nghe vang.
Hồn thiêng dân tộc rên than,
Sĩ binh hăng hái trận tràng hy sinh.
Duy trì trật tự an ninh,
Mưu đồ độc lập hòa bình Việt Nam.
Tẩy trừ sạch bọn quan tham,
Cải lương chế độ công bằng quốc gia.
Kiên trinh tiêm tất nõn nà,
Mở màn cho khách hào hoa tỉnh hồn.
Hô to khẩu lịnh như cồn,
Rập rình tiến bước bổn thôn quân thù.
Đồng thinh hợp sức chỉnh tu,
Xây nền hạnh phúc ngàn thu vững bền.
Tinh thần chiến sĩ cao lên,
Sánh vai cường quốc vang rền Á Đông,
Anh em phấn khởi tấm lòng,
Non sông đem giọt máu hồng điểm tô.
Đánh tan ảo mộng mơ hồ,
Con xinh vợ đẹp ma cô buộc ràng.
Ngẩng nhìn một dãy giang san,
Đồng bào cửa nát nhà tan rã rời.
Thầy xa mặt biển chơn trời,
Phận trò nay đổi mai dời sao xong.
Mang danh chiến sĩ Tiên Rồng,
Ái tình dang díu quần hồng cười chê.
Khuyên đừng học thói trăng huê,
Hổ danh sĩ tử ê chề tu mi.
Anh hùng tử tiết đáng ghi,
Lưu danh hậu thế ai bì đặng đâu.
Từ khi có bả sòng nâu,
Nay mang giáp sắt một câu thề rằng:
Ta còn thì giặc phải băng,
Giặc còn ta sống hổ hang mặt mày.
Ai đi chân hớn chân hài,
Tràn qua né lại có ngày hụt chơn.
Nhiều người ở ẩn thâm sơn,
Quốc gia hữu sự xuất thân đương đầu.
Lòng trung chánh trực một bầu,
Xả thân giúp nước mưu cầu phục hưng.
Anh em hăng hái tinh thần,
Khuyên đừng ngã ngũ lui lần nhà nông.
(Ngày 24-10-1949, nhằm 3-9 năm Kỷ Sửu)
36- VĂN TẾ

36- VĂN TẾ

Truy điệu chiến sĩ Bộ Đội Nguyễn Trung Trực và Bảo An Quân tại sân đình Trà Côn, xã Nhơn Mỹ, quận Chợ Mới (Long Xuyên).

Khói hương trầm dần dần bay tủa khắp,
Trên linh đền Tổ Quốc vẻ sầu dung;
Nổi bật lên một khí tượng mạnh vô cùng,
Như hiện đến bao anh hùng xưa cứu quốc.
Hồi ký lại xiết chi lòng buồn bực,
Kẻ còn đây người mất quá ха хăm.
Ngẩng nhìn trên linh tọa ngát hương trầm,
Cảm huy hiệu người gần trăm năm đà quạnh vắng.
Tranh đấu dưới bóng cờ Quan Thượng Đẳng,
Với tinh thần đứng đắn của chánh qui quân.
Khắp miền Tây Nam Việt hết tám phần dân,
Đồng hưởng ứng với Bảo An Quân nhứt trí,
Đường chánh nghĩa chưa thực hành cương kỷ,
Bỗng đương đầu với đám thổ phỉ cường quân,
Ngày lẫn đêm bọn chúng kéo rộ rần,
Đi khủng bố tinh thần trong quần chúng.
Nhiều thủ đoạn giết người đem áp dụng,
Uy hiếp người thao túng của lương dân,
Nhiều hành vi khốc quỉ với kinh thần.
Bọn gian ác chẳng ngại ngần khi táo bạo.
Hỡi ôi !!!
Thậm chí đến người đạo còn đi giết đạo,
Con một nhà đành trở giáo lại đâm nhau.
Lật mặt lên nhìn kỹ là đồng bào,
Nằm trên vũng máu đào thân sóng sượt.
Bị chị ngón xỏ quân tham tàn bạo ngược,
Họa nồi da xáo thịt mãi không thôi,
Dân chết đi sống lại mãi từng hồi,
Quân thảo khấu nó kéo lôi đi chà xát.
Từ thành thị cho đến nơi làng mạc,
Quần chúng đều rải rác tản cư đi.
Thương hại cho bọn gái kẻ nhu mì,
Đều hốt hoảng với những hành vi cưỡng bức.
Đối trước bọn dã mang lòng bực tức,
Quyết cứu dân cứu nước phải quên mình.
Từ chỉ huy đến chiến sĩ thảy đồng thinh,
Định cấp bách di binh về Mỹ Hội.
Với cái chủ đích xua quân ra đánh đuổi,
Đám vô lương ra khỏi quận Định Hoà,
Giải phóng cho quần chúng tháng ngày qua,
Được thoát nạn ranh ma phường bạo ác.

Hỡi ôi ! Nhưng rủi thay !
Giống đạn vô tình thương người mạng bạc,
Hồn sĩ binh chốc lát đã chầu Trời.
Gánh giang san bạn trút hết lại cho đời,
Ôm uất hận dạo chơi miền dị lộ.
Đương kịch chiến súng đối phương còn rền nổ,
Bạn đã tử thương tại lỗ kích rất kiêu hùng.

Hỡi ôi !
Máu ra nhiều bắp thịt bạn rung rung,
Không gượng nổi phút cuối cùng đành nhắm mắt.
Bạn đã chết sử cương còn để nhắc,
Chết vì nhà vì Tổ Quốc Việt Nam.
Mấy năm qua tranh đấu chẳng biết nhàm,
Vừa khiếm tốn vừa hiên ngang nơi trận tuyến.
Nhiều công tác bạn thật hành tấn triển,
Tỏ ra người tế nhuyễn buổi tùng nhung.
Nước Việt Nam gặp lúc phải vẫy vùng,
Mà vô thường chẳng rộng dung người tuấn kiệt.

Hỡi ôi ! Ngày nay!
Chúng tôi còn đây hồn bạn đành vĩnh biệt,
Lòng cà nong mùi còn đương nóng khét,
Bạn tắt hơi để xác lạnh lùng thay!
Tổ quốc đương khiếm khuyết kẻ anh tài,
Đất với nước mấy thây người dũng sĩ.
Hồi tưởng bạn bật sôi trào nhiệt khí,
Muốn tiêu diệt luôn kẻ ngụy mới vừa gan.

Hỡi ơi ! Còn chi đau đớn bằng !
Chồng nơi miền âm cảnh, vợ ở chốn dương gian,
Nỗi tử biệt với sanh ly càng thổn thức,
Vợ con sống với một gia đình khổ cực.
Vui cho chồng đi giúp nước vùa dân,
khi được tin chồng trả rảnh nợ trần,
Đã kịch chiến vong thân ngoài trận tuyến,
Vợ bất tỉnh còn con đà khóc điếng.
Liền thắp hương cầu nguyện cho vong linh,
Vái tên họ chồng được Cực Lạc vãng sinh,
Rồi lăn khóc trong cảnh tình đang đau khổ.

Hỡi ôi !
Bạn mới đó đã hóa ra người thiên cổ,
Vết thương lòng còn lưu bố đến tương lai.
Sắp vãn hồi nền tự chủ kế nay mai,
Dân tộc rủi phải mất nhiều tay kiện tướng.
Đứng trước cảnh hãi hùng bao hiểm tượng,
Lại thiếu người bồi dưỡng giống Tiên Long,
Ngoài biên cương lang sói đã lợp đồng,
Trong nội bộ chập chồng phường giá áo.
Nước Việt Nam đã lâm vào trong huyền ảo,
Phải đương đầu với trận vũ bão cuồng phong.

Hỡi ôi ! Nước nhà đương nguy khốn!
Nguyện với linh hồn sĩ tử bạn có linh không,
Xin phù hộ cho giống dòng cơn khuẩn bách,
Đem lực lượng của anh hùng đầy khí phách,
Diệt quân thù tẩy sạch bọn tham ô,
Được phục sinh lãnh vực nước Đại Cồ,
Sớm kiến thiết cho cơ đồ đầy hạnh phúc.
Sức tiến hóa lân bang cần hối thúc,
Giống Tiên Rồng cứ hì hụt mãi hay sao?
Chí hy sinh huyết quản bựt sôi trào,
Máu quân địch chiến bào đem tắm nhuộm.
Từ quân sĩ đến chỉ huy đều can đảm,
Ra trận tiền quyết lì lợm với đạn bom,
Coi quân thù dường cỏ rác rạ rơm,
Hô lệnh tiến chúng bay hồn mất vía.

Hỡi ôi !
Dòng máu Việt đang nhuộm ngoài chiến địa,
Với tinh thần chánh nghĩa há ngồi yên?
Phải ra tay cho dân tộc có uy quyền,
Rửa nhục bạn dưới cửu tuyền cho mát dạ,
Thay rnặt kẻ đã chết vì nghĩa cả,
Lấp xong thù bẻ khóa kiếp nông nô.
Đồng võ trang quần chúng giữ cơ đồ,
Chống trả bọn cướp rnưu mô xâm lược,
Quyết tranh đoạt quyền tự do cho nước,
Mưu sống còn cho dân tộc Việt Nam ta,
Được đủ no, đủ mặc, đủ gian nhà,
Khỏi thiếu hụt phải thiết tha bề rách rưới.
Trước cái chết chiến binh đồng phấn khởi,
Vì đồng bào xã hội phải hy sinh.
Chồng rủi sa cơ quả phụ dữ lòng trinh,
Con tử chiến song thân đồng ca ngợi.
Noi lịch sử bao anh hùng tiền bối,
Dám chết vì quyền lợi quốc gia quân.
Dầu xâm lăng đạn như núi súng như rừng,
Cũng mạnh tiến liều thân mà giết giặc.
Đem xương máu để đền bồi ân tổ quốc,
Rủi quăng mình ngã gục bãi tha ma.

Hỡi ôi ! Ngày hôm nay!
Xin các vong linh tử chiến trận Định Hòa,
Bình Thạnh Đông, Hiệp xương có siêu lạc ngàn xa về chứng giám,
Tuy lễ mọn hương hoa nầy thô đạm.
Vọng quốc hồn linh cảm chứng minh cho,

Quân Việt Nam đất nước quyết khuông phò,
Ra trận thượng ví rủi ro mà tuyệt mạng.
Nay chúng tôi đồng đứng ngay trước án,
Từ chỉ huy cho đến hạng sĩ binh,
Đồng nguyện cầu cho các Tử Sĩ các Anh Linh,
Được Phật hóa siêu sinh miền Cực Lạc.
Hỡi ôi ! Xin chứng.
Ngày 24-1-1950 nhằm mùng 7 tháng Chạp Kỷ Sửu
37- NÔNG NỖI NGƯỜI DÂN

37- NÔNG NỖI NGƯỜI DÂN

Đức Thầy từ lúc vướng nàn tai,
Bổn đạo ăn sầu nuốt hận cay.
Tủi nhục anh em gây thảm kịch,
Làm cho dư luận khắp trong ngoài.


Trong ngoài mai mỉa tiếng hư vinh,
Quyền lợi hơn thua mới chống kình,
Tranh chấp ngã nhơn câu thắng bại,
Đâu màng nghĩa đệ với tình huynh.


Tình huynh nghĩa đệ rẽ phân hai,
Xô đẩy bao người chốn gắt gay,
Chẳng những không đem câu ích nước,
Lại còn mang mển tiếng chê bai,



Chê bai thẹn mặt lắm đời ôi,
Sửa tánh răn lòng chớ để lơi.
Trót mấy ngàn năm nay mới gặp,
Đạo mầu ban rải khắp cùng nơi


Cùng nơi gắng chí chớ quên lời,
Quảng huợt thâm huyền chẳng phải chơi.
Không sớm tỉnh tu e trễ muộn,
Qua rồi khó gặp bớ người ôi!



Người ôi ! Đường đột trót mười năm,
Lao nhọc dù sao cũng rán tầm.
Một bước công danh muôn bước khổ,
Con đường tội phước tại nơi tâm.


Nơi tâm bá tánh nhặt rồi lơi;
Năm đến rồi đi quá mỏn hơi.
Tạo hóa cầm cân không đổi nhiếp,
Chớ nên khinh rẻ bớ đời ơi !
Đời ơi ta chẳng dám ngoa truyền.
Lấy lẽ công bình chẳng vị riêng,
Nếu chúng tu hành không được phước,
Thời ta chẳng phải cốt Rồng Tiên.



Tiên Rồng gầy dựng mấy ngần thu,
Dân tộc lâu đời chẳng nhược nhu.
Tấm dãy non sông tô huyết lệ,
Nấm xương chiến địa lấp sông thù.



Sông thù đã cạn thấy bày châu,
Quốc phú dân cường đứng vững lâu,
Cũng đã thi gan cùng sắt thép,
Nay còn khí phách kẻ mày râu.
38- XUÂN CANH DẦN 1950

38- XUÂN CANH DẦN 1950

Năm cũ vừa qua rất ủ-ê,
Bước sang xuân mới ngó tư bề,
Muôn dân đã chán trâu đi khỏi,
Trăm họ còn nghi cọp trở về.
Ải Bắc lao xao phường chệt khách,
Thành Nam lũ khũ đám buôn nghề.
Xuân ơi nghĩ bụng ta đi đến,
Cổ pháo mừng nhau buổi tựu tề.



Kỹ Sửu trôi qua tấp bến Dần,
Muôn người như một lễ mừng Xuân;
Cúc mai trước ngỏ khoe hương nhụy,
Dưa quả trong nhà kẻ dọn chưng.
Cành liễu xung xăng chim ríu rít,
Bên đường vút vắc cái đầu lân.
Lũ em reo ó vang chiêng trống,
Tâm hồn Thanh Sĩ rất bâng khuâng.



Bâng khuâng gan ruột rối tơi bời,
Giọt lệ khôn cầm phải nhỏ rơi;
Nhớ bạn vùi thân ngoài trận tuyến,
Thương Thầy lăn lóc chốn xa khơi.
Non sông còn tốn nhiều xương máu,
Tổ quốc đương trông kẻ thức thời.
Xâm lăng còn chực hờ trong nước;
Vui gì xuân ngắn phải ăn chơi.
39- TẶNG THANH DÂN

39- TẶNG THANH DÂN

Nửa về nửa ở nửa lưng chừng,
Lòng có gì đâu phải khó phân;
Lo nghĩ tới lui lao trí não,
Lặng yên mau chậm rảnh tâm thần.
Giả chơn sự vật do mê chấp,
Sanh diệt trạng hình tại quả nhân.
Ngang dọc cắt dây ra khoảng trống.
Thấy chi dễ khó ở nơi trần.
40- TẶNG CHIẾN SĨ BỘ ĐỘI NGUYỄN TRUNG TRỰC

40- TẶNG CHIẾN SĨ BỘ ĐỘI NGUYỄN TRUNG TRỰC

(sau khi thất thủ về đóng tại Mỹ Lưông kinh Cựu Hội nơi đây là chiến khu của VM)

Ta có mền mùng ngủ ấm thân.
Thương đoàn dũng sĩ ở trong quân.
Đêm mưa nhà dột ngồi co rút;
Nhớ đến lòng ta bắt sượng sần.



Sượng sần lăn lóc giữa canh thâu,
Manh mối ai nào có biết đâu.
Căm tức trung lương nằm ẩm thấp,
Để quân gian nịnh ở cao lầu.



Cao lầu béo bở được vinh thân,
Chước quỉ mưu thần để gạt dân.
Ngất ngưỡng ngồi trên xương máu Việt,
Nghiến răng tạo đạp nát ngay Tần.



Ngai Tần đạp đổ được xong rồi,
Cứu vớt đồng bào khỏi nạn trôi.
Khoáng trương nông nghiệp dân trồng tỉa,
Ruộng thóc phì nhiêu bảnh vậy thôi.



Được cây thiết bảng của Tề Thiên,
Đập chết lâu la đón hỏi tiền.
Ủng hộ Đường Tăng đi tịnh độ,
Vượt qua trở ngại bước sơn xuyên.
Đêm 23-2 Canh Dần (nhằm ngày 9-4-1950)
41- TẶNG ÔNG CHỦ GƯƠNG

41- TẶNG ÔNG CHỦ GƯƠNG

(Ông chủ Gương là anh ruột của ông Nguyễn
Giác Ngộ. Ông chủ đến thăm ông Thanh Si và
xin một bài thi nói về vận mạng Bộ đội Nguyễn Trung Trực sau nầy)

Dương trệ âm suy bởi thế à,
Trong người nhóm bịnh chói trăng hoa,
Mang thai đã yếu vì tinh huyết,
Sanh sản thiếu lò trẻ mỏng da.
Căn bịnh phát sanh do cái đốt,
Mạnh lành nhờ có thuốc men già.
Con người dường thể không xương sống,
Đến chừng trổi dậy nức hùng ca.
(Mùng 1-3 Canh Dần)
42- TẶNG HOÀI ÂN

42- TẶNG HOÀI ÂN

Đâu để bủng beo chí liệt hùng,
Thác nguyền kết cỏ, sống mang vòng,
Cội cây Đông chí còn thay lá,
Ta sống ngàn thu một sắc trong.
Sư trưởng chạm xương dù phải mất,
Bạn bè ghi dạ đến thân chung,
Người xưa đã có ta nay có,
Đâu để bủng beo chí liệt hùng.
(Mùng 1-3 Canh Dần, nhằm 17-4-1950)
43- TẶNG ÔNG MƯỜI PHƯỚC

43- TẶNG ÔNG MƯỜI PHƯỚC

(Mỹ Hội Đông)

Nhịn nghe, nhịn thấy, nhịn hừ hè,
Mài sắt nên kim mệt lưỡi le;
Lợn cợn nhờ phèn trong tợ giếng,
Ú nần cây búa mịn tinh tre.
Muốn dầy công quả quên lao nhọc,
Được tánh thuần lương chớ rụt rè.
Đổi lòng dơ xấu ra lòng tốt,
Họa phước nhờ ơn Phật chở che.



Đã ngót đôi niên ướm khách trần,
Duyên lành Mỹ Hội tạm dừng chân;
Xa gần cũng được chan mùi đạo,
Đây đó chưa bày nỗi thiệt hơn.
Ôm mối yêu thương đâu nín tiếng,
Chạnh tình ái truất chỉ nguồn cơn.
Lấy lòng dặn bảo lòng như một,
Chầy kíp rồi đây gặp cổ nhân.



Đeo đẳng khối phiền nhọc lắm ông,
Lớn ròng tròn khuyết phú Thiên công,
Vọng phu chiếc phận đành đi nhé,
Sớm muộn rồi đây sẽ gặp chồng.
(Ngày 30-2 Canh Dần nhằm ngày 16-4-1950)
44- TẶNG VÂN THANH

44- TẶNG VÂN THANH

Nước xao vì gió, đục vì bùn,
Trước mặt kìa xem cội bá tùng,
Tám tiết tư mùa màu chẳng đổi,
Quanh năm cuối tháng lá xanh um.
Da trời tuyệt sắc không son phấn,
Mặt nước trong ngần chặn nấu đun,
Tìm ra ngành ngọn bao nhiêu đó,
Muôn việc đều gom một tấc lòng.


Ngoài cũng như trong, trong như ngoài,
Mê là phàm tục ngộ Như Lai,
Chuyện qua chuyện tới nay không nghĩ,
Tâm trước tâm sau, hiện chẳng bày.
Dưới cũng không ngơ, trên trống lỏng,
Ngang thời vắng kẻ, dọc không ai,
Lưng trâu chàng mục ngồi thong thả,
Khoảnh đất vô biên mặc cuốc cày.



Ở trên không nóc, dưới không nền,
Tả hữu hai đầu chẳng vách phên,
Quân tử lại qua không dính dáng,
Tiểu nhân lui tới quảy tồn tênh.
Đói ăn khát uống buồn thì ngủ,
Mắt thấy tai nghe miệng nói rền.
Vũ trụ càn khôn mang một túi;
Không hiệu không danh chẳng tuổi tên.
о0о

Rán kiếm rán tìm được suốt thông,
Nghiệm rành sông đục, giếng thì trong;
Tam tâm khéo gợi tình tham luyển,
Tứ khổ không nao kẻ tục lòng.
Đám trước đi ngay trong hổ huyệt, ‘
Lũ sau lục thục đến thương tòng.
Tạo mê, rnê tạo rồi ưu ái,
Vô lượng thi hài bỏ biển sông.
(Ngày 30-2 Canh Dần, nhằm ngày16-4-1950)
45- TẶNG THANH DÂN

45- TẶNG THANH DÂN

Người kia ý muốn, muốn về đâu?
Lửng đửng mà chưa thấy lộ rmầu;
Không gậy cầm tay e núi hiểm,
Chẳng thuyền ngại bước khó sông sâu.
Đường về quê cũ bao nhiêu dặm?
Nẻo lại nhà xưa mấy nhịp cầu?
Có phải đồng lân, đồng bản xứ,
Cùng nhau hiệp sức kẻo hèn lâu.
46- CẢM TÁC

46- CẢM TÁC

Xinh xắn chi mầy khéo chọc tao,
Cái vui cái đẹp cái sang giàu.
Khác chi bọt nước chòm mây đó,
Đâu để cho rnầy dối gạt tao.



Ngày qua tháng lại cứ trầm ngâm,
Ôm mối sầu riêng mãi khóc thầm;
Cũng ngỡ cơn nguy ra giúp nước,
Đâu dè bảng lảng số dân tâm.
Câu kinh tiếng kệ đi đâu vắng?
Trách lạt nồi chay đã chát ngầm.
Ngó khắp bốn bên người nguội lạnh,
Hai hàng nhỏ lụy tợ mưa Nam.



Xác thân tứ đại có gì đâu ?
Trang điểm phấn son ướp mỡ dầu,
Bọc lớp da ngoài coi đẹp nhỉ,
Trong ruột đố người dám hửi lâu.
(15-3 năm Canh Dần, nhằm ngày 1-5-1950)
47- ĐỪNG NAO NÚNG

47- ĐỪNG NAO NÚNG

Uống nước ăn cơm bụng chẳng lờn;
Đạo mầu chung thỉ gắng keo sơn.
Khuyên ai chớ vội lòng nao nứng;
Cần rnẫn thì nên chớ để sờn.
(Ngày 23-3 Canh Dần, nhằm ngày 9-5-1950)
48- TẶNG LÊ CÔNG TÂM

48- TẶNG LÊ CÔNG TÂM

Dò theo khấp khểnh lối ngoằn ngoèo,
Đường sạn ù tai ruột rối teo;
Mang mển niềm riêng lòng bẩn thỉu,
Ấp yêu nỗi trọng bụng rêu meo.
Cố quên những chuyện đời ô thẹn,
Trì trục muôn câu gỡ phút nghèo,
Dù đã chênh chang thêm thế sự,
Cũng ồ cho sạch để trong veo.


Nhẹ gánh gia đình nặng nước non,
Một lòng thiệt quyết đạo tôi con,
Đã bao nắng thét nào xơ mẻ,
Cũng lắm gào mưa chả mỏi mòn.
Mắt ngắm giang sơn là hệ trọng,
Tai luồng huyễn hóa chuyện trò hon,
Mong sao ích chúng đời mình có,
Sung sướng chi hơn sử sách còn.


Thế sự nay mai cũng rất gần,
Râu mày chấn chỉnh được tròn thân,
Dầu nay lắm chịu nhiều kham khổ,
Ý chí càng tăng đạo đức cần.
Số kiếp Hạ Nguơn như gió buốt,
Mạng căn mạt chủng cánh phù vân.
Quay quần lo liệu trăm ngàn việc,
Đôi cuộc rồi thôi vái Phật Thần.


Trông thấy muôn dân xem lại mình,
So rồi hơn kém rán hy sinh,
Mấy khi gặp đặng Phong Thần Hội,
Rõ biết mài gươm giữa Pháp Đình.
Sớm có tu hành trau chánh tánh,
Muộn gì thế giới chẳng rung rinh.
Dễ hay chỉ tỏ ngày nay nhé!
Được việc hay không cũng tại mình.
(Ngày 25-5-1950, nhằm mùng 9-4 Canh Dần)
49- TẶNG ÚT LỆ

49- TẶNG ÚT LỆ

(em ông Lâm thế Xương)

Chủ tâm làm lụng mót âm công,
Dành dụm tương lai có phước hồng;
Ruồng rãy gốc gai khi để bước,
Sửa đương tâm tánh lúc chờ mong.
Chậm mau lần lượt rồi đi tới,
Thành bại nơi ta xét đáy lòng.
Mang mển được chưa nên liệu độ,
Kiếp chầy tạn mặt với non sông.


Bấm chơn đi lộ nhớt,
Gượng mình lúc qua đèo.
Mật gan lòng nếu có,
Đâu nể bọn hùm beo.


Trời chiều chẳng đợi bữa cơm mai,
Gạn xét rồi đi cứ mãi hoài.
Ngày thấy dễ yên lòng khó tịnh,
Gũi gần lắm nhỉ ? Giả cơn say.
(22-4 năm Canh Dần, tức ngày 7-6-1950)

50-Tặng Phạm Xuân Gia tự Ba Màng (Long Xuyên)

50-Tặng Phạm Xuân Gia tự Ba Màng (Long Xuyên)

Tức tối cho đời lắm hả ông?
Đeo mang thêm khổ, khổ nơi lòng,
Mặc người cau có hay mâu thuẫn,
Mình vẫn khiêm nhường lấy lẽ công.
Nóng nảy ví như cây dưới lửa,
Dịu mềm tựa nước rưới trên bông.
Đan tâm vì Đạo lo tu niệm,
Đãi ngộ Thần Tiên cảm huệ lòng.



Thân tâm như mảy bụi,
Vũ trụ nhẹ lông hồng.
Phiền não nghiền tiêu tán,
Qua lại giữa hư không.



Tỉnh hồn nhớ lại kiếp vừa qua,
Luân lạc trần lao chịu bịnh già.
Khổ hải biết bao chưa giải khổ,
May nhờ Phật cứu trẻ Xuân Gia.
51- TẶNG NGUYỄN MINH THÀNH

51- TẶNG NGUYỄN MINH THÀNH

(tức Phạm Văn Giác)

Sớm tỉnh chiều tu một thuở nầy,
Mong nhờ hương Phật được thơm lây,
Tâm trần rửa sạch thân nhàn nhẹ,
Trí đạo rèn xong tánh khỏa khuây.
Nương gậy Kim Cang trừ quỉ quái,
Mượn đò Bát Nhã đến Tiên Đài,
Trải bao ngày tháng linh đinh đó,
Giờ chót bù cho cuộc tái lai.



Giờ chót bù cho cuộc tái lai,
Trước nên đời đạo gắng công mài;
Bao nhiêu ác quả toan rời dứt,
Mãi mại nhơn lành cố đính đai.
Mở rộng kiến văn, phòng đổi lỗi,
Góp tom trí giác, để cầu may !
Vận hành nghị lực trừ mê hoặc,
Nên đạo thành công cũng có ngày.
(Ngày 13-4 năm Canh Dần. tức 29-5-1950)
52- THƯƠNG ĐỜI

52- THƯƠNG ĐỜI

Tu thân sửa dạ nhớ giùm cho,
Lọc cát lừa thau rán đọ dò,
Nẻo chánh đi ngay đừng dụ dự,
Đàng tà bước tránh chớ rờ mò.
Trau tria một kiếp nầy siêu thoát,
Vẹn giữ ngàn thu khỏi nhọc lo,
Đáo để an vui đời tịnh lạc,
Thân nhàn tánh lặng quá thơm tho.



Nỗi sợ rồi ra quá nỗi thương,
Nhìn người xót dạ nghĩ khôn lường;
Nào khi lạch ạch chung nhau chịu,
Gặp buổi vinh quang rẽ lối đường.
Chạnh kẻ vô ân thêm chán ghét,
Trọng người hiếu nghĩa bắt buồn thương,
Sơn minh thệ hải ai còn nhớ?
Cám cảnh dùm cho mối đạo thường.
(Ngày17-6-1950 nhằm ngày 3-5 Canh Dần)

53- TẶNG XàSÍNH (Ở xã Nhơn Mỹ)

53- TẶNG XàSÍNH (Ở xã Nhơn Mỹ)

Nước đổ trên đầu lửa khó ngoi,
Vô minh diệu tịnh cả vừa hai,
Chúng sanh là Phật tâm nên mở,
Sanh tử Niết Bàn tánh rán khai.
Đổi cải sân si ra hỷ xả,
Phá rồi nghi mạn đứng mơi ngoài.
Sau mình trước kẻ không hơn kém,
Xính vính chi mà điếc lỗ tai.


Lòng nầy thống thiết nỗi niềm riêng,
Cảm động sanh linh vấn nghiệp tiền;
Suốt cả ngàn năm chưa thoát khổ,
Truông qua vạn kiếp quá cuồng điên.
Quanh mình chất ngất loài tinh quái,
Giữa ruột loi nhoi ổ lại ghiền,
Rút tỉa thân người vô số kiếp,
Nào ai có biết nợ oan khiên.



Từ không mới có, có rồi không,
Gánh quảy nhơn duyên dạo cõi hồng;
Trước thấy ông cha trầm biển ái,
Sau rồi cháu chắt cũng mê sông.
Linh sàng mỗi lúc kỳ đơm quảy.
Có nghĩ hồn thiêng buổi sống không ?
Cũng vợ rồi con lo vạn sự,
Nhưng nay thác mất dập nơi đồng.

Thôi đi chớ lắm nghĩ xa vời,
Đó biết thì đây mới nói chơi,
Bốn cửa trông ra không chỗ bít,
Ba lò mót mái được cơm xơi.
Năm ông xách gói về nhà cũ,
Một lão ngồi yên nhích miệng cười,
Tá hạ ô kìa ! A tá hạ,
Khoan dung rảo bước nọ nầy chơi.
(Ngày 29-6-1950 nhằm ngày15-5 Canh Dần)
54- TẶNG HAI MUỐN

54- TẶNG HAI MUỐN

(Con ông trưởng giả Hai Thương)

Uổng kiếp mày râu lắm Muốn ơi!
Tu rồi lại bỏ chạy theo đời,
Say sưa vật dục lo chè rượu,
Đắm đuối bạc bài háo việc chơi.
Bố Mẹ đau lòng con bất hiếu,
Thầy trò xót dạ nghĩa se lơi,
Đời cùng cận kế mau trau sửa,
Kẻo uổng mày râu lắm Muốn ơi!
(Ngày 15-5 năm Canh Dần)
55- CẢM TÁC

55- CẢM TÁC

Động gió buồm trương cố thẳng lèo,
Sông mê quyết lánh chẳng còn neo,
Năm hồ thích chí câu thanh tịnh,
Bốn bể thầm vui tiếng kệ reo.
Dẫu bã công danh đâu sánh kịp,
Hay mồi phú quí khó bì theo,
Ngày qua hỏng hảnh chan mùi đạo,
Hưởng thụ thiên nhiên rảnh nỗi nghèo.



Tu không phải dễ chớ khinh thường,
Dễ khó nơi mình rán liệu phương;
Đến Phật thân kia nên xả phú,
Về Tiên ý đó nhớ cầm cương.
Nghèo thời tạm đỡ dưa cùng muối,
Rách phải chầm khâu bã áo sườn.
Suốt tháng quanh năm không bận rộn,
Tâm thần khoái huợt được an khương.
(24-7-1950 nhằm ngày10-6 Canh Dần)
56- KHUYẾN TU

56- KHUYẾN TU

Len lỏi trong trần nhọc nhã bao,
Xót lòng thương chúng dắt dìu nhau;
Giác mê kẻ ác khoan lừng lẫy,
Khuyến tấn người lành chớ mậy tao.
Nhiên hậu thơm lây trang Thượng Cổ,
Hiện tiền xứng đáng khách đời sau.
Ước mơ trên dưới ai như nấy,
Lần lượt thanh bình khỏi phải lao.



Viếng an Hồng Nhạn được yên lành,
Nầy nọ thôi đừng chớ vọng sanh;
Lao khổ khổ lao đời hỗn độn,
Tỉnh tu tu tỉnh phải cho sành,


Âu lo phận sự lúc chiều mai,
Khó nhọc dù sao cũng rán mài,
Đức hạnh tập rèn cho thiện mỹ,
Tâm tình sửa đổi được thanh bai.
Rành phân mọi việc làm công chánh,
Đối xử đạo đời phải thẳng ngay,
Dụng sức trẻ trai trừ dục vọng,
Ngày kia mong mỏi đáo Tiên đài.



Thăm anh được mạnh mạnh lo tu,
Vận dụng gươm linh vẹt ngút mù,
Sớm tối chuyên trì nền đạo đức,
Hôm mai mài miệt chữ công phu.
Bao nhiêu thị dục nên trừ bỏ,
Những chuyện tốt lành rán góp thu,
Lọc lựa giả chơn cho kỹ lưỡng,
Mày mặt tương lai đủ sức bù.

57- XUÂN TÂN MÃO 1951

57- XUÂN TÂN MÃO 1951

Truông qua một lượt mấy tràng xuân,
Ý vị chi năm Tý, Sửu, Dần,
Trăm họ lăn vùi trong biển lửa,
Ngàn nhà lụi đụi giữa rừng quân.
Đi đâu vắng vẻ màu mai cúc,
Để lại đầy vơi những ớt gừng,
Thế ấy mà sao mi chẳng chán ?
Nay còn léo hánh Mão Tân Xuân!


Xuân ơi xuân đến để mà chi,
Mỗi lúc đầu năm cũng thế thì,
Nam nữ đõn chờ xem xấu tốt,
Trẻ già cung chúc được quang huy.
Năm rồi cũng cứ Xuân Xuân khổ,
Giờ lại đến đây Tết Tết gì?
Nếu phải hòa bình thì ở mãi,
Bằng mà tranh chiến hãy mau đi.



Xuân ở người ra hay ở Trời,
Hình thù sặc sỡ thế Xuân ơi,
Bày trưng đủ thứ trò ca múa,
Đặt để thêm nhiều những thức xơi.
Xuân đến thị thành người rộn rịp,
Xuân về thôn dã kẻ đua bơi,
Riêng ta chẳng phụ tình xuân nhé!
Nhưng quá nghi xuân ngắn của đời.



Ngày xuân kích thích trẻ đương xuân,
Gẫm có chi vui tuổi lục tuần,
Mỗi Tết mỗi lo mình trọng kỷ,
Càng xuân càng sợ kiếp mòn lần.
Tiền nhiều cũng khó mua thêm sống,
Thế mạnh nào đâu dễ bảo thân,
Nếu biết van cầu nơi Phật lực,
Nương mình chốn ấy hưởng trường Xuân.
58- TẶNG ÔNG CHÍN MƯU

58- TẶNG ÔNG CHÍN MƯU

Đây lời cảm động ẩn bên trong,
Tặng bạn đồng môn yểm cõi lòng,
Lá úa âu đành cho nó rụng,
Chồi tươi rán giữ đợi đơm bông.
Ngư phùng độc thủy là duyên nghiệp,
Nộn điểu tao phong ấy quả hồng.
Chỉ có đường trường tâm chớ đoản,
Rồi hay mới cũ có hay không.
(Mùng 1 tháng Giêng Tân Mão, nhằm 6-2-1951)
59- NGƯỜI QUẢ PHỤ VỚI ĐỨA CON TRONG CẢNH NGHÈO

59- NGƯỜI QUẢ PHỤ VỚI ĐỨA CON TRONG CẢNH NGHÈO

Con ơi đã đến đến năm Mèo,
Dạ mẹ đêm hôm nhớ cảnh nghèo;
Trước ngõ sương rơi nghe lác đác,
Sau nhà mèo cất tiếng ngoeo ngoeo.
Thương con quá sợ môi bầm tái,
Nỗi mẹ nhiều lo ruột rối teo.
Cảm tưởng cho thân người quả phụ,
Tâm can của mẹ lắm khi nhèo.
(Đêm mùng 5 tháng Giêng Tân Mão tại nhà ông Cả Mười, nhằm ngày 11-2-1951)
60- TẶNG TRẦN QUANG CẦU

60- TẶNG TRẦN QUANG CẦU

(tức ông Tám Bắc ở Cái Xoài)

MUỐN cho hậu hữu được an lành.
BIẾT đạo rèn lòng sớm tiết thanh;
TƯƠNG ái mọi người nhiều hoặc ít,
LAI đầu chư Phật thiệt và thành.
NHÌN ra ngoại cuộc còn mờ mịt,’
NGAY cảnh gia đình chửa trọn tin.
HIỆN hữu âu toan cho nhứt trí,
TẠI tiền phước huệ có Trời sanh


Nước nhà còn lửng khửng,
Cá nhân há an vững,
Phải rán lo tu hiền,
Mai sau ắt có mửng.
61- XIN HỎI

61- XIN HỎI

Mấy ông cũng trông, tôi cũng trông,
Trông cho rựng rựng bóng ô hồng,
Soi đời tát bát mầu u tối,
Mở mắt quần mê được lánh long,
Nếu ví như chưa, chưa gặp có,
Thì là đó phải, phải chờ không,
Xin phân cạn kẽ cho tôi rõ,
Mấy ông cũng trông, tôi cũng trông,
Vì đâu thế giới nổi can qua,
Thử xét nguyên nhân dễ hiểu mà,
Chủ nghĩa phân tranh coi có phải,
Tổn nhơn ích kỷ đó gây ra,
Ham danh kẻ vội quên thân tộc,
Mến lợi người đành phụ giống da.
Tội lỗi chiến tranh đây có phải,
Đời ơi ! Rán tránh ắt dân hòa.
(Đêm 8 tháng Giêng Tân Mão tức 15-2-1951)
62- TẶNG ÔNG HƯƠNG TRƯỞNG ở xã Nhơn Mỹ

62- TẶNG ÔNG HƯƠNG TRƯỞNG ở xã Nhơn Mỹ


Eo óc tiếng gà rộ gáy lên,
Canh năm tiếng mỏ tiếng chuông rền,
Am thiền các sãi lo hương khói,
Ông Trưởng ơi ! Ông chớ ngủ quên.


Ông Trưởng ơi ! Ông chớ ngủ quên,
Nghiêng vai ngồi dậy xếp chăn mền,
Bới đầu súc miệng ra bàn Phật,
Nhìn coi tam thế đã ngồi trên.


Lên hương ngào ngạt giữa trời đêm,
Cảm động trần gian ruột úa mềm,
Nghe giọng khuyên răn lo sợ hãi.
Lên hương ngào ngạt giữa trời đêm.
(6 tháng Giêng Tân Mão, nhằm 11-2-1951)
63- ÔI ĐỜI

63- ÔI ĐỜI

Ta hồ ! Vạn giác cánh thiên tri,
Duy hữu phiến tâm bất hứa kỳ,
Xú khử nhơn sàm hà nhĩ tác,
Phân ưu manh thích hựu vô vi.
Lao đông hoảng hốt vô tương tỉ,
Thiện sự nhàn du phủ nhận trì,
Tự vấn tư thân, Hà dĩ cố?
Uổng sanh nhứt kiếp bảo mê si.
(Ngày18-2-1951 nhằm 13 tháng Giêng Tân Mão)
64- LÒNG TÔI ĐỐI VỚI THÂN TÔI và VỚI NGƯỜI

64- LÒNG TÔI ĐỐI VỚI THÂN TÔI và VỚI NGƯỜI

Hàm tâm đạo chúng khải đồ thân,
Thượng biểu minh châu chiếu liệt trần,
Bỉ thử ngô phi nguyên bất ủng,
Tôn ti ngã kiến hải vô tân.
Nhàn quan ngũ uẩn đôi sài hủ,
Khẩn quán tam tiéu bối mã tưần.
Tiệu tá nhứt thời trừ khấu lỗ,
Hưu hoàn hạ lý dĩ nhiên nhân.
(18-2-1951 nhằm ngày13-1Tân Mão)
65- TẶNG HOÀI ÂN

65- TẶNG HOÀI ÂN


KỆ

Buông ra khắp vạn vật,
Nắm lại trong gang tấc.
Quả thiệt diệu chơn tâm,
Cũng gọi hàm tàng thức.
о0о

Vứt bỏ chuyện vừa qua, (quá khứ)
Tránh xa điều xảy tới. (vị lai)
Hiện tại không đem lại, (hiện tại)
Ba tâm vốn đều không,
Ngôi Như Lai sẽ tới.
(23 tháng Giêng Tân Mão nhằm ngày 28-2-1951)
66- TẶNG THƠ KÝ MÀNG

66- TẶNG THƠ KÝ MÀNG

 (tức PHẠM XUÂN GIA)

Cho lòng nông nổi thế sao ư?
Hư sửa đành nào để bỏ hư,
Tiếng súng thêm nhiều, thêm cắn rứt,
Màu cờ mãi lắm, mãi ưu tư.
Đã bao khó mỏi không đành chán,
Nay chút phiền hơi nỡ rũ từ,
Thử hỏi làm trai quên bổn phận,
Đêm nằm xét lại thẹn chăng ư ?!
о0о

Đại nghĩa xem hơn cái tiểu phiền,
Thầm nghe Tổ Quốc gọi con Tiên;
Kề vai gánh đỡ nhà khi biến,
Góp mặt tô bồi lúc nước nghiêng.
Xem nhẹ gia đình đừng bận bịu,
Nặng lòng quốc tộc để thường xuyên.
Làm cho đạt đến câu vinh diệu,
Có lắm gay go cũng chớ phiền.
(23-1- năm Tân Mão)
67- TẶNG MỘT ÔNG LÃO CÓ NHIỀU TÁNH NÓNG

67- TẶNG MỘT ÔNG LÃO CÓ NHIỀU TÁNH NÓNG

Ngọn lửa trong tâm vội cháy bừng,
Vô tình mở cửa gió ồ bưng,
Trớ trêu sáu trẻ khêu ta ạ ? !
Điên đảo một già véo ngẩn ngơ.
Trong động chơn nhơn ngồi lặng lẽ,
Ngoài thềm đồng tử chạy lâng khâng,
Hồ lô Lục Yểm ta xin mượn,
Diệt lũ yêu tinh cứu khách trần.
68- TẶNG ÔNG GIÁO CHÚC

68- TẶNG ÔNG GIÁO CHÚC

(LÊ DUY CHÚC)

Tu Phật, tu Tiên, tu Quốc Gia,
Chịu bao nghịch cảnh khó khăn rnà;
Nặng nề chi sá trai thời loạn;
Nhằn nhọc nài bao chí lợi tha.
Làm được những điều mình khó được,
Nhẫn qua nhiều việc khó truông qua.
Nhớ ghi lửa chướng mau tiêu diệt,
Mong đến tương lai kiến Phật Đà.
о0о

Có biết được hay chưa ?
Ngàn muôn kiếp có thừa.
Chúng sanh nằm bể ái,
Còn chi nữa cù cưa.
о0о

Ngựa hay mạnh bước, bước đường dài,
Vàng vững thân mình kẻo chuyển lay,
Khai phá rừng mê không cản trở,
Tới lui non lãnh ngắm non đài.
69- TẶNG ANH EM CHIẾN SĨ

69- TẶNG ANH EM CHIẾN SĨ

(Trung đội Danh dự ở kinh Đồng Tân, Mỹ Hội Đông)

Canh chầy đánh thức tiếng chuông ngân,
Mượn lối thi ca giáo dục trần,
Gọi kêu nhân sĩ đâu ngồi đó,
Yên chí thầm nghe khúc nhạc vân.
70- GIỮ CHÁNH ĐÀNG

70- GIỮ CHÁNH ĐÀNG

Dầu cho Tiên Thánh xuống phàm gian,
Cứu độ nhơn sanh giữ chánh đàng.
Sau mới mong về nơi vị cũ
Bằng mà tạo ác cũng tiêu tan.
(Ngày 14-3-1951, nhằm ngày 27-1 Tân Mão)
71- TỰ TÁC

71- TỰ TÁC

Đứng đợi ai đây cái tuổi xuân?!
Dường như hiểu chán kiếp phong trần.
Đang tìm nẻo nhiệm đưa nhơn loại,
Đến chỗ siêu vời của Thánh Nhân.
(Ngày 9-4-1951 nhằm ngày 4-3 Tân Мãо)
72 TẶNG BẢY XƯƠNG

72 TẶNG BẢY XƯƠNG

Đức tin cứng cỏi lướt gai chông,
Dang dở đà bao chẳng rũ lòng;
Mày mặt bơ phờ coi dễ chán,
Ruột gan cương quyết thấy mà mong.
Tiếc cho sức mỏng khôn toan liệu,
Phiền nỗi thân cô lắm muỗi mòng.
Xem thấy tình ni thêm áy náy,
Hộ trì lương tử nguyện Trời ông.
Dày mặt mắc cá gay,
Biển Trời đâu thấy chật.
Thức đêm phải ngủ ngày;
Mở mang hay mang mỡ.
Nổ cái đùng điếc tai.
Đạo hạnh cần âu chớ lảng chơi.
Biển đời khắc khổ mãi lưng vơi.
Thấy đây rồi đó đâu xa xắc,
Làng lẹ ai ơi ! Kịp máy Trời.
73- TẶNG ÔNG BỘ TỐNG

73- TẶNG ÔNG BỘ TỐNG

Ái nhơn ái kỷ phú hà sa,
Đổi dữ thành nên chữ hiếu hòa,
Rửa sạch tâm nhơ nên sĩ khí,
Trẩy mầm nệ cố được hùng ca,
Thương người, người ắt thương ta lại,
Ghét kẻ thì là kẻ ghét ta,
Biết đạo ông ôi ! Hành chánh lý,
Mở tâm rộng rãi lượng như hà.
74- TÂM TỨC PHẬT

74- TÂM TỨC PHẬT

Đêm ôm Phật ngủ ngáy kho kho,
Sáng thức dậy thời nắm giữ tro,
Đúng bữa ăn cơm nhai nhóc nhách,
Đến chừng ỉa đái cũng ro ro,
Nằm ngồi cũng chẳng rời da thịt,
Nói nín đều theo tới óc o,
Đó đó rõ ràng ông Phật đó,
Nhọc chi ngày tối cứ rờ mò.


Bài thơ đã nói rõ trên đây,
Ớ bạn tri âm kiếm chỗ nầy,
Thấy rõ tục Tiên nơi yếu lý,
Hiểu rành chơn giả chỗ hay hay,
Thành công một đạp thì nên đạo,
Đắc quả ba roi đặng phép tài,
Xét tận Thánh phàm không mấy khác,
Nhìn ngay mặt nguyệt chớ nhìn tay.


Chữ tu sửa dạ để làm lành,
Lánh trược tầm về chỗ cao thanh,
Muôn việc cao sang không cảm xúc,
Ngàn điều khổ não chẳng rung rinh.
Đem thân đền trả ơn quân quốc,
Dụng tánh giao phôi với Ngọc Đình.
Ví mình sen nọ màu xanh biếc,
Ở tục lòng hằng giữ sạch trong


Có thấy hay chưa bớ thế gian,
Bầu trời khói lửa cảnh lầm than,
Biết bao đô thị coi huy quát,
Rồi cũng biến ra đống củi tàn.
Hoàn cầu mê mệt trong tràng mộng,
Thế giới đao binh tiếng rổn rang.
Cái sướng cái vui là cái khổ,
Sao không tỉnh thức cứ mơ màng.
75- TẶNG THỢ TƯ BẢN (ở Chợ Mới)

75- TẶNG THỢ TƯ BẢN (ở Chợ Mới)

Bóng nọ tùy hình rõ vạy ngay,
Ăn đường thì ngọt ớt thì cay,
Để thân búa đẽo cây nên bụt,
Cho bụng trong veo sấu biết bay.
Mực tàu nẻ thẳng đau lòng gỗ,
Lời phải thường hay trái lỗ tai,
Khuyên nhủ với ai còn tánh cọc,
Bán tôi mua đứt lấy xu xài.
76- CÁ MẮC CẠN

76- CÁ MẮC CẠN

Cuối hạ sang thu nước khỏa đồng,
Nào là rô, sặt, lóc hay bông;
Rủ nhau cả lũ tràn lên ruộng,
Kéo róc mẹ con lội giáp vòng.
Thong tha mê ăn mồi tép muỗi,
Không dò nước giựt để ra sông.
Đến chừng đồng bái đều khô cạn,
Lớn nhỏ phơi lưng dưới vũng bùn.

.

Lớn nhỏ phơi lưng dưới vũng bùn.
Trời mưa nắng bức nước mưa đun,
Ra sông cũng chẳng nơi oi mội,
Xuống rãnh không đường mới khổ hung.
Kêu nước, nước sao lui mất biệt,
Gào mưa, mưa lại vắng không phun.
Thôi rồi mạng số đành hưu hỹ,
Giao cả cho người mặc nấu um.
77- TỰ ТÁС

77- TỰ ТÁС

Нồn về cõi tịnh xác còn đây,
Mượn thú tiêu dao khắp nọ nầy,
Ở tục tâm không hề mến tục,
Cư trần bất nhiễm chốn trần ai.
Ra công chuyên chở người lương thiện,
Trổ sức đỡ nâng kẻ tớ đày.
Danh chẳng còn ham nào mến Iợi,
Làm tròn nhiệm vụ đến Bồng Lai,



Sớm mai hay lúc buổi ban chiều,
Chật vật huỳnh hôn gió hắt hiu,
Mặc áo tràng dà đi lễ Phật,
Tâm hồn khoan khoái cảnh tiêu diêu.



Nhắn nhe phụ nữ khắp cùng nơi,
Chớ lắm se sua với cuộc đời.
Má phấn môi son cho lắm lắm,
Đến lúc già nua cũng mỏn hơi.
о0о

Ba bên bốn phía nổ đùng đùng,
Một mình ở giữa chạy lung tung.
Con xa cha mẹ chồng lạc vợ,
Thê thảm Trời xanh bắt lạnh lùng.



Hung mà chi dữ lắm mà chi ?
Tận số thì người cũng rã thi.
Còn để danh nhơ đời oán ghét,
Sao bằng hiền đức chúng yêu vì.



Đời là giả dối thân vô thường,
Nõn nà vẻ đẹp có thiên hương.
Cũng trong nháy mắt rồi tàn úa,
Để lại người mê một khối thương.



Khối thương đầy đặn nhớ vô ngần,
Từ trên thiên tử đến quan dân,
Cũng đều yêu chuộng, càng yêu chuộng.
Ha hả giả thân mến giả thân.
78- KHUYẾN TU

78- KHUYẾN TU

Mang mển phàm thân quá nặng nề,
Lòng càng vướng chặt lưới si mê,
Quanh năm mãi nghĩ điều ăn mặc,
Suốt kiếp tính lo việc ngủ nghê,
Nỗi bịnh thân đau càng khó chịu,
Thêm già lại khổ thấy ê chề,
Vô thường cặp sát bên thân mãi,
Chẳng biết sao mà cứ trễ bê.


Đời nầy mỏng mảnh tợ màn the,
Khổ khổ càng thêm cận mái hè,
Đạo nhiệm khuyên ai mau tấn bước,
Nhơn từ ớ kẻ liệu mà nghe,
Toan lo tích đức tiêu tai họa,
Liệu rửa phiền ưu được nhạn nhè.
Khổ khổ hoàn cầu thêm nỗi khổ,
Mong nhờ Đức Phật lọng tàn che.


Sống ở trong đời quá khổ lao,
Lo tu, tu mãi nỡ quên nào!
Oan khiên đã vướng toan đền trả,
Nghiệp chướng lỡ gầy phải tính sao?
Một kiếp rửa xong điều ám muội,
Ngàn thu tự tại khắp non đào.
Tam nguơn ách biến thêm chồng chất,
Thức tỉnh người đời liệu lượng mau.


Hoàn cầu dân sự khổ tai ương,
Thảm thiết đao binh cảnh đoạn trường,
Oán ghét lòng người còn chất chứa,
Can qua trạng huống khó nhường thương.
Cơ hàn sự ấy thêm đồn dập,
Chết chóc nầy kia số bất tường,
Ngưỡng vọng cao xanh ông xuống phước,
Dân lành khắp chốn bớt thê lương.


Đôn nầy bẩn thỉu lắm sao ông?
Mực nện trên thơ có vẻ nồng.
Vận bỉ còn kia, còn nhẫn nhục,
Tu hành bế chí kiến Hoa Long.


Quả đất tròn xoay tợ bánh xe,
Tuồng đời mỏng mảnh như màn the,
Nam châu khói lửa thêm dồn dập,
Bốn biển đao binh siết cạnh hè.
Nội quốc Nam Bang nhiều khổ ách,
Ngoại kiều Bắc ải lắm khò khe.
Non sông ủ dột châu mày mặt,
Chủng tộc rèn tâm cốn một bè.


Chủng tộc rèn tâm cốn một bè.
Đồng lòng đẩy gỗ gỗ đi te.
Dòng xuôi cậy có oai trời giúp,
Ngược gió nhờ ta sức hụi hè.
Giỏi nắm càn khôn xây cảnh đẹp;
Dở thời vũ trụ đảo chìm ghe,
Kìa coi bóng ác về non thẩm,
Sẽ biết nhà Nam tiếng khổng dè.
79- ТU VÀ NIỆM PHẬT

79- ТU VÀ NIỆM PHẬT

Tu là sửa đổi tánh lầm sai.
Tu nói làm sao tánh mãi hoài;
Tu hiếu tu trung tu chánh trực,
Tu hiền tu thảo dạ thanh bai.
Tu không phạm đến mười điều tội,
Tu chẳng rời quên tám lẽ ngay.
Tu hối Thần kinh tà quỉ khiếp,
Tu trong phải được lẫn bên ngoài.



Niệm Phật niệm Trời niệm Thánh Tiên,
Niệm cho tánh dữ hóa ra hiền
Niệm lòng thanh tịnh không xao động,
Niệm chữ từ bi chẳng xỏ xiên.
Niệm tánh quang minh tan ám muội,
Niệm tâm hỷ xả rứt ưu phiền.
Niệm hoài niệm mãi Di ĐÀ Phật,
Niệm trọn đạo người niệm giác viên,
80- TẶNG ANH GIỎI

80- TẶNG ANH GIỎI

Thân mình, miệng mình, ý của mình,
Thì mình tự chủ để ai rinh.
Tri kia dụng lấy trừ ngu muội.
Tâm nọ thường soi để biện mình.
Ngôn ngữ dịu dàng trong lẽ đạo,
Tưởng tư thanh bạch ở chơn tình.
Chuyển mê khai ngộ đừng xao động,
Phật, Thánh, phàm sanh ngó cũng in.
81- KHUYẾN TU

81- KHUYẾN TU

Thiên đường địa ngục tại nơi ta,
Tội phước hai đường phải xét ra,
Bát chánh làm xong về cõi Phật.
Tаm bành khó dứt chịu làm ma
Đi lên cố gắng qui an dưỡng
Trở xuống buông lung rớt ái hà.
Đắc đạo thành tâm vô quái ngại,
Tô vàng hiển hít hiện cho ta.


Mỗi việc trên đời quá khó khăn,
Nhưng lòng nhứt quyết dễ như ăn,
Thành Tiên, Thành Phật do lòng muốn,
Làm quỉ làm ma tại chẳng cần.
Địa ngục vào đây vì có tội,
Thiên đường đến đó biết ăn năn.
Nhơn sanh nếu được tâm như một,
Thế giới u minh đổi Niết Bàn..


Ngày càng siết chặt chớ chưa thôi.
Mắc mỏ nhiều phương thấy khổ rồi.
Gạo lúa tăng cao, người chởm mắt.
Nhơn công hạ thấp, kẻ trơ môi.
Trâu, bò quị cẳng vì không cỏ.
Cá trạch phì lưng bởi hết mồi.
Điểu thú âu sầu cơn gió bão.
Nghèo giàu chẳng bận nữa đâu ôi.
82- TẶNG CÔ GIÁO LIỂNG ở Gò Công

82- TẶNG CÔ GIÁO LIỂNG ở Gò Công

Tu như sấu nọ hóa cù bay.
Tu phải đày công luyện tánh hoài;
Tu chẳng lừng chừng lòng bán tín,
Tu không dục tốc dạ mau phai,
Tu trong giấc ngủ như khi thức,
Tu ở chiêm bao tợ ở ngoài.
Tu nói thì làm không bỡn cợt,
Tu như đói bụng quyết ăn ngay.


Hoặc nghiệp trần ai lắm khổ bí,
Nhơn nào quả nấy vẫn không ly;
Công danh bọt nước khuyên đừng tưởng,
Phú quí chòm mây chớ nghĩ gì.
Sớm tối lo gìn câu Bát Nhã,
Chiều mai rán niệm chữ А Di.
Tu cho rõ mặt con hiền thảo,
Tái bảng Phong Thần chiếm hội thị,
83- TẶNG ÔNG CHÁNH Ở TRÀ VINH

83- TẶNG ÔNG CHÁNH Ở TRÀ VINH

Thương ông bổn quán ở xa đường,
Rõ đạo không nài việc gió sương,
Đến hạt Long Xuyên dừng trú ẩn,
Chờ miền Châu Đốc cánh buồm trương.
Tu cần nhẫn nại lo cày cuốc,
Rán miệm Nam Mô giữ bực thường.
Biết được tu hành nên sửa tánh,
Mong ngày Đại Hội kiến Minh Vương.
84- TẶNG ÔNG T. T. (An Hòa)

84- TẶNG ÔNG T. T. (An Hòa)

Bực tức đau mình chẳng khổ ai,
Làm lành làm phải nhớ ghi hoài,
Lên cây cậy có nhiều phân nước,
Được gạo nhờ tay kẻ giã xay.
Ngoài thế người hiền thường gặp dữ,
Trong trào kẻ nịnh ghét người ngay.
Tu tâm hiểu rõ khuyên đừng nại,
Nhớ tạo cho thân phước huệ dài.
85- TẶNG MỘT ÔNG ở RẠCH GỪA

85- TẶNG MỘT ÔNG ở RẠCH GỪA

Đời chưa thấy dễ hỡi ông ôi !
Rõ biết đường tu rán tỉnh hồi,
Xét nghiệm kim tiền không hậu thế,
Truy nguyên tại bổn thức hoa khôi.
Thiên cơ kín đáo in tâm khảm,
Báo ứng trưng ra rõ lắm rồi,
Bến giác tuy xa đò chẳng cách,
Sau mình ngó lại hiển nhiên thôi.
86A- KỶ NIỆM 18 THÁNG 5

86A- KỶ NIỆM 18 THÁNG 5

Đến ngày mười tám tháng năm,
Tín đồ Phật giáo đồng tâm kính thành,
Ngày kỷ niệm Đức Huỳnh Giáo Chủ,
Đem đạo mầu truyền thụ nhơn sanh,
Từ trong làng mạc u minh,
Đến ngoài đô hội thị thành đều nghe.
Thời Pháp thuộc khắt khe biết mấy,
Nhưng Tôn Sư chẳng lấy làm buồn,
Lòng nguyền dắt chúng qua truông,
Mặc ai đón ngõ ngăn đường không nao.
Dầu đã gặp gian lao tân khổ,
Vẫn nêu cao đức độ từ bi,
Thấy đời sắp vướng tai nguy,
Động lòng trắc ẩn ra đi cứu đời.
Tạm nghiên bút bài lời thế tục,
Mượn lá vàng dụng chút huyền thông,
Để cho bá tánh cảm lòng,
Trước là lành bịnh sao hòng chịu tu.
Thường có bực văn nhu sĩ thứ,
Đem thơ bài đến thử thiếu niên,
Hiệu danh xưng kẻ Khùng Điên,
Mà không suốt việc cơ huyền lạ không.
Nho gia có nhiều ông nể phục,
Chẳng phải người phàm tục thế gian,
Lần hồi việc nọ đồn lan,
Người gần đến kẻ xa đàng tới coi.
Nhà Ông Cả trong ngoài đông đúc,
Buổi đầu tiên nhiều lúc gian truân,
Tây tà dời dạt tấm thân,
Rày đây mai đó tảo tần gay go.
Thương Thầy chẳng ngớt lo cho thế,
E nản lòng bỏ phế Sử Kinh,
Than ôi ! Đã lắm công trình,
Dạy từ người một đến nghìn muôn dân.
Nay rủi phải gặp cơn bất trắc,
Nên tớ Thầy vắng mặt mấy năm,
Đôi nơi khó đứng khôn nằm,
Ai xui trên nỗi tay lầm cắt tay.
Kẻ đã chết vì tài vì của,
Người đang say nào ngựa nào xe,
Đua nhau cờ bạc rượu chè,
Không kiêng tội trọng chẳng dè họa sâu.
Những bộ áo sòng nâu đâu vắng,
Se sua đồ xinh xắn lụa the,
Sám truyền ai cũng đều nghe,
Chỗ nào Thầy dạy lẹt lè xa hoa.
Chớ trách bởi đường xa mỏi gánh,
Đừng tưởng lầm thần thánh nói chơi,
Buông lung trụy lạc theo đời,
Uổng thay một kiếp con người dở dang.
Hãy tỉnh thức lo toan bổn phận,
Mưu việc lành dìu dẫn cùng nhau,
Chớ ham chức nghiệp sang giàu,
Để lo hạnh phúc đồng bào hưởng chung.
Không nên quá lạnh lùng bạn tác
Bày nọ kia xuyên tạc cho lơi,
Chen vai thích cánh kịp thời,
Rẽ chia ắt bị cuộc đời bỏ xa.
Hãy coi kìa người ta đang tiến,
Mình trù trừ lười biếng được sao?
Một khi sóng gió ba đào,
Hỏi mình đâu có giầm xào đỡ ngăn.
Cứ ngồi lo riêng ăn riêng mặc,
Rủi gặp khi có giặc làm sao?
Dù cho lúa vựa tiền bao,
Thì là cũng bỏ dễ nào đem theo.
Phải biết lúc nước nghèo dân túng,
Cảnh điêu tàn người cũng xơ rơ,
Giặc tràn như nước lở bờ,
Biên thùy dân tộc đương ngơ ngẩn lòng.
Trong lúc kẻ giống dòng khổ sở,
Mình yên vui có nỡ hay không?
Mau đem sương trắng máu hồng,
Cứu an dân nước thoát vòng lửa binh.
Phải thương kẻ như mình chẳng khác,
Ta mà còn người thác không vui,
Cùng nhau chan sớt ngọt bùi,
Để noi chí thiện của người đời xưa.
Hỡi đồng đạo ! chiều trưa mai tối,
Phải thành lòng khấn vái ơn trên,
Vận lành Trời khéo xui nên,
Cho dân sớm được thấy nền an cư.
Ăn ở phải hiền từ chơn chất,
Bỏ tánh tình kiêu xấc vô liêm,
Cắt xong manh mối thù hiềm,
Nối dây thân ái tỏ niềm yêu đương.
Hiệp sức lại biểu dương Phật pháp,
Nung đúc nhau rèn tập lòng thành,
Quên đi cái bã lợi danh,
Đặng đem chí cả Phụng thành Phật, Nhân.
Đừng để kẻ đồng lân rẽ rúng,
Vì bởi mình vô dụng quốc dân,
Ta sanh ra giữa cõi trần,
Nhục vinh chỉ có một lần nầy thôi.
Vậy phải rán nên người dân Việt,
Nêu tinh thần cao khiết hùng anh,
Trau thân trọn sáng trọn lành,
Đạo, đời hai mặt phải gìn vẹn hai.
Cái thế hệ ngày nay u hiển,
Khắp bốn phương biến chuyển vô chừng,
Có thân phải liệu lấy thân,
Để khi đến việc nợ nần chưa xong.
Tu hành vốn tầm trong lánh đục,
Lìa bỏ điều tà khúc bất nhân,
Lo làm những việc đức ân,
Diệt lòng ích kỷ của trần chẳng ham.
Không tập tánh điếm đàng mèo mả,
Cứ miệt mài đạo quả thanh tân,
Tiếng kêu đồng đạo xa gần,
Dạ nào lại nỡ quên lần sự tu.
Đêm ngày cứ say gù rượu thịt,
Rồi kiếm lời chăm chích cho nhau,
Thấy đời giả dối buồn đau,
Nói hay có mấy ai nào làm hay?
Chạnh nhớ đến Đức Thầy rơi lụy,
Bị tiếng đời khinh bỉ biết bao,
Cũng vì mình chẳng thương nhau,
Mới là nên nỗi xáo xào héo don.
Làm môn đệ chẳng tròn bổn phận,
Hỏi lại lòng ân hận hay chăng?
Nhớ giùm hai chữ ăn năn,
Thường ngày hằng nguyện trước bàn Phật gia.
Hãy tự xử khi ta lầm lỗi,
Để nhiều lần phạm tội vọng ngôn,
Nhắn cùng lân ấp thương thôn,
Nắm tay chặt chẽ mưu tồn cho nhau.
Nhân cuộc lễ biết sao đáp tạ,
Tấm chân thành tất cả đệ huynh,
Nên đây mượn ít lời lành,
Để khuyên nhau gọi chút tình đồng môn.
Ngày 18 tháng 5 Tân Mão nhằm ngày 22-6-1951.
86B- PHẬT Ở ĐÂU

86B- PHẬT Ở ĐÂU

(Bổ Sung Thêm)

Phật ở đâu khi có người hỏi tới,
Chỉ vào tâm tôi liền nói ở đây.
Lặng lẽ nghe, lặng lẽ ngó đêm ngày,
Sẽ thấy Phật từ xưa nay ở đó
Dùng tâm ngó không nên dùng mắt ngó,
Lấy tâm nghe đừng có lấy tai nghe,
Ngó nghe luôn trong lòng chẳng bỏ bê,
Bọn lục tặc hết lăm le khuấy rối.
Ấy là diệu pháp về phương đối nội.
Nhưng còn phương đối ngoại cũng nên phòng,
Lấy giới răn làm vách sắt thành đồng.
Dùng Trí Huệ từ tâm phong tướng tá.
Cảnh đau khổ mê si nguyền giải phá,
Cho khắp nơi thiên hạ được an vui.
Đổi trần gian thành Cực Lạc tốt tươi,
Khiến ai cũng thật là người Bồ Tát.
Tát cạn sông mê là việc khó,
Lấp bằng bể khổ dễ gì đâu.
Tuy nhiên khó dễ, không do cảnh,
Do ở tâm người giác cạn sâu.
Cảnh do tâm mà biến,
Tâm do cảnh mà sầu.
Biến sầu có do đâu.
Thiện chơn giác ngộ tâm và cảnh,
Phàm Thánh cách nhau một ngoái đầu.
Tưởng Như Lai ở xa đâu,
Không dè sò có hột châu trong mình.
87- TẶNG ÔNG T. D. Ở AN HÒA

87- TẶNG ÔNG T. D. Ở AN HÒA

Chớ nệ chi thời sự cấn gay,
Ân nhà rán trả trọn thân trai,
Lo cho phỉ chí ngày mai hậu,
Liệu có xong rồi buổi hiện nay.
Nẻo đạo am tường nên những chịu,
Đường đời hiểu rõ chớ u hoài,
Ví mình như lịch đâu nài trịn,
Miễn được gần Thầy đó việc may.
88- Tặng ông Châu Minh Hoằng ở An Hòa

88- Tặng ông Châu Minh Hoằng ở An Hòa

Nung lò bát quái mãi đu đưa,
Phanh Tể Linh Đơn bỏ mứa thừa,
Bắt Tróc Thanh Long làm có được,
Nam Thâu Bạch Hổ tính xong chưa?
Tham Thiền Ý Mã rồi chăng nhỉ?
Nhập Định Tâm Viên cứ nhảy bừa,
Nếu xét vô sư nan đắc sự,
Thôi cần niệm Phật sớm chiều trưa.


Thôi cần niệm Phật sớm chiều trưa,
Vạn sự trần ai cũng rán chừa,
Tuổi lớn đã rồi sao chẳng sợ,
Thân già thấy rõ cứ lo ưa.
Chuyên tu một thuở xong nần nợ,
Đắc đạo ngàn thu sánh có thừa,
Mạt kiếp đời cùng mài giũa gấp ,
Chần chờ ắt phải đổ tàn tưa.


Tri dị hành nan: biết thì dễ làm khó.
Nên sửa: “Tri nan hành dị”: biết khó làm dễ.


Ghi chú: Theo ông bà Châu Minh Hoằng kể: ông bà tu theo Đạo Lão, vì tu lâu không thấy kết quả nên làm sẵn một bài thi vấn đạo gồm 8 câu đến hỏi ông Thanh Sĩ, khi gặp ông Thanh Sĩ thì được khuyên tu pháp niệm Phật như trên, mặc dù bài thi còn trong túi áo chưa đệ trình ra, nhưng đặc biệt là ông Thanh Sĩ đáp họa theo lối “Hòa nguyên vận” nghĩa là tám chữ cuối của bài thi đầu tiên giống y tám chữ cuối của bài thi vấn đạo.
 
Vì vậy ông bà tư tin tưởng ông Thanh Sĩ là bậc đã chứng ngộ, không theo phép tu Tiên nữa mà chuyên tâm niệm Phật, khi lâm chung có Phật phóng quang đến rước, có nhiều người láng giềng chứng kiến ngỡ là nhà ông bà tư cháy cùng nhau đến cứu hỏa. Đây là kết quả biện chứng trung thực của pháp môn Tịnh Độ. Ông tư kể lại cho con cháu nghe và sách tấn con cháu niệm Phật, bài thi vấn đạo của ông tư con cháu chỉ còn nhớ được hai câu đầu:
 
“Tìm thầy học đạo hỏi đong đưa,
Xin chỉ dùm tôi chỗ nhất thừa ….
89- TẶNG ANH THÂU ở Rạch Giá Tản Cư

89- TẶNG ANH THÂU ở Rạch Giá Tản Cư


Nhìn đời chín khúc ruột rà teo,
Bá tánh đường tu quá đỗi nghèo,
Khổ hải bên mình coi lấp lửng,
Tai ương sát nách cứ chằng đeo.
Nhơn gian hạ giới như bong bóng,
Chủng loại hoàn cầu tợ đốm meo,
Quả báo nay đà mùi mẫn lắm,
Tu ôi để tránh xác trôi bèo.


Thật có lòng lành rán sửa trau,
Càng ngày nhớ giữ sự chùi lau,
Nam mô chẳng mỏn năm mười điếu,
Cúng lạy không hư tốn một hào.
Tạo hóa bày tuồng đâu bỏ dở,
Nhơn sanh sửa soạn nắm ghì phao,
Tề gia sự trước nên tu chỉnh,
Kịp với thời cơ khỏi đổ nhào.


Nước túng dân nghèo đã rối beng,
Tản cư còn mắc chứng ho hen,
Ông ôi ! phục dược cho mau mạnh,
Mưu cuộc hưng vong nổi trống kèn.
90- TẶNG ÔNG CHƠN ở Vĩnh Trạch

90- TẶNG ÔNG CHƠN ở Vĩnh Trạch

Lòng nguyền một đạo vẹn tu chơn,
Dẫu gặp chông gai dạ khó sờn,
Quyết chí đi ngay về Bửu Các,
Thành tâm thẳng bước đến Hoàng Sơn.
Thông minh chẳng đạo như tro mạt,
Dốt nát mà tu giống ngọc trân,
Báo ứng đời nầy xem trước mặt,
Chuyên lo phỉ nguyện nghĩa quân thần.
91- TẶNG ANH VÍ ở Ba Dầu

91- TẶNG ANH VÍ ở Ba Dầu

Có lẽ không ngoài tiếng kệ ôi !
Tu hành nhẫn khẩu ghép đôi môi,
Âu phân việc tốt lo tô điểm,
Rán xét điều nhơ phải rửa bôi.
Muốn gặp Phật Trời rèn phận tớ,
Mong gần chúa thánh sửa phần tôi,
Tam qui ngũ giới đừng vi phạm,
Có thể ngày sau được vững ngồi.
92- TẶNG ÔNG CHẨN ở Vĩnh Long

92- TẶNG ÔNG CHẨN ở Vĩnh Long

Cảm tình gánh nặng bước đường xa,
Ngó lại thì thân tuổi đã già,
Tích trượng mạnh tay ngăn lũ quỉ,
Gươm hùng rán sức dẹp đoàn ma.
Cố công kẻo thẹn câu Khương Tử,
Gắng gổ học đòi Phật Thích ca,
Đem lòng tìm đạo thân bao quản,
Ngưng kết hồng quang sáng cả nhà.
93- TẶNG Ông Chánh Trị Viên Đại Đội 27 N.T.T.

93- TẶNG Ông Chánh Trị Viên Đại Đội 27 N.T.T.

Người hiền được có tại người hung,
Có nước thì sao tránh khỏi bùn,
Đạo quả mong thành cần nhẫn nại,
Công danh muốn rạng nhớ tinh trung.
Ly khai tật xấu sanh lòng tốt,
Loại bỏ phiền tâm mở tánh dung,
Thật hiện đời mình đầy bác ái,
Soi gương Phật Thánh lượng không cùng.


Thà vui cái chết với non sông,
Chẳng để nhơ danh giống Lạc Hồng,
Nợ nước đời trai âu trọn đáp,
Ân nhà tuổi trẻ cố đền xong.
Không nên bạc nhược phường son phấn,
Chớ có ươn hèn lũ bướm ong,
Khắc kỷ lòng mình gương cổ Thánh,
Nhờ Thầy dẫn dắt đến Non Bồng.
94- TẶNG MƯỜI ĐỦ ở An Hòa

94- TẶNG MƯỜI ĐỦ ở An Hòa

Tự biết lòng mình rõ rệt hơn,
Tu cho sáng suốt cả tâm thần,
Làm hiền xét cũng chưa rồi đạo,
Tác phước càng thêm mới vẹn thân.
Đạt đạo nhờ người tâm luyện kỹ,
Nên cây bởi kẻ gắng vun phân,
Xưa nay các Thánh nhờ bền chí,
Quyết một lòng tu chẳng nhiễm trần.


Xét kỹ đời nầy thấy chẳng vui,
Thương người mến vật chịu đời thui,
Từ loài cỏ rác chung bình lửa,
Đến cả nhân dân phải khổ vùi.
Bịnh hoạn lan tràn đâu dễ cứu,
Tai ươn nổi khắp khó làm nguôi,
Tam nguơn sắp đến ngày tận diệt,
Thảm thiết lòng đây bắt ngậm ngùi.
95- TẶNG HAI HÊN ở An Hòa,

95- TẶNG HAI HÊN ở An Hòa,

Cần nên trí độ mở mang thêm,
Cửa miệng e dè rán đống nêm,
Đạo pháp chuyên tu đừng thối chuyển,
Di Đà mãi niệm cả ngày đêm.
Thân mình dọn dẹp cho tinh tấn,
Đối kẻ nầy kia phải dịu mềm,
Rứt bỏ phàm tâm trừ dục vọng,
Lương hiền được có rán làm thêm.
96- Tặng Bảy Điếu ở Mỹ Hội Đông

96- Tặng Bảy Điếu ở Mỹ Hội Đông

Người tu mỗi việc mỗi lo tu,
Chẳng có buồn manh chẳng gật gù,
Tiếng nói tai nghe cho được ngọt,
Lời phân ý nghĩ phải thêm nhu.
Trau tria bổn phận mình tinh tấn,
Sửa cải thân tâm khỏi muội mù,
Khảo xét nơi lòng trừ chỗ quấy,
Hành cho đúng cách thiệt người tu.
97- TẶNG ÔNG THIỆN Tài Chánh Bộ Đội NTT

97- TẶNG ÔNG THIỆN Tài Chánh Bộ Đội NTT

Điều nào có thể hợp lòng dân,
Cố quyết làm ngay chớ ngại ngần,
Thị dục năng trừ cho vẹn nết,
Khoan hoằng rán tập được tròn thân.
Ngày đêm trí lự thâu yên lặng,
Sớm tối tâm hồn ghép kệ dân,
Vũ trụ rèn lòng không nhiễm ái,
Hằng mong trực đáo hội quân thần.


Ngày nầy đã rõ chẳng còn ngây,
Thử xét mà coi lúc đảo xoay,
Có thấy ai lành yên bổn phận,
Thường xem kẻ dữ mãi lên tay.
Thành tâm thiện đạo tri nhơn quả,
Thiệt ý hành thân xét trả vay,
Chớ dạ phiền lao đời mạt hạ,
Tu cho cứu cánh vạn muôn loài.
98- TẶNG THƠ KÝ BÀNG

98- TẶNG THƠ KÝ BÀNG

Xem sau xét trước nghiệm hư nên.
Nhớ xử lương tâm mãi chớ quên,
Ngược trái nhơn luân mình cố tránh,
Phù đồng đạo lý nhớ thêm lên.
Chơn tâm trấn ác câu Đà Phật,
Trí huệ trì công chữ Bửu Đền,
Nhứt quyết cho đời danh giá sạch,
Chầy ngày có thể sẽ thành nên.


Đau lòng Phật Thánh lắm người ôi !
Cảm não quần sanh quá bại tồi,
Chủ sự tiền tài vong phận tớ,
Đeo điều chức tước lạc lòng tôi.
Bên thân chật nức phường ma quỉ,
Ở trí xôn xao lũ bướm vôi,
Chủng tộc đau lòng không đoái xót,
Nào đâu tránh khỏi nỗi bưng chồi.
Không có chi bền bỉ,
Ròng rặc đồ ma mị,
Sử sự phải quá quan,
Mới mong rằng phỉ chí.
99- TẶNG HAI HIẾU ở Mỹ Hòa

99- TẶNG HAI HIẾU ở Mỹ Hòa

Ông ôi ! Nẻo đạo khó khăn nhiều,
Tỉnh thức cần âu mãi sớm chiều,
Tích đức lo làm cho kẻ mến,
Tu nhơn rán tạo được người yêu.
Ăn ngay ở thẳng nào ai ghét,
Nhận ngụy làm chơn chúng mới kiêu,
Tốt xấu ngày hằng suy nghĩ kỹ,
Gia đình xử hảo khỏi buồn hiu.


Đìu hiu cảnh vật nỗi âu sầu,
Cả thảy muôn dân khắp địa cầu,
Máu chảy thành sông xem chóa mắt,
Xương chồng tợ núi thấy ê đầu.
Ù ầm đá nổ vang thiên hạ,
Chộn rộn hùm kêu dậy sáu châu,
Cảnh ấy thôi rồi vô ký sự,
Ôm nhau khóc kể nghĩ thêm sầu.
100- TẶNG CHỦ DIỆP ở Thốt Nốt

100- TẶNG CHỦ DIỆP ở Thốt Nốt

Hiền lương mãi giữ một lòng trong,
Chẳng quản gay go lúc muỗi mòng,
Xả được người mê thân mát mẻ,
Thu vô việc tội xác cay nồng.
Bình tâm khám phá màn u loạn,
Tịnh trí phanh phui lúc dại ngông,
Xét kỹ tình đời đầy giả dối,
Nên lo niệm Phật sửa trau lòng.
101- TẶNG ÔNG TRẦN HỮU PHÚ ở xã Định Mỹ

101- TẶNG ÔNG TRẦN HỮU PHÚ ở xã Định Mỹ

Ừ ơ gió thổi lá kêu ào,
Thế sự giai vô nghĩ thế nào?
Máy tạo không chờ người trẻ khảnh,
Tuần huờn chẳng đợi kẻ già lao.
Thiên cơ có biết thì tu gấp,
Đạo lý thông rành nhớ niệm mau,
Mãi mãi ngày đêm câu bát nhã,
Mày gươm thật bén trẩy ma nhào.
102- TẶNG VŨ HÙNG

102- TẶNG VŨ HÙNG

Cảm kích con người biết nghĩa nhân,
Trên đường đạo đức nguyện không dừng,
Bởi đời tráo trở gieo oan trái,
Vì đạo gay go kết nợ nần.
Chí khí hằng gìn theo lẽ thiện,
Tâm hồn mãi giữ kịp điều chơn,
Tuy nhiên lắm lúc đường mờ mịt,
Nhờ thấm gương xưa mới vững thần.


Vững thần gượng bước đến kỳ thi,
Toại nguyện Vũ Hoàng đã khắc ghi,
Trung chánh đền cho câu phúc huệ,
Can cường đáp được chữ Hương Kỳ.
Nơi lòng hãm chặt điều sân hận,
Ở trí mở cho khỏi hoặc nghi,
Tín hướng vào người nhơn với đức,
Sẽ là phì chí cuộc lan chi.
103- ĐẶNG XÃ KIM ở Trung Nhứt

103- ĐẶNG XÃ KIM ở Trung Nhứt

Nọ nọ kia kia rộn rã hoài,
Song bằng một mức cả vừa hai,
Hư nên phận kẻ suy thì rõ,
Giả thiệt tâm mình xét hiểu ngay.
Ngó thẳng trời che không vị chủng,
Nhìn vào đất chở chẳng riêng loài,
Lòng từ cả chói trùm thiên hạ,
Học đó làm người chẳng lạc sai.


Từ đây khá nhớ tịnh lòng nhe !,
Chớ lắm thờ ơ trách khổng dè,
Thế mỏng rườm rà đâu chắc được,
Thời hư bóng bẩy chớ bền nghe.
Khi mây đạo lý còn mờ mịt,
Gặp gió lương hiền bực sáng choe,
Báo ứng Ông ôi ! nào khuất lấp,
Năm châu khói lửa đục như xòe.

104- TẶNG ANH TƯ sóc Trăng

Vạn sự không ngoài cái bản tâm,
Trì tâm quán xét rõ huyền thâm,
Hai đường phải trái mau xu định,
Một lối tu hành phải chú chăm.
Giữa lúc băn khoăn chưa nhứt quyết,
Đương cơn túng bấn vẫn thăng trầm,
Thường đem trí đạo suy cùng cạn,
Giải nỗi u minh rảnh chữ tâm.

105- CẢM TÁC

Mặt nước êm đềm ngắm dễ coi,
Đùng đùng một trận sóng lên vòi,
Đau lòng lái rổi nương theo vịnh,
Xót dạ thuyền câu nép mé doi.
Miệng nọ van lơn nhiều Phật độ,
Tâm kia hãi sợ một mình loi,
Trông tình áy náy vô cùng tận,
Cứu được thân người sánh mấy thoi.

106- TẶNG Ông Đại Đội 4 Phòng Vệ (N.T.T.)

Phải khó năng làm riết cũng nên,
Râu mày bổn phận nhớ đừng quên,
Công bình lẽ ấy cần tô điểm,
Vạy vọ điều kia nhớ gác bên.
Chữ đạo là đàng không tự vị,
Việc tu phải sửa tiến thêm lên,
Làm sao khỏi thẹn cùng nòi cốt,
Quả cảm bùi bân tiếng ngợi rền.


Bẩm tánh người tu phải tự khiêm,
Trong đời đối xử được thanh liêm,
Ở ăn cách thức thêm hòa nhã,
Làm lụng nhân tâm rán hảo điềm.
Mọi sự hư nên cần tỉnh xét,
Muôn điều phải trái phải tinh nghiêm,
Ân đời cấu kết câu thành tựu,
Vẹn phận mày râu sánh máy thiềm.
107- TẶNG HAI NGƯỜI

107- TẶNG HAI NGƯỜI

Chi hơn nẻo đạo biết mùi lai,
Tráng sĩ cần âu phải miệt mài,
Nhớ tránh gai chông trên cuộc thế,
Mong lìa cạm bẫy giữa trần ai.
Ngày đêm chặt giữ câu Đà Phật,
Năm tháng ôm gìn chữ thảo ngay,
Cố tưởng bên mình đầy phận sự,
Làm xong sớm muộn đáo non đài.


Quí hóa chi bằng cái chữ tu,
Tu non tu nước trả xong thù,
Tổ tiên vẹn đáp đâu thờ thẫn,
Nhơn loại vui đền há nại phu.
Trước Phật ơn kia lòng khá nhớ,
Sau Thầy nghĩa nọ dạ quên đâu,
Tam qui ngũ giới đừng nên phạm,
Quí hóa chi bằng cái chữ tu.
108- TẶNG HÀ LƯU TIÊN

108- TẶNG HÀ LƯU TIÊN

Dân tộc phần đông hơn gia đình,
Tùy tài tùy sức để hy sinh,
Đem thân giúp nước cơn nguy biến,
Để dạ tu hành lúc đảo khuynh.
Gói gấm tình xưa ân tổ phụ,
Săm soi nghĩa cũ chí anh linh,
Nên làm những việc nào công ích,
Đáp lại lời Thầy mấy quyển kinh.
109- TẶNG ÔNG TRẦN PHƯỚC TIÊN

109- TẶNG ÔNG TRẦN PHƯỚC TIÊN

(Tự Năm Tởi Mỹ Hội Đông)

Mỗi mỗi điều lành cứ góp tom.
Nhiều lần được vậy chứa đầy om.
Đời coi mỏng mẻo nên bừng tỉnh.
Đạo xét chưa xuôi chớ ngủ mòm.
Rán gội tâm trần tan uế trược.
Cần trau tịnh nghiệp được mau gom.
Xem trời tự liệu cơn mưa nắng.
Kíp kíp tu thân để rũ còm.
110- THẦY TU TỰ CẢM TÁC

110- THẦY TU TỰ CẢM TÁC

Ly gia cắt ái chẳng lo le,
Áo bã quần gai bỏ lụa the,
Thiện chí Tiên Rồng thêm mó mé,
Từ tâm Phật cảnh có hơi mè.
Nhơn tình để mắt như cay xé,
Thế thái nhìn qua một ruột muốn se,
Tự nguyện tu hành dầu bỏ thẹ.
Muôn thu thế sự dám chê thè.


Sau một thời kinh mệt muốn le,
Trở vào hậu tổ uống trà the,
Vui tình bác ái không ngằn mé,
Thích chí từ bi chẳng mọt mè.
Khắp cả hư không tay một xé,
Vô cùng thế giới vượt ba xe,
Nằm ngồi rảnh rỗi đâu thì thẹ,
Có sánh chi hơn chữ đạo thè.
111- TÂM THƠ Gởi LƯƠNG TRỌNG TƯỜNG

111- TÂM THƠ Gởi LƯƠNG TRỌNG TƯỜNG

Tháng ngày qua lại như thoi,
Thời nhà vận nước chưa mòi gì hay.
Kiến bò miệng chén lây quay,
Gà cồ ăn bẩn cối xay là nhiều.
Có quyền có thế thì kiêu,
Không vi không cánh phải chiêu lấy sầu.
Đào nên cái hố thù sâu,
Đưa nhau đến cảnh rẽ bâu não nùng.
Nhìn vào khổ huống lao lung,
Nỗi lòng Thanh Sĩ vô cùng đớn đau.
Nhớ khi trên dưới một màu,
Thương yêu giúp đỡ khác nào một cha.
Bây giờ tình ấy lại xa,
Nỡ đem mối thảm diễn ra thế nầy.
Hỏi coi bởi tại đâu gây?
Cũng chưa được tiếng của ai trả lời.
Phải chăng số hệ nơi trời?
Hay là tại bụng người đời còn tham.
Tuy rằng nương cửa Thiền Lam,
Nhưng lòng chưa phải thiệt ham tu hành.
Cứ lo bã lợi mồi danh,
Xuống tay đoạn tuyệt nghĩa tình anh em.
Sao không sợ kẻ xiểm gièm,
Nỡ làm những việc ố lem lên đạo mầu.
Chừng khi thiện ác đáo đầu,
Bạc tiền có cứu ta đâu hỡi người?
Chỉ gây lắm chuyện trò cười,
Để mà xui giục cho người giết nhau.
Kẻ công người của tốn hao,
Góp tom của thế đổ vào một thân.
Rốt rồi cũng xuống âm phần,
Mấy ai sống mãi ở trần nầy đâu.
Thế mà cứ việc tóm thâu,
Để khi thác mất chịu câu hung sùng.
Nếu như nghiệm xét tận cùng,
Thì ai còn muốn trọng dùng thói gian.
Chạnh lòng nước mắt chứa chan,
Gởi người tri kỷ vài hàng để xem.
Niệm tình đồng đạo anh em,
Đọc qua ít bận nhớ đem vào lòng.
Cùng nhau ý hợp tâm đồng,
Ngăn ngừa nội bộ máu hồng bớt rơi.
Mới mong tiến kịp với thời,
Không thì sẽ bị cuộc đời bỏ trôi.
Ghét nhau đã khổ lắm rồi,
Còn gì chẳng sớm tỉnh hồi thương nhau.
Chia ly không lợi chút nào,
Chẳng bằng thống hợp khỏi hao với mòn.
Thầy vui phận tớ cũng tròn,
Trên hòa dưới thuận gẫm còn chi hơn.
Bóng thiều thắm thoát câu lơn,
Giục ta gắng chí chớ sờn lòng son.
Có câu nước chảy đá mòn,
Sớm không sửa đổi muộn còn ra chi.
Hãy mau đạo đức duy trì,
Vâng lên trên lời dạy từ bi của Thầy.
Đạo đời gánh cả đôi vai,
Mỗi người rán nhớ đừng sai chơn truyền.
Quy y Phật đạo tu hiền,
Soi gương các bậc Thần Tiên mà làm.
Sạch trong phải cố gìn kham,
Mới hầu thoát chốn tục phàm mê ly.
Trở day chẳng ngại thế thì,
Miễn cho vẹn nghĩa nạn gì cũng qua.
Mỗi người lòng được thiết tha,
Kính Thầy thì rán nhớ mà yêu nhau.
Anh em đâu đến xáo xào,
Đức Thầy cũng chẳng lòng đau đớn lòng.
Những người dị phái ngoại tông,
Dám đâu xúc phạm mống lòng dể khi.
Quy y mà chẳng hành y,
Mới là để tiếng thị phi chê cười.
Một nhơ lây xấu muôn người,
Làm trò bất chánh hổ người đến Thầy.
Nỗi buồn Thanh Sĩ khó khuây,
Tâm thơ một bức gởi ngay Trọng Tường,
Mong sao đó rán tầm phương,
Giải nguy đoàn thể bớt đường gai chông.
Cùng nhau tiết kiệm máu hồng,
Để đem đổi lấy non sông của mình.
Ấy là việc đáng làm vinh,
Hợp lòng tổ phụ thích tình cháu con.
Tiếng thơm muôn thuở vẫn còn.
Sử xanh truyền tụng miễu son tạc thờ.
Mấy năm rồi quá ngẩn ngơ,
Bước qua năm tới có nhờ chi không?
Ước mong chim nọ xổ lồng,
Trong cơn lửa cháy được rồng phun mưa.
(Ngày 19-12 Tân Mão nhằm ngày 15-1-1952).
112- THÂN TẶNG ÔNG BÁC SĨ TẤN

112- THÂN TẶNG ÔNG BÁC SĨ TẤN

Rèn câu THANH bạch mãi nơi lòng,
Ngọc phủ SĨ hiền có thuở trong,
Sen Phật THÂN giao càng được thắm,
Đào Tiên TẶNG thưởng lại thêm nồng.
Quả lành VIÊN mãn nhờ công đức,
Nhân huệ BÁC uyên cậy tịnh không.
Hiền - giả SĨ tăng giai nhất định,
Đường tu TẤN triển đáo Non Bồng,


TRONG trần khởi động cuộc phong ba,
HAI lẽ trầm thăng với nghịch hòa,
NGÀN việc cao sang như ảo mộng,
NĂM điều giáo luật tợ châu sa,
TẬN kim bởi quả kim điêu xảo,
THẾ cổ vì nhân cổ thật thà.
ĐẾN lúc châu nhi huờn phục thỉ,
NƠI nơi hãy tỉnh giấc Nam Kha.


PHẢI rán trau tria một tấc lòng,
NÊN làm đức hạnh mãi thêm trong,
TRÍ minh Ngọc Khuyết hầu sang đến,
TU ngộ Kim Đài mới ắt mong
CHỚ quá thiên duyên theo ngoại sắc,
ĐỪNG hay hoặc loạn cái tâm không.
là sanh chúng tỉnh là Phật,
TÍN nhận nơi đây thoát cõi hồng.
Ngày mùng 2-2- Nhâm Thìn Phú Nhuận (26-2-1952).
113- KÊU ĐỜI TỈNH NGỘ

113- KÊU ĐỜI TỈNH NGỘ

Xót thương HẠ giới chịu tan tành,
Ấy cũng NGUƠN do nghiệp bất lành,
Đến lúc GẦN đây tuồng nhị chúa,
Sẽ ra CÓ cuộc trổ tam Thanh.
Nước tràn TẨY sạch phường vô đạo,
Lửa dậy TRẦN thiêu lũ bất minh
Hỡi trẻ BỚ già mau tỉnh ngộ,
Tu cầu DÂN chúng sớm thăng bình.


TRONG cõi trần ai lắm cực hình,
HAI đường tội phước rán phân minh,
NGÀN muôn kiếp đọa đường mê khổ,
NĂM tháng thân trầm biển lợi danh.
TẬN diệt quần sanh ngày sẽ đến,
THẾ nhơn chủng loại phải tu hành,
ĐẾN chừng tai họa Trời xoay lại,
NƠI cảnh hồng trần đã muộn tin.
Phú Nhuận ngày1-3-1952 (mùng 6-2 Nhâm Thìn)
114- TẶNG THANH CAO CƯ SĨ

114- TẶNG THANH CAO CƯ SĨ

THÂN cảm do nơi mối diệu huyền,
TẶNG nhau chỉ một đóa Hoa Liên,
ÔNG chi cũng chẳng qua ông Phật,
BẠN gẫm đâu hơn được bạn Tiên.
THANH bạch ngày qua non nước tịnh,
CAO minh tháng lại gió trăng thiền,
nhàn cuộc thế không ràng buộc,
SĨ khí tùy phương hóa thiện duyên.



THIỆN duyên hạnh ngộ kẻ siêu phàm,
TÂM trí giồi mài được trắng lam,
HỐI quá tiền phi đừng tái phạm,
CẢI canh hậu tội chớ manh hàm.
NGÀN năm mới gặp cây thiền trượng,
MUÔN kiếp quên mùi nước tịnh cam,
PHƯỚC huệ ơn trên nay đã xuống,
LÀNH thay kẻ biết tỉnh tâm phàm.
Mùng 10-2 Nhâm Thìn Phú Nhuận (tức 5-3-1952)
115- CHO ÔNG ĐỐC PHỦ SỰ

115- CHO ÔNG ĐỐC PHỦ SỰ

CỨU trần THIỀN duyệt KIẾP mê si,
DÂN chúng TÔNG đồ HỐI sự phi,
MẠT pháp TỊNH diêu TÀ chánh khởi,
KIẾP phàm ĐỘ tái LOẠN bình thi.
PHẬT sanh KIM Thế QUI liêu tọa,
TIÊN hoạt HÀNH nhơn KIẾN ngọc trì,
LÂM _ khổ BẤT cầu LONG hổ trợ,
TRẦN hoàn DI dịch HỘI chi nguy.
116- CHO ÔNG KINH LÝ KỶ

116- CHO ÔNG KINH LÝ KỶ

ĐỜI lo thắng phụ mãi đua tranh,
CÙNG cuối nhơn gian tợ chỉ mành,
ĐÃ phải lao lung phe lẫn phái,
ĐẾN hồi khốc liệt lợi pha danh.
CÒN bao lúc nữa nhơn tan cải,
CHI chí thời quây vật mún manh,
LỰA lọc đường ngay tu gấp gấp,
LẦN qua biển trược đáo non thanh.
Phú Nhuận ngày 7-3-1952 (12-2 Nhâm Thìn)
117- HÀNH ĐẠO THUYẾT MINH

117- HÀNH ĐẠO THUYẾT MINH

TU cầu tỏ ngộ bổn tâm mình,
HÀNH đạo luôn luôn có đức tin,
NHÂN giữ không hề không quả dữ,
SỰ lành được chắc được duyên lành.
THÀNH ma thành Phật giai ngô định,
TÂM giác tâm mê tại ngã sanh.
LÀM nói tương ưng theo chánh lý,
ĐẦU tiên của kẻ biết tu hành.
Ngày 14-2 Nhâm Thìn (Phú Nhuận 9-3-1952)
118- TẶNG ÔNG Ở NHÀ LÁNG

118- TẶNG ÔNG Ở NHÀ LÁNG

QUÂN THẦN đạo nghĩa tận lòng trung,
PHỤ TỬ tình thâm nhớ đến cùng,
CHỒNG VỢ tào khang cho thuận thảo,
ANH EM cốt nhục phải hòa dung.
THẦY TRÒ sống thác gây thành tín,
BẬU BẠN thân yêu vẹn thỉ chung.
CÔ BÁC chòm riềng nên nhẫn nhịn,
NHÂN LUÂN xử trọn thật anh hùng.

Rượu uống thì say trí hóa cuồng,
Mê tình mê sắc khổ sầu luôn.
Theo nghề cờ bạc thường gian giảo,
Hút xách hư hèn khó nỗi suôn.
119- TẶNG VỎ TRUNG THÀNH

119- TẶNG VỎ TRUNG THÀNH

Ngày nào có thể giúp non sông,
Cũng phải chen vào một chút công,
Một giữ căn nguyên cho Phật đạo,
Hai là bảo mãn được chư đồng.
Trong tâm thúc liễm bao điều quấy,
Ngoại cảnh năng gìn những sạch trong,
Tối niệm Nam mô ngày phụng sự,
Đời ta chẳng thẹn giống Tiên Rồng.

Lòng ta chẳng những xót đồng bào,
Mà lại còn thương khách chúng nào,
Gặp buổi đao binh đầy thống khổ,
Lâm cơn hoạn họa xiết buồn đau.
Đường tu mỗi bữa coi lui sụt,
Nẻo lợi càng ngày thấy tiến cao,
Cảnh ấy chăng ôi là triệu chứng,
Tiêu điều thế giới cũng đi mau.
120- TẶNG BẢY VÍ ở Mỹ Hòa

120- TẶNG BẢY VÍ ở Mỹ Hòa

Tốt bụng là điều đáng ngợi khen,
Nhưng người mải miết sự làm quen,
Nhiều khi bận việc quên trời sụp,
Lắm lúc lo quay chẳng thấy đèn.
Niệm Phật có hồi không được suốt,
Thành tâm từ chập ít bền nhen,
Gia môn sắp đặt theo chiều một,
Chặt giữ đường tu lấn sự hèn.
121- TẶNG DẬT SĨ

121- TẶNG DẬT SĨ

Băn khoăn rốt cuộc cũng băn khoăn,
Cám nỗi tài vô bất giải năng,
Nghĩ cách khôn ngoan đời mới phủng,
Trù phương khéo léo đạo đâu nhăng.
Xuôi dòng ấy được duyên tươi mậu,
Ngược gió là do quả cỗi cằn.
Nếu biết tin tường cơ báo ứng,
Người, Ta khỏi bận buổi trầm thăng.



Băn khoăn đáo để cũng băn khoăn,
Cám nỗi vô tài bất giải năng,
Phải tính cho ngoan ngừa việc khốn,
Nên lo được khéo tránh điều nhăng.
Xuôi dòng ấy phước nhơn tươi tốt,
Ngược gió là duyên quá cỗi cằn,
Thẩm xét đời nầy đầy quỉ mị,
Khuyên lòng tháo vát ngọn tâm đăng.

Thần hồn thống trị được nhơn thân,
Chế thắng sáu căn phục sáu Trần,
Tánh đức điềm nhu cho khiếp quỉ,
Chơn tâm mặc tỉnh được kinh thần.
Thâu gồm vạn pháp đem công dụng,
Phát hiển tam huyền để ứng thân.
Cộng Phật hư vô giao tiếp thụ,
Như hoài thể giác thị vô phân.
122- KHUYÊN NGƯỜI

122- KHUYÊN NGƯỜI

Nói được thì làm được mới ngoan,
Chê bai cũng chớ chứa tâm tràng,
Làm người nhẫn nhịn là khôn khéo,
Xử thế hư danh ấy dở càn.
Bộ óc tinh anh dùng mỹ thiện,
Phần tim sắc xảo tránh cường cang,
Trong đời mỗi mỗi thường lừa lọc,
Há phải lầm sai đến lỡ làng.

Giồi mài đạo hạnh kể từ đây,
Mỗi việc hiền lương chứa góp đầy,
Nhẫn khẩu anh em không cãi cọ,
Nhường lời cô bác chẳng hề gây.
Tu chân diệt vọng đừng lưu luyến,
Dưỡng tánh trừ mê chớ kéo nhầy,
Phật vốn nơi lòng nên tưởng niệm,
Nguyên lai thấy được mới là hay.

Tìm làm những việc khó ai làm,
Tránh hẳn điều tồi dạ chớ tham,
Cái khó Trương Lương người thích muốn,
Điều hư Bá Nhẫn kẻ thêm nhàm,
Gương ông Huệ Khả người nên học,
Sử lão Từ Vương phải việc ham.
Xét rõ tiền nhân nhờ cái khó,
Thành tâm đắc quả được siêu phàm.
123- TẶNG XÃ SÍNH

123- TẶNG XÃ SÍNH

Ngó lại thân mình xét thử coi,
Bao nhiêu thậm tệ lắm khi lòi.
Khuyên mau sửa lại cho thêm tốt,
Bảo sớm chùi đi để khó coi.
Rất xấu không làm mà nói đểu,
Điều nhơ biết lỗi cứ tung chòi.
Người sao chẳng thẹn cùng bè bạn,
Ngó lại thân mình xét thử coi.



Lỡ dại rồi người mới biết khôn,
Yêu tình bá tánh gọi ôn tồn,
Thương dân há sợ đường gai ngạnh,
Mến đạo nài bao bước dập dồn.
Được lúa luôn luôn cần tỉa sạ,
Thành vàng trước phải chịu lò nôn.
Thường khi quá khó rồi thành dễ
Ớ kẻ bình tu xác lẫn hồn.



Chẳng phải tu lơ vậy được đâu !
Tâm cần sốt sắng tập rèn lâu,
Thương người ví thể thương thân vậy,
Mến kẻ như mình mến khác đâu.
Tưởng Phật từ bi mong nối chí,
Trông Thầy bác ái quyết theo hầu.
Bao nhiêu của thế không tham luyến,
Giữ được như vầy xứng kẻ tu.
124- TẶNG CÔ CÒ SÀI GÒN

124- TẶNG CÔ CÒ SÀI GÒN

Làm sao khỏi thẹn nước non nhà,
Với lúc Thầy về lại đứng xa,
Thị tứ phần đông người ấm áo
Thôn quê số lớn kẻ bày da.
Đồng môn ngược lại nhiều nơi nghịch,
Khác phái mà coi lắm chỗ hòa.
Thấy rõ ai ôi ! xem bổn phận,
Âu gìn trọn tốt để phôi pha.
125- TẶNG ANH NĂM (em Võ Trung Thành)

125- TẶNG ANH NĂM (em Võ Trung Thành)

Vẫn biết thanh nhàn việc quí cao,
Nhưng cơn quốc biến nỡ đi nào,
Râu mày đảm trách xong phần mọn,
Chí sĩ đâu nài với cả bao !
Dõng cảm truông qua nhiều hóc hiểm,
Từ bi lướt tới chỗ gian lao.
Mong sao toại dạ người non Lịch,
Bổn phận tu mi rạng rỡ màu.

Mười người biết đặng một người không,
Nghĩ kỹ rồi ta bắt mũi lòng,
Tận thế gần bên chưa tỉnh thức,
Tiêu điều thấy đó vẫn cuồng ngông.
Ăn chay xót ruột người than thở,
Nuốt mặn ngon mồm kẻ ngóng trông,
Mãi thế Trời ôi ! sao cứu được,
Thần Tiên khóe mắt ứa con Hồng.
126- TẶNG CÔ MƯỜI THỢ MAY ở Hòa Hảo

126- TẶNG CÔ MƯỜI THỢ MAY ở Hòa Hảo

Bền lòng chặt dạ giữ Nam Mô
Gặp hội Phong Thần rõ Việt Ngô !
Cửa Thánh mong người đi tới chốn,
Nhà Tiên khuyên kẻ chớ mơ hồ.
Ân dư mới gặp thuyền từ mẫn,
Phước thạnh nên gần mối đạo vô,
Phải gắng công phu đừng trễ nải,
Cầu trên ban rải giọt cam lồ.
127- TẶNG DƯỢNG BA ở Sài Gòn

127- TẶNG DƯỢNG BA ở Sài Gòn

Gặp gió buồm kia nhớ cánh trương
Dò lá bến giác thẳng ngay đường,
Trăm chiều khắc buộc lòng đừng chán,
Một mực làm lành chớ lươn khươn.
Thế giới ngày gần coi biến đổi
Hoàn cầu sắp tới quá thê lương.
Người ôi ! nếu biết đời tiêu diệt,
Rán giữ tâm tu tránh quỉ thường.
128- TẶNG BÀ TƯ QUE ở Sài Gòn

128- TẶNG BÀ TƯ QUE ở Sài Gòn

Đôi đường phải quấy nhận cho ra,
Tự xét cho rành khỏi thiết tha,
Nhẫn nhẫn tình đời ngừa tội lỗi,
Nhiêu nhiêu việc thế tránh oan gia.
Tu sao khắp chúng đều yêu mến,
Sửa được toàn dân đặng chuộng hòa.
Ớ hỡi nầy người trau trỉa phận,
Xong rồi sẽ đáo Hội Long Hoa.
129- TẶNG ANH NGUỢT ở Sa Đéc

129- TẶNG ANH NGUỢT ở Sa Đéc

Thành công mỗi việc cũng nhờ tin,
Quả quyết đi theo ý nguyện mình,
Việc khó làm hoài rồi cũng dễ,
Điều hư sửa mãi cũng nên xinh.
Tu nhơn tu nghĩa cho thuần hậu,
Hạnh nói hạnh làm phải xảo tinh.
Cái bước đoan trang cần sửa đổi,
Bền tâm được thế ắt viên thành.

Biết chữ Nam Mô sửa tánh tình,
Từ lời đối đáp hoặc làm thinh,
Đoan nghiêm hạnh kiểm cho thanh lịch,
Sắc xảo tình tư được tế tinh.
Ví sự tu hành như khúc mít,
Cho thân đục đẽo phải nên hình.
Ngàn xưa đức Phật nhờ trì chí
Được phép thần thông được hiển linh.
130- TỰ THÁN (2)

130- TỰ THÁN (2)

Nhìn đời thống khổ bắt buồn đau,
Ngó khắp sanh linh ứa lệ trào,
Tủi phận cha con chưa tạn mặt,
Buồn duyên Thầy tớ phải xa nhau.
Ngày ăn chẳng đặng thân gầy ốm,
Tối ngủ không yên ruột úa xào,
Hỡi kẻ đồng môn ai có biết?
Ta vì trăm họ mãi đành đau.
131- TẶNG HƯƠNG TRƯỞNG QUẢN

131- TẶNG HƯƠNG TRƯỞNG QUẢN

Thắng phục bầy yêu ở Núi Mai,
Làm cho chúng nó khiếp danh Ngài,
Nam phương ngọn lửa dần dần tịnh,
Bắc hướng mũi triều thảng thảng quay.
Tịnh Độ thung dung qua đó nghỉ,
Lôi Âm khoảng khoát đến đây say.
Trường đồ mặc khách hêu mình ngựa,
Đó chẳng buông câu ấy cũng tài.
132- TẶNG ANH CẨN ở Mỹ Trà, Cao Lãnh

132- TẶNG ANH CẨN ở Mỹ Trà, Cao Lãnh

Phải phải e dè rán e dè,
Tai nương gậy trúc bước cầu tre,
Đi đêm cậy đuốc không sa hố,
Lội nước dò sâu chớ ỷ khe.
Bộ mạch cho rằng tường kẻ bịnh,
Chân tay nếu cứng dắt người què.
Dòm sau ngó trước mà ăn nói,
Ơ ớ người đời để ý nghe.

Ngó khắp quần sanh ứa ruột già,
Nào nào bá tánh hiểu cho ta,
Thương dân quyết chỉ Lôi Âm Tự,
Xót chúng khuyên mau lánh ái hà.
Tận diệt gần rồi chi nữa nữa,
Chuyển di sắp đến chớ hê ha.
Kìa kìa xuất hiện nhiều điềm quí,
Báo trước cho hay vận nước nhà.

Hiểu nốt thân mình có sửa đương,
Ngày qua tháng lại giữ ngay đường,
Ăn ngay ở thật khuyên nên nhớ,
Nói chánh làm chơn bảo liệu phương.
Bẫm tánh tinh chuyên cho sạch sẽ,
Tâm tình rán tập được thuần lương.
Lòng kia sớm tối soi nhiều bận,
Hoán cải thêm lên sự kiết tường.

Chạnh cám nhân sanh buổi khốn nghèo,
Đa mang đã lắm cuộc nàn eo,
Người lành cúi mặt tuôn dòng lệ,
Kẻ dữ vênh môi miệng ó reo.
Thảm thiết Đông Tây trơ đó chịu,
Sầu ưu Nam Bắc cuốn chiều theo.
Ngồi nhìn chủng tộc lòng chua xót,
Cám cảnh bi ly nỗi giạt bèo.
133- TẶNG ÔNG CHÍNH KIỆM

133- TẶNG ÔNG CHÍNH KIỆM

Hoặc thấy hay nghe kẻ lỗi lầm,
Nên thương chỉ bảo chớ phiền tâm,
Điều chi phải quấy lo âu nghĩ,
Những việc nên hư phải xét tầm.
Ái quốc là phần cần giúp đỡ,
Ai dân một lẽ nhớ nom chăm.
Làm sao xứng đáng con nhà Phật,
Tái ngộ chơn sư thính diệu trầm.
134- TẶNG ÔNG BA TỊNH ở Sài Gòn

134- TẶNG ÔNG BA TỊNH ở Sài Gòn

Đường tu sốt sắng cảm tình thương,
Đạo đức cao sâu rõ lối đường,
Hạnh kiểm nhu hòa lòng cứng cỏi,
Tinh thần sạch sẽ tánh thuần lương.
Ưu phiền cuộc thế rời Sài Thị,
Cảm kích tình đời đáo Hội Hương.
Nhứt quyết ông ôi ! nguyền một kiếp,
Nhà xưa đến đó vĩnh miên trường,
135- TẶNG ANH EM Ở BẠC LIÊU

135- TẶNG ANH EM Ở BẠC LIÊU

Anh em vốn kẻ ở xa xôi,
Chẳng nệ đò giang đến viếng tôi,
Đó nhớ khi về cho tấn triển,
Đây khuyên mỗi bữa phải trau giồi.
Tu tâm cố rứt điều mê hoặc,
Luyện tánh toan ly chỗ tục tồi.
Nhớ tưởng ân Thầy câu dạy dỗ,
Chờ ngày tái hiệp phỉ lòng thôi,
136- CẢM TÁC

136- CẢM TÁC

Nam mô Phật Thánh với Tiên Thần,
Mở lượng từ bi phổ độ dân,
Nhân họa Đông Tây đều giảm bớt,
Thiên tai Nam Bắc được tiêu lần.
Cơm tiền dư giả người no bụng,
Bô vải dồi dào kẻ ấm thân.
Quả khổ sanh linh Trên xá tội
Muôn loài được hưởng cái hồng ân,
137- TẶNG ANH BÙI TRUNG CANG

137- TẶNG ANH BÙI TRUNG CANG

Đức Hạnh tu bồi mãi sớm hôm,
Sánh mình chẳng thẹn cánh hoa thơm,
Hiếu thân bù trả ơn sanh dưỡng,
Nghĩa quốc đáp đền nợ áo cơm.
Học đạo chăm nom nơi trí não,
Hành tâm lọc lựa sạch tại mồm.
Một đời theo đuổi gương Hiền Thánh,
Kham khổ dù sao cũng ấp ôm,


Cuộc đời càng tới tới không lui,
Đạo pháp mong sao được mẫn mùi.
Chầy kíp lòng người lo tịnh niệm,
Sen vàng hé nở quá yên vui,


Lòng lành người rán được lành thêm,
Bế chí kiên tâm rất mại mềm,
Được tánh lương thuần đầy đức lượng,
Chậm mau rồi cũng có ngày êm,
138- CÔ HẰNG HÉ NỤ (Khoán thủ thi)

138- CÔ HẰNG HÉ NỤ (Khoán thủ thi)

độc riêng làm bạn với oanh.
HẰNG nghe tiếng hót ở trên cành,
HÉ môi Lão Tử phơ phơ vẽ,
NỤ chiếm Chung Ly rỡ rỡ xanh,
CƯỜI chữ vô vi hồ nước lắng?
DUYÊN câu nguyên thỉ đóa hoa lành.
DÁNG Nguyên đào động thầm lưu ý,
LẠ bước về Tây hội mới đành,

139- PHỤ NỮ TÂN THỜI

139- PHỤ NỮ TÂN THỜI

Nhi nữ thời nay ôi ! hỡi ôi !
Lãng chơi mất nết chán lòng tôi,
Từ khi làn sóng văn minh đến,
Sẽ khiến nhơn luân phải thụt lùi.
Áo lưới quần the coi tấp nập,
Đầu quăng má đỏ dập dìu thôi.
Đem thân đổi lấy điều sung sướng,
Nhục nhã Rồng Tiên thậm chí rồi.
140- KHUYÊN CON GÁI SẮP CÓ CHỒNG

140- KHUYÊN CON GÁI SẮP CÓ CHỒNG

Nên hư xấu tốt tại nơi mình,
Phận gái bền gan chữ tiết trinh,
Nghe tiếng cha kêu con thất sắc,
Được lời mẹ gọi trẻ hồn kinh.
Khuê phòng lo liệu Công, Ngôn, Hạnh,
Ong bướm ghẹo trêu cũng mặc tình,
Toan đền hiếu trọng khi khôn lớn,
Đẹp lòng phụ mẫu lúc bình sinh,


Phận gái gần đây sắp có đôi,
Sửa sang gọn ghẽ chớ lôi thôi,
Trên lo phụng sự cho cha mẹ,
Dưới phục tùng chồng những khúc nôi.
Nhà cửa chăm nom trong mọi việc,
Thức khuya dậy sớm phải xong rồi.
Nội ngoại hai bên đồng kính nể,
Mới là xứng đáng phận con tôi,


Chỉ hồng nguyệt lão đến hồi se,
Bổn phận dâu con phải dặt dè,
Mối chỉ đường kim cho khéo léo,
Bánh quà nấu nướng được người khoe,
Ở ăn cô bác đầy nhân hậu,
Đối đãi chòm riềng chớ khắc khe,
Từ mẹ cha chồng con đẳng đẳng,
Thảo thuận vầy vui tiếng nhẹ nhè.


Khi ở cha mẹ, lúc có chồng,
Chữ tu để dạ chớ hòng lảng xao.
141- TỰ THÁN - KHOÁN THỦ THI

141- TỰ THÁN - KHOÁN THỦ THI

TRONG trần khởi động cuộc phong ba,
HAI lẽ trầm thăng với nghịch hòa,
NGÀN việc cao sang như ảo mộng,
NĂM điều giáo luật tợ châu sa,
TẬN kim bởi quả kim điêu xảo,
THẾ cổ vì nhân cổ thật thà.
ĐẾN lúc châu nhi huờn phục thỉ,
NƠI nơi hãy tỉnh giấc Nam Kha.


NGÀY tháng trôi qua tợ bóng câu,
GIỜ Ân Trên định chẳng còn lâu,
TẬN đời vạn cảnh lâm tràng mộng,
THẾ diệt thiên bang cuộc bể dâu.
CHẬP chững nhân gian nhiều ách nước,
CHỜN vờn thế giới lắm oan sầu.
BÊN kia bên nọ tranh vô địch,
LƯNG lửng rồi thôi chẳng đến đâu.


TÓM thâu ý nghĩa một ngày gần,
TẮC diệt cựu phàm lập Thánh tân.
LONG Hội Thần Tiên qui tứ bộ,
HOA trì Phật Thánh thống tam nguơn.
ÔNG Trời biến cải màu thiên hạ,
BÀ Đất chuyển luân sắc thế trần,
ĐỂ biết huyền vi cơ báo ứng,
Ý phàm hướng thiện rõ chơn nhơn.
142- KHUYẾN THẾ

142- KHUYẾN THẾ

Cảnh đời khổ chưa buồn tránh khổ,
Kẻ còn mê lại cố thêm mê,
Hạ ngươn lắm việc gớm ghê,
Sao chưa tu tỉnh quay về Thượng Nguơn.
Ta cũng từng để chơn nhiều chốn.
Từ thị thành cho đến thôn quê,
Thấy dân lòng bắt ủ-ê,
Rượu chè phung phí me đề tứ tung.
Trai lẫn gái dùng toàn khách sáo,
Trẻ cùng già đầy lối ngỗ ngang,
Bảo sao chẳng cuộc khốn nàn,
Nhân gây bất chánh quả mang không lành.
Tánh ích kỷ thường sanh tham nhũng,
Khiến gieo mầm kinh khủng chiến chinh,
Từ trong hỗn loạn gia đình,
Chí ngoài xã hội rồi kình lân bang.
Nếu làm kẻ chịu tang chịu tóc,
Thì lại mình phải gốc phải gai,
Xét lòng kìa hỡi bớ ai !
Sớm chừa bạo ngược miệt mài hiền lương.
Gieo thiện cảm quê hương xứ sở,
Kết tình thương già trẻ khắp nơi,
Cứu nhau chóng thoát hoạn đời,
Độ nhau sớm được hưởng đời Thuấn Nghiêu.
Chữ bác ái nâng niu sửa dạ,
Lẽ công bằng chạm vá nơi lòng,
Phật thừa như chẳng làm xong,
Cũng nên vẹn giữ cho tâm (trong) đạo người.
Làm hiền đức tốt tươi đáng mấy,
Thói hung hăng xấu xí dường bao !
Sống gây sâu mọt đồng bào,
Thác làm quỉ quái chỗ nào gọi vinh.
Quả đất sắp rung rinh lay lắc,
Nhơn gian chờ say giấc Nam Kha,
Tang thương muôn triệu ức nhà,
Phước hồng chữ ết (S) phù sa chói ngời
Ai hữu chí sống đời Thượng cổ,
Kẻ vô tình thác buổi Hạ Nguơn,
Giặc nầy còn mãi dần lân,
Tới khi tung nổ khắp trần mới thôi.
Tai họa ấy chỉ Trời cứu khỏi,
Khổ đau kia có Phật độ qua,
Tỉnh hồn hỡi bớ bá gia.
Năm 1952
143- TẶNG NGUYỄN CHƠN THÀNH

143- TẶNG NGUYỄN CHƠN THÀNH

Bớ Chơn Thành, bớ Chơn Thành !
Chớ đắm hồng trần khổ nỗi sanh,
Lửa dục chồm hôm thiêu xác tục.
Sóng tình ồ ạt nhận tâm linh.
Xiết bao kẻ trí vùi tên tuổi,
Đã lắm người ngu nát giá danh.
Cũng bởi say sưa phường má đỏ,
Bớ Chơn Thành, bớ Chơn Thành !
144- GỞI HOÀI ÂN

144- GỞI HOÀI ÂN

Mượn mực trao nhau khúc uẩn tình,
Để lòng được vợi chút phiền sinh.
Biết đâu chỗ vụng trông là khéo,
Lấy đó nguôi sầu Ân với Minh (Minh Thành).


Ân với Minh Thành ở viễn phương,
Nơi lòng hồi khứ quá lươn khươn,
Thấu chăng lúc ấy lòng Thanh Sĩ,
Muôn nỗi u sầu mãi vấn vương.
145- TẶNG ÔNG NGUYỄN GIÁC NGỘ

145- TẶNG ÔNG NGUYỄN GIÁC NGỘ

(Lúc bộ đội N.T.T. bị xáo trộn và Cậu Hai bị mưu sát, ông Nguyễn đem bà Nguyễn đến nhà Cậu Hai xin cho biết tương lai thế nào.)

TRẦN khai NGUYỄN triển khải đồ lương,
THANH thủy GIÁC thoàn tỷ thế khương,
khí NGỘ huyền hà nhuyến nhược?
XIỂN minh NỖ lý hữu cang cường.
DƯƠNG doanh LỰC đáo siêu phong lãng,
phát BỈNH kỳ bạt thử sương.
ĐẠO huệ TAM thừa giai thống liễu,
ĐỨC lưu QUÂN cảm quốc trinh tường.
146- MỘT LÁI ĐÒ

146- MỘT LÁI ĐÒ

(Bài của Cậu Hai Thanh Sĩ đáp lại bài “Đêm Thiếu Trăng” của cô Trúc Lâm Nương)

Tay gây một chiếc thuyền từ,
Lòng nguyền đưa rước cho người quá giang.
Ngửa trong gió tạnh mưa tan,
Giúp cho lữ khách tiện sang qua bờ.
Tuy cơn nước sóng trăng lờ,
Nhưng lòng đâu nỡ làm ngơ chuyến đò.
Trót lời cùng khách hẹn hò,
Quyết đưa đến bến được cho phỉ lòng.
Quản chi xuôi ngược lớn ròng,
Bến kia chưa đến quyết không gác chèo.
Phảng phơ ngọn gió hắt heo,
Khiến lòng chi xiết buồn teo với lòng.
Phải chăng khách ngán sóng bồng?
Hay còn ngờ vực tấm lòng đò phu.
Để cho bến khách mờ lu,
Con thuyền lả chả đò phu ngỡ ngàng !
Nhưng không ! bóng ác gần tàn,
Lẽ nào khách chẳng quá giang được nhiều.
Nhưng ôi ! nếu đợi đến chiều,
E cho sóng động càng nhiều phải sao?
Cũng nên liệu trước với nào !
Để khi cảnh tối sụp vào khó thay.
Bút nghiên mượn tỏ cùng ai,
Tri âm có phải một tay giúp vào.
Đông Tây có kẻ truyền rao,
Khiến người sớm biết có mau liệu mình.
Kẻo đời ngơ ngác linh đinh.
(Có đăng báo Buổi Sáng ngày 20-10-1952 nhằm ngày 2-9 Nhâm Thìn)
147- TẶNG BẠN THIỆN DUYÊN

147- TẶNG BẠN THIỆN DUYÊN

TẶNG đó đôi lời bổn với lai.
BẠN lành phúc huệ được đơm sai.
THIỆN căn chắc chắn Trời không phụ,
DUYÊN mỹ đinh ninh Phật giúp tay.
TÁ khí thiêng liêng xem có chí,
NGỤ câu huyền diệu gẫm nên tài.
SÀI lang nanh vuốt còn tinh lắm,
GÒN gọn mà thôi hỡi bớ ai !


TẶNG nhau mai hậu được gần nhau.
BẠN rán sao cho đến động đào.
THIỆN sự Trời ban nhiều vật báu.
DUYÊN hương Phật hộ lắm tài cao.
TÁ trần bút tích ôi choi chói.
NGỤ xác ngôn lưu rất ngạt ngào.
SÀI mộc thiên duyên huờn thượng quế.
GÒN gia chưa đổi chúng nghêu ngao.
(Ngày 3-9 Nhâm Thìn, Long Kiến ngày 21-10-1952)
148- VIẾNG MỘ PHẬT THẦY

148- VIẾNG MỘ PHẬT THẦY

Mười sảu tháng mười tiết Hạ Nguơn,
Đồng môn Thanh Sĩ hợp du sơn.
Tây An Cổ Tự sang cầu đức.
Mộ Phật Thầy xưa đến vọng ân.
Nhìn cảnh Non Sam tròng đượm lệ.
Tưởng miền Châu Đốc dạ bâng khuâng.
Hương lành ngấm kỹ mùi chưa lạt,
Ngại nỗi thây phơi Việt với Tần.
(Ngày 16-10 năm Nhâm Thìn tức 12-12-1952)
149- TẶNG ÔNG THẦY THUỐC VIỄN

149- TẶNG ÔNG THẦY THUỐC VIỄN


(cùng một ngày đi viếng mộ Phật Thầy)

Tuy chẳng cùng ông được ở lâu,
Song thay bút mực tỏ lời cầu.
Đạo lành mỗi bữa thêm cao rộng.
Phước huệ càng ngày được thẩm sâu.
Chúc xuất sao cho gần cạnh bái.
Thầy qui ước đặng đứng bên hầu.
Ngàn thu nay gặp lần nầy chót.
Chớ dạ thờ ơ hãy gắng âu.
150- TẶNG MINH TÂM

150- TẶNG MINH TÂM

RẤT quí vì mình có đạo tâm,
YÊU đương lẽ phải cố công tầm.
NƠI tràng thực tế càng chê chán,
CHỖ mối huyền vi mãi nhiễm thâm.
NGAY chí non sông lo báo đáp,
LÀNH thân Phật pháp nhớ ôm cầm.
CỦA tiền há sánh lòng son sắc,
ANH cố cho đời được hở hâm.
151- TẶNG ĐOÀN CHÍNH SÁCH

151- TẶNG ĐOÀN CHÍNH SÁCH

Cũng sắp rời chân nội buổi mai.
Thôi đành đây đó tạm chia tay.
Ra đi để lại lòng tu học.
Cất bước trao cho dạ cố mài.
Sơn xuyên khó mỏi tâm đừng chán.
Hải nội lao lung chí chớ phai.
Đèn sách sớm khuya toan nấu sử.
Gặp hội Rồng Mây dựa các đài


Đời Đạo hai vai trẻ nặng oằn,
Quang minh mọi việc vẫn băn khoăn,
Muốn yên trí đạo không phiền muộn.
Được lặng tâm tu phải cố chằn.
Ma quỉ tứ tung như bụi cát.
Phật Thần tám cõi cũng vô ngằn.
Nên tài đáng mặt còn trau đạo.
Rửa sạch tâm phàm hiệp Thánh căn.


Khi nào hoài cảm đến thân tôi.
Mọi việc lằng xằng đó rán thôi.
Non đảnh kia kìa người có thấy?
Rừng thông do đó kẻ trông rồi.
Chớ buồn việc thế sao cù cựa.
Đừng hận đời vì quá khổ ôi !
Nước lửa đã bừng dân xám mặt.
Cũng cơ báo ứng ở trên đời.
Chớ lắm thờ ơ.
Đừng hòng rạo rực.
Yên tịnh đất lòng.
Trồng hoa có hột.

II. PHẦN XƯỚNG HỌA

1- THANH DÂN VẤN

1- THANH DÂN VẤN

Đôi lời kính cẩn dám thưa qua,
Mở lượng từ bi chỉ rõ mà,
Thân thế hàng nào trong Phật quả ?
Hiệu danh đẳng cấp chốn tiên gia.
Ba mươi sáu tướng tài tài lắm,
Một vị quân sư giỏi giỏi đa.
Những bực trên đây như có một,
Thương tôi dại dột tỏ bày ra.

THANH SĨ ĐÁP HỌA

Người gần Thanh Sĩ mấy năm qua,
Chẳng rõ là ai mới lạ mà,
Muốn biết tin tường nơi vị quả,
Nhìn ngay hạnh nguyện hiểu nhơn gia.
Bao nhiêu xét cũng chưa nhiều lắm,
Gọi nữa duyên trần ấy thậm đa.
Ớ hỡi người kia muôn vẫn một,
Cần chi gạn hỏi mới tìm ra.
2- ÔNG CẢ MƯỜI Mỹ hội Đông XƯỚNG

2- ÔNG CẢ MƯỜI Mỹ hội Đông XƯỚNG

Đêm mùng 8 tháng 4 Kỷ Sửu tại nhà ông Cả Mười ở Mỹ Hội Đông, vào lúc 22 giờ ông hai Miêng Đại Đội Trưởng Đại Đội Bảo An Quân ở thôn Bình Đức, Long Xuyên cố tình xin ông Thanh Sĩ một bài thi, nhưng ông dần dà chưa chịu cho, sốt ruột vì lẽ chờ lâu ông Cả Mười mới làm 4 câu thi dưới đây để gợi đầu câu chuyện.


Không lẽ ngồi đây đến bữa mai,
Vui lòng vội tả bức thơ khai,
Miễn cho biết được câu lành dữ,
Tiêm lụng dầu hào lóng nhóng hoài.

THANH SĨ HỌA

Mô tả lằn chân nét mảnh mai,
Diệu huyền thi hứng tiếp lời khai.
Sửa tâm sẽ thấy ngày chung cuộc,
Một thuở rồi thôi xét chẳng hoài.
3- ÁI LIÊN XƯỚNG (bài 1)

3- ÁI LIÊN XƯỚNG (bài 1)

Hân hạnh hôm nay được gặp ông,
Ước sau kết chặt sợi tơ lòng,
Trau giồi trí huệ rèn tâm tánh,
Hầu sẽ đáp đền nợ núi sông.


Núi sông tự cổ đã lưu truyền,
Dân Việt đời nầy sống chửa yên.
Giặc giã lung tung dường chỉ rối,
Cứu nguy họa có đấng thiêng liêng.

THANH SĨ HỌA

Được tình triêu mộ ở nơi Ông,
Yêu khách tha phương áo não lòng.
Đây đó hẹn hò dìu đến chốn,
Kịp ngày kiến thiết dãy non sông.


Non sông tô điểm nối chơn truyền,
Nước loạn đời trai mấy ổn yên.
Cung kiếm thi gan cùng giặc mạnh,
Giống nòi nô nức khí thiêng liêng.


Thôi đành nghiên bút dẹp đi ông,
Vận bĩ còn đây héo nỗi lòng,
Tủi nhục nhà ta gây ác họa,
Hổ thêm nòi cốt quá cuồng ngông.
Say sưa vật chất quên Tông Tổ,
Mê đắm lợi danh phụ giống dòng.
Thi phú tuyệt vời như Thái Bạch,
Không tài hàn gắn vết thương trong.


Con người hèn úa bấy nhiêu đâu,
Không sớm thì trưa cũng đáo đầu;
Định luật thiên nhiên đào thải sẵn.
Cơ trời báo ứng có sai đâu ?
Nhủ khuyên bạn tác đừng ngơ dạ,
Nhắc nhở đồng liêu chớ não sầu.
Từ đây đạo hạnh năng trau trỉa,
Có ngày hòa hiệp chốn Kim Lâu.


Giờ đây khi phú đã dừng tay,
Chúc bạn tâm tu cố chí mài.
Huyền ảo trần mê nên sớm gội,
Thu hồi chánh tánh được bền giai.
Bên kia sông,
Bờ giác ngạn.
Mượn thuyền từ,
E quá hạn.
Nhớ nhung đây,
Lời tỉnh bạn.
Gắn truy tầm,
Đừng bỏ lảng.
4- ÁI LIÊN XƯỚNG (bài 2)

4- ÁI LIÊN XƯỚNG (bài 2)

Thâm ân chưa đáp nghĩa chưa đền,
Tu tỉnh riêng mình sợ khó nên,
Nuôi dưỡng nên vai câu quá nặng,
Chắc chiu từ bé nỡ nào quên.
Cha già chín suối không hương lửa,
Mẹ yếu năm nao chẳng nệm mền,
Nhân đạo khuyên Ngài tròn trách nhiệm.
Phật Tiên rồi sẽ bước lần lên.

Lần lên thì phải rán lên hoài,
Chớ nửa chừng thang lái lại lai;
Dưỡng tánh tu chơn qua bể khổ,
Thoát nơi trần tục đến Tiên Đài.

Tiên đài Cực Lạc đó Ngài ôi !
Lắm kẻ lại qua lắm kẻ ngồi.
Hồng hạnh uyên đào khoe vẻ ngọc,
Cảnh tình ung đúc lạ thì thôi.

Thôi thì Ngài hãy gắng đưa chưn,
Một bước một thêm chớ vội ngừng.
Điên đảo tình đời gai trước mắt,
Xem đi nghĩ lại dửng dừng dưng.

Dừng dưng còn tưởng cái danh gì ?
Niệm kệ ngâm kinh đội mão ni.
Chuỗi hột tay lần mau kết quả,
Siêu phàm nhập Thánh hảo từ bi.

Từ bi cứu khổ độ nhơn sanh,
Giúp kẻ hiền lương đỡ kẻ lành.
Rưới nước Ma Ha tiêu khói lửa,
Chẳng còn quấy loạn hại nhơn sanh.

Nhơn sanh bùn lắm mấy mươi năm,
Tay đã xiềng thêm xích cẳng nằm.
Tội ác dẫy đầy không xiết kể,
Giận ôi mật ứa ruột gan căm.
Ngày 21-3 Canh Dần (1950)

THANH SĨ HỌA

Gồm hết nhơn sanh một kiếp đền,
Chẳng vì duyên nghĩa chẳng riêng nên;
Thân nầy như thể muôn thân khác,
Đó nhớ đây nào dám lảng quên.
Hiếu sự hương lòng đâu để ngớt,
Tình thâm lo liệu có chăn mền.
Nghĩa vụ hai vai oằn nặng gánh,
Một ngày một bước nặng thêm lên.

Thêm lên vượt khỏi cõi u hoài,
Mặc kệ cái đời có lá lay,
Muôn việc cũng tâm, tâm tự chủ,
Nào sợ chi ai rủ điếm đài.

Điếm đài ô trược phải chăng ôi !
Lảo đảo xê qua xích lại ngồi.
Chỉ có nhiễu nhương người tục lụy,
Với kẻ siêu phàm cái quái thôi.

Cái quái thôi trần chớ bẹo chưng,
Trá mưu thọc gậy bánh xe ngừng,
Ô kìa sĩ tử muôn trùng đó,
Nhìn coi quen thuộc hay người dưng.

Người dưng cũng chẳng nói làm gì ?
Nếu biết giống nòi hợp sức ni.
Hoạch định tương lai cho xứ sở,
Xong rồi mặc sức niệm từ bi.

Từ bi thương lẫn khắp quần sanh,
Đâu tiếc chi thân với việc lành.
Phải thác cũng vui vì nghĩa cả,
Không hề úy tử để tham sanh.

Tham sanh nhiều lắm bảy mươi năm.
Rồi cũng ô hô xuống đất nằm.
Béo mỡ để cho vòi cảm tạ,
Người đời chỉ có tiếng hờn căm.

Hân hạnh được người nhắc nhở cho,
Lòng nầy cảm kích mãi âu lo.
Chí trai một thuở vang trời đất,
Cùng khắp lương dân quyết hẹn hò.

Hẹn hò Phật cảnh mới dừng chơn,
Bao nả chông gai bước chập chờn,
Hạnh Thích cố noi đâu biết mệt,
Cứu đời chí nguyện của chơn nhơn.

Ruộng tâm giống tốt phải gieo vào,
Trưng biểu gương lành đức hạnh cao;
Rán dạy con lành câu hiếu thuận,
Nên khuyên kẻ thảo chữ cần lao.
Đứng ngồi lễ phép thân đoan chánh,
Ăn nói khiêm cung tiếng ngọt ngào.
Cận đời gia đạo tu mau kíp,
Kẻo trễ đò đưa thất lạc nhau.

Thêm làm chuyện phước kể từ đây,
Hiệp lực đồng tâm giải khổ nầy;
Kẻ của người công ra giúp đỡ,
Tinh thần vật chất phải liên dây.
Thương đời bố thí đừng nên tiếc,
Mến đạo nhẫn hòa vậy mới hay.
Công thành nhờ được lòng kiên bế,
Chẳng lận người ngu kẻ trí tài.
(Ngày 9-5-1950 nhằm ngày 23-3 Canh Dần)
5- ÔNG SÁU SÂM XƯỚNG

5- ÔNG SÁU SÂM XƯỚNG

(ở Mỹ hội Đông)

Phật giáo ngày nay đã phế rồi,
Biến sanh vạn sự thấy hỡi ôi !
Trời đất tịt mù bao dễ thấu,
Chẳng nề việc nhỏ chuyện suy tồi.
Sánh so các đạo ôi nhơ nhớp,
Hoài cảm Huỳnh gia ắt phế trôi.
Thập nhị niên gian tua gắn bó,
Tiên gia huyền diệu khả qui hồi.

Cuộc cờ rối rắm lúc nào xong ?
Một dãy giang san biết mấy trùng;
Liệt sĩ tâm trung trơ phách khí,
Yêng hùng dạ sắt mỏi lòng mong.
Lẽ đành trung nghĩa theo mây gió,
Hoài cảm non sông thả biển đông.
Ơn nước nợ nhà nào có thuở,
Biết bao chờ đợi biết bao trông.
Lâm Chơn Sâm.

THANH SĨ HỌA

Trời tối ba mươi ngỡ vậy rồi,
Gian hùng nghểu nghến khuấy cho ôi !
Hay đâu đến cở Mười thì tỏ,
Những lúc Mùng, coi cảnh quá tồi.
Lớn nhỏ bơ thờ e trễ việc,
Trẻ già giải đãi ắt buông trôi.
Thiên cơ mật sát thi nan bó,
Ớ khách trần ai chớ hộp hồi.

Lần hồi cũng có một ngày xong,
Chớ nghĩ vu vơ lỗi chín trùng,
Thiệt chí làm tôi thì có mửng,
Thành tâm vẹn tớ sẽ còn mong !
Xưa nay nghĩa dõng tên nào mất,
Sau trước trung thần tiếng mãi đông.
Có thấy ai đâu người dễ thở,
Mà sao hiển Thánh được mà trông !
6- ÔNG LÂM VĂN TRUNG (tức Năm Văn)

6- ÔNG LÂM VĂN TRUNG (tức Năm Văn)

XƯỚNG
Uất ức làm chi hỏi ít bài,
Nhờ ông phân cạn chuyện tương lai;
Long Xuyên có chắc phần ông Nguyễn (Ngộ),
Châu Đốc mãi còn của cậu Hai (Ngoán).
Dân chúng Định Hòa con cháu Phật ?
Tín đồ Châu Phú tớ tôi ai ?
Tại sao Trên Trước đành riêng biệt ?
Nỡ để An Giang chịu khổ hoài.

Khổ hoài dân chúng mới làm sao ?
Ngồi đứng cho yên được sửa trau !
Đạo hạnh chờ ngày Thầy lập hội,
Dứt tâm đợi thuở Chúa lâm chào.
Tu hiền thường bị điều tai nạn,
Hung dữ khỏi mang nỗi đớn đau.
Nếu vậy muôn người không đặng một,
Thành công đắc quả lựa là bao ?

Là bao nhiêu cũng thả theo dòng,
Hai triệu người còn ít chục ông.
Hữu phước hữu căn nên chắc dạ,
Vô duyên vô phận phải siêu lòng.
Năm nhồi mười nắn còn chưa chắc,
Bảy đạp tám chà ắt khó mong.
Đã biết tu hành thì khổ hạnh,
Nhưng mà khổ quá khó làm xong.

Làm xong sao nổi với bầy yêu,
Chúng ỷ thân Tây lại tự kiêu;
Cậy thế Tối cao rồi phóng đại,
Nương quyền Tư lịnh lại đàm liều.
Chuyên môn bắt cóc và đe dọa,
Triệt để làm tiền với thủ tiêu.
Có phải hóa công còn tưng vị ?
Hay sao mà chúng vẫn hiêu hiêu?!

THANH SĨ ĐÁP HỌA

Xong chưa dám hỏi nọ kia bài ?
Có lạ gì đâu cuộc lá lay;
Phước lộc không riêng phần cụ Nguyễn,
Tâi ương chẳng những một ông Hai.
Quần sanh xét cũng con Trời Phật,
Tạo hóa nào đâu nể một ai ?
Quả khổ dân mang cơn khốc liệt,
Nào An Giang tỉnh Phật không hoài !

Không hoài bởi thế biết làm sao !
Chớ vội buồn phiền ý chẳng trau,
Nhặm lẹ mong chờ khi mở hội,
Cù cưa ắt trễ buổi khai trào.
Trung thần rạng tiết nhiều tai nạn,
Nghĩa dõng nên danh phải khổ đau.
Có dữ mà hiền, hiền vẹn mặt,
Hơn ngàn đứa bao giá là bao?!

Là bao vẻ nguyệt chiếu theo dòng,
Bốn biển đâu ngoài được đó ông;
Lượng cả soi chung đâu đổi dạ,
Cao dày phủ khắp há riêng lòng.
Ba lò bảy lửa coi còn chắc,
Chín sảy mười sàng lọt tấm mong.
Nếu kẻ tu thành tâm dù khổ hạnh,
Đâu nào rủn chí chẳng làm xong.

Làm xong khủng khiếp lũ quần yêu,
Chẳng dám bén mình hất mặt kiêu;
Có giỏi Ô Giang rồi cũng chết,
Không hay Bá Lạc cũng tiêu điều.
Âm dương chuyển động dân tan nát,
Quả đất xay vần cảnh tận tiêu.
Báo ứng lâu mau đâu phải vị,
Thôi đừng trách móc Phật buồn hiu,
Phật buồn hiu thế sự,
Tu hành còn do dự;
Vịnh nào việc lâu dài,
Mà sanh tâm đảng tử.
7- ÁI LIÊN XƯỚNG (bài 3)

7- ÁI LIÊN XƯỚNG (bài 3)

Tình hình rắc rối bởi thiên công ?
Chinh chiến đao binh nói chẳng cùng;
Động đất long trời cơn biến chuyển,
Tuôn sầu giọt lệ tủi non sông.
Lao xao bể Bắc kiến ăn cá,
Lố xố gành Nam rắn lộn rồng.
Mưa thuận gió hòa trông mỏi mắt,
Bao chừ an định hỡi ơi ông ?

Ông dường hiểu đặng máy huyền vi,
Thế cuộc dinh hư hiểu thức thì ?
Chiến cuộc can qua hà thị chủ ?
Xuân thu phong võ khước vi thùy ?
Hạng Vương hùng dõng tiêu chơn mạn,
Hớn Tổ khiêm cung lập đế kỳ.
Ỷ sức cậy tài xưa mấy kẻ,
Thân vong tộc diệt chẳng còn chi.

Chi bằng đoải đoán thuận thiên nhân,
Bá vạn hùng binh chẳng gớm gân;
Châu Võ mấy mươi an mối giặc,
Trụ Thương muôn triệu lụy toàn thân,
Thảy đầy tội ác khôn lòn chuỗi,
Tan rã thây thi khó nổi gần.
Mong ước đồng nhân yêu chủng loại,
Yêu nòi yêu giống tất đa lân.

Lân đa thì ắt thấy nhân quần,
Kết lũ vầy đoàn đến kính vưng,
Đông tảo Bắc trừ không mỏi cánh,
Tây triều Nam phục chẳng hao quân,
Quần lê quì đội nhờ mưa hạ,
Chúng thứ gội nhuần đượm tiết xuân.
Cây cội nước nguồn nên đoái tưởng,
Tô vàng chớ để chúng giành bưng.

THANH SĨ HỌA

Đau đớn thua buồn kẻ bất công,
Vầy phe kết đảng hiệp dân cùng;
Độc tâm nhiễu hại người đen mặt,
Ác tánh gây loàn nước đỏ sông.
Nghịch đời kẻ bạo cười ha hả,
Trái cảnh hiền nhơn phải khóc ròng.
Trên đời bĩ thái hằng trêu ghẹo,
Có lẽ gần đây nhẹ bớt ông.

Nhẹ bớt nàn tai cuộc bố vi,
Khắp trong dân sự nắm tay thì;
Xẻ chia dưa muối cơn nguy khốn,
Trao đổi mền chăn lúc nhược thùy.
Lụi đụi nắng chiều tuy nóng bức,
Thẩn thơ sương tối ấm thân kỳ.
Sức người châu chấu kình xe trượng,
Trời đất nào dung đứa bạo chi.

Đứa bạo chi mà khổ tội nhân,
Não nề co rút mấy chùm gân;
Hữu tâm có Phật ra trừ bạo,
Vô đạo bầy yêu ám hại thân.
Tội ác thế gian bày trước mặt,
Nghiệp oan dân chúng lộ thêm gần.
Đây rồi trồng trặc chi ăn nấy,
Chớ hận Trời cao chẳng ái lân.

Ái lân nhơn ố khổ nhơn quần,
Đau đớn lòng nầy bắt dửng dưng.
Đem hết thân tâm ra gánh đỡ,
Vận hành tri kiến để ngừa quân.
Cái vui đã chẳng ngày nào có,
Nỗi khổ thường mang phút tuổi xuân.
Luống đợi những hôm trằn trọc mãi,
Vận thời bất đạt khó tay bưng.

Nhờ ông thương lẫn kẻ nầy đây,
Chớ họa thơ văn chớ vận bài.
Non nước rối ren không rảnh trí,
Cửa nhà điêu đứng chẳng yên tay.
Sớm hôm ngứa ngẩm đây sờ mãi,
Ngày tối lao lư cứ rộn hoài,
Thế cuộc xoay vần thân cũng thế,
Đâu nào yên ổn khép vần thai,

Đâu đành nước loạn cứ nằm queo,
Chiếc nệm cùng ta nghĩa gắn keo;
Bên màn giá ngọc vùi chăn gối,
Ấm lạnh ai hay phận nước bèo.

8- XƯỚNG HỌA GIỮA Thanh Sĩ và Thiện Duyên
Cuối năm 1951 ông Thanh Sĩ và Thiện Duyên cùng sống chung một nhà ở xã Long Kiến. Giường ngủ đâu đầu nhau, nên mỗi đêm trước khi ngủ thường chuyện vãn qua lại nhau năm ba câu.
Một hôm ông Thanh Sĩ đưa ý kiến là trước khi ngủ nên làm một bài thơ, thay phiên nhau xướng họa, hôm nay người nầy xướng thì đêm sau người kia xướng, cứ như thế mà thành ra có cuộc xướng họa giữa ông Thanh Sĩ và Thiện Duyên. Sau đây là những bài xướng họa thường lấy đề tài những chuyện xảy ra ban ngày hay đạo lý.

1- NGẪU HỨNG

1- NGẪU HỨNG

Trách nhiệm đa đoan rối chỉ cuồn,
Biết làm sao sởi mối cho suôn ?
Họa nhờ Chức Nữ ra công giúp !
Tay tục chưa chi đã thẹn thuồng.
THIỆN DUYÊN

Chưa mó vào thoi ngại rối cuồn,
Được không tới đó rõ chăng suôn.
Người sao khéo ướm nhiều đo đắn,
Quả quyết thì đâu đến thẹn thuồng.

Thẹn thuồng thử hỏi có gì hay ?
Đổi lại hành cương được mới tài.
Sự khó đành rồi, đừng thấy chán;
Như vầy hẳn được chút cao bay.
THANH SĨ
Ngày 11-11 Tân Mão tức đêm 9-12-1951
2- KHÔNG HỌC SAO HAY

2- KHÔNG HỌC SAO HAY

Không học mà sao thuyết quá rành,
Xưa Ngài Lục Tổ đã nêu danh,
Phái chăng có học mà không thấy.
Nghĩ thẹn văn chương luống tập tành.
THIỆN DUYÊN

Chẳng có hơn thua, đâu có rành,
Tướng còn không được, được chi danh.
Miên man ý nghĩ người trần tục,
Chung cuộc thêm đau khổ tập tành !
THANH SĨ
12-11 năm Tân Mão (Đêm 10-12-1951)



Chiều ngày 11-12-1951, sau khi đi viếng chùa Tây An cổ tự còn là một căn nhà lá dột nát, ông Thanh Sĩ bèn nghĩ đến việc trùng tu để sau nầy làm cơ sở phát triển nền đạo Phật giáo Hòa Hảo. Sau khi trùng tu, chùa sẽ có một ngôi Phật Học Đường là nơi sau nầy Ban Hoằng Pháp sẽ mở những khóa huấn luyện Đạo Đức. Do đó ông Thanh Sĩ cùng Thiện Duyên hoạch định chương trình về Phật Học Đường tương lai nhưng mãi lo ngại không biết có được chấp thuận không.
3- ĐỊNH CHƯƠNG TRÌNH PHẬT HỌC ĐƯỜNG

3- ĐỊNH CHƯƠNG TRÌNH PHẬT HỌC ĐƯỜNG

Hoạch định chương trình nghĩ cũng to,
Càng xem càng ngại lại càng lo.
Người ta biết có đồng tâm nhỉ !
Hay phải dở dang phút hẹn hò !
THANH SĨ

Vẫn biết chương trình cũng khác to,
Chưa làm sao lại quá âu lo.
Gắng lên mới rõ người mong ước,
Cho vẹn lời kia đã hẹn hò.
THIỆN DUYÊN

Lạ nhỉ làm sao có kẻ kìa !
Ngồi đây lại biết bụng bên kia.
Chua ngoa cũng khéo cho văn sĩ,
Sợ đến ra tay rớt cửa bìa !
THANH SĨ

Lời nói nghe qua lạ quá kìa !
Sao không nhớ lại chuyện năm kia.
Phải chăng liều lĩnh mà nên việc,
Thì có ngại chi rớt cửa bìa (1).
THIỆN DUYÊN
Đêm 11-12-1951 nhằm 13-11 Tân Mão



(1) Ông Thiện Duyên nhắc lại năm 1948 sau khi Đức Thầy vắng mặt, ông Thiện Duyên đưa ông Thanh Sĩ đi trình với Đức Ông xin phép giảng đạo nhắc nhở anh em tín đồ và đã đưa ông Thanh Sĩ đi giảng khắp các xã trong quận Tân Châu tỉnh Châu Đốc và được anh em tín đồ nhiệt liệt đón rước.
4- MỪNG SẮP LẬP PHẬT HỌC ĐƯỜNG

4- MỪNG SẮP LẬP PHẬT HỌC ĐƯỜNG

Ý nguyện hôm nay sắp đạt thành,
Mừng cho trăm họ mến tu hành.
Có trường Phật Học rèn tâm chí,
Cu hội chung nhau một gốc lành.
THIỆN DUYÊN

Vung ngọn gươm linh vượt khỏi thành,
Đem bao trí lực một phen hành.
Nêu lên rỡ rỡ gương từ thiện,
Thức tỉnh quần mê đến cội lành.

Dạ muốn nhơn sinh đạo đắc thành,
Để không hoài uổng cái công hành.
Chờ ngày biến chuyển miền Nam địa,
Được hưởng bao nhiêu phúc huệ lành !
THANH SĨ
Đêm 12-12-1951 nhằm 14-11 Tân Mão.
5- CẢM TÁC

5- CẢM TÁC

Ngắm cảnh Non Kiêng (1) cẳng muốn trèo,
Lòng còn ngại nỗi đá cheo veo.
Ước ai sẵn có dây bìm cốc,
Cho mượn phăng lên khỏi mấy đèo !
THANH SĨ
(1) Núi Cấm

Lòng mến Non Kiêng quyết cẳng trèo,
Ngại gì chất ngất đá cheo veo.
Lựa là phải có dây bìm cốc.
Dầu phải tuôn mây vượt ải đèo.
THIỆN DUYÊN

Đời muốn siêu lên cõi Phật đài,
Ngặt vì nợ thế mãi chèo đai.
Ông ơi ! Nếu có dư tâm lực,
Giúp đỡ cho đời một ít vai !
THANH SĨ

Muốn được mau lên chốn Phật đài,
Phải đền nợ thế đã đeo đai.
Tự mình cố gắng hành chơn lý
Chừng đó Thần Tiên giúp một vai.
THIỆN DUYÊN.
Đêm 13-12-1951 nhằm 15-11 Tân Mão.
6- NGẪU TÁC

6- NGẪU TÁC

Có biết bao giờ mới nhận chơn,
Người sao cứ mãi chát căm hờn.
Họa chăng có nước cam lồ tưới;
Tắt được lòng người chữ ngã nhơn.
THIỆN DUYÊN

Đoán được gần đây rõ giả chơn,
Sẽ đem thân ái đổi căm hờn,
Nghĩ vì hết chỗ nào nghi hoặc,
Được thấy người ta đúng đạo nhơn !
THANH SĨ

Ước được muôn người hợp với tôi.
Nói làm hai lẽ phải đi đôi.
Nhưng sao phải gặp nhiều ngang trái,
Để phải lòng đau biết mấy hồi !
THIỆN DUYÊN

Người mãi bo bo giữ cái tôi,
Nói làm vì thế chẳng đi đôi.
Cho nên cứ đó trôi lăn mãi,
Bao thuở nhà Tiên được phản hồi.
THANH SĨ
Đêm 14-12-1951 nhằm 16-11 Tân Mão
7- CẢNH PHẬT HỌC ĐƯỜNG TƯƠNG LAI

7- CẢNH PHẬT HỌC ĐƯỜNG TƯƠNG LAI

Vân tập môn nhơn trước học đường,
Trang nghiêm thanh tĩnh cảnh phi thường.
Vui vầy nhuần thắm mùi chơn lý,
Phật pháp mừng thay được xiển dương.
THIỆN DUYÊN

Xiển phát ngàn kinh giữa học đường,
Rổn rang tiếng kệ giọng phi thường.
Thính viên lẳng lặng nghiêng tai rót,
Giọt nước cam lồ với nhánh gương !
THANH SĨ
Đêm 14-12-1951

Từ đây trở đi là những đề tài dự định diễn giảng trong loạt bài huấn luyện Đạo Đức của Ban Hoằng Pháp giữa ông Thanh Sĩ và Thiện Duyên.
Mỗi bài do Thiện Duyên xướng trước và được ông Thanh Sĩ họa lại đến hai bài.
8- TẠI SAO TA PHẢI TU

8- TẠI SAO TA PHẢI TU

Lăn lộn sáu đường mãi thế ru !
Bao giờ thoát khỏi chốn Diêm phù.
Đường về Cực Lạc nào đâu khó,
Phải gắng theo Thầy quyết chí tu.
THIỆN DUYÊN

Hứng ngọn từ phong khỏe lắm ru !
Trương buồm Bát nhã lánh Diêm phù.
Sang qua bỉ ngạn vưng lời Phật,
Xuống thế độ đời rõ cách tu.

Rõ cách tu hành của Thích Ca,
Hoặc là cư sĩ hoặc ly gia.
Lòng nguyền giải thoát duyên trần cấu,
Nhiếp thọ huyền vi của Phật Đà !
THANH SĨ
17-11 năm Tân Mão, đêm 15-12-1951
9- Nhơn Đám Phá Hoại Lên THUẬN GIANG

9- Nhơn Đám Phá Hoại Lên THUẬN GIANG

Chừng nào mới hết lũ ma chơi?
Cứ mãi đeo theo phá khuấy đời
Giết hại sanh linh giày xéo đạo,
Lại còn hãnh diện ở nhiều nơi.
THIỆN DUYÊN

Cái thứ quỉ chùa bởn Phật chơi.
Thiên lôi cũng đả sống đâu đời.
Tăng ni có bị anh chàng phá,
Nhớ niệm Di Đà ắt vững nơi !
THANH SĨ

Cái thứ quỉ chùa đâu phải chơi,
Dầu cho niệm Phật chẳng yên đời.
Người đương lễ bái chàng còn phá.
Chưa hẳn Thiên Lôi dám đến nơi.
THIỆN DUYÊN

Nếu gọi quỉ chùa chẳng phải chơi,
Tôi xin bố cáo khắp trong đời;
Tăng ni đạo tục lo phòng thủ,
Kẻo nó rình mò hiện đến nơi !
THANH SĨ
Đêm 18-12-1951 nhằm ngày 20-11 Tân Mão
10- TU ĐỂ LÀM GÌ ?

10- TU ĐỂ LÀM GÌ ?

Đại lực đại hùng quyết chí tu,
Một mai vượt thoát chốn diêm phù.
Trở về an dưỡng gia công học,
Trở lại cứu đời khỏi ám u !
Thiện Duyên.

Vì đạo vì đời phải vẹn tu,
Độ mình độ kẻ khỏi diêm phù.
Kim đài đến đó hầu chư Phật
Lánh cõi trần ba lánh cõi u.

Lánh cõi u đồ chẳng bận tâm,
Sớm chiều nương tựa chốn Lôi Âm.
Quản bao thế sự mùi danh lợi,
Chêm nếm ngày qua chữ thậm thâm !
THANH SĨ
Đêm 18-12-1951 nhằm 20-11 Tân Mão

Từ ngày 19-12-1951 ông Thiện Duyên ngọa bịnh (bịnh kiết) nên cả tuần không có xướng họa, mãi cho đến đêm 26-12-1951 cuộc xướng họa mới tiếp tục lại.
11- NGỌA BỊNH CẢM THÁN

11- NGỌA BỊNH CẢM THÁN

Mấy hôm thân thể bịnh không an,
Ý giục làm thơ luống ngỡ ngàng.
Chẩn trị đã đành là một việc,
Lòng nguyền gia hộ chút từ quang.

Nhờ chút từ quang bịnh sớm thuyên,
Dập dồn hung tín đến liên miên.
Lẽ đâu cứ mãi nằm yên chỗ,
Phải tính phương nào hỡi Thiện Duyên ?
THIỆN DUYÊN
Đêm 25-12-1951 nhằm 27-11 Tân Mão
12 TÔN CHỈ ĐẠO THẦY

12 TÔN CHỈ ĐẠO THẦY

Nối chí Thích Ca quyết độ đời.
Thi thơ sám giảng rải muôn nơi.
Ra tay chèo quế xông thuyền giác.
Rước chúng qui về chốn thảnh thơi.
THIỆN DUYÊN

Thừa mạng Kim Sơn mới xuống đời,
Từ bi ngọn đuốc rọi nhiều nơi.
Dìu con thiện chí qua sông khổ,
Hưởng cảnh siêu mầu được thảnh thơi.

Thảnh thơi muôn kiếp khỏi sầu miên,
Hôm sớm nghiêng vai trước bệ tiền.
Lãnh hội lời vàng trên lịnh phán,
Từ đây khoái lạc giống Rồng Tiên !
THANH SĨ
Đêm 27-12-1951 nhằm 29-11 Tân Mão
13- PHÁP MÔN HÀNH ĐẠO

13- PHÁP MÔN HÀNH ĐẠO

Vào thời mạt pháp đạo suy đồi.
Tự lực riêng tu khó đặng rồi.
Tịnh độ Thầy rằng môn cứu cánh.
Di Đà lục tự niệm không thôi.
THIỆN DUYÊN.

Tự tỉnh thân ta hết bại đồi.
Tha cầu Phật lực giúp mau rồi.
Nội tâm ngoại cảnh hằng thanh tịnh.
An dưỡng Liên đài chắc đấy thôi.

Đấy thôi thắng diệu có gì hơn.
Thất Bửu ngày rung những tiếng đờn.
Lãnh lót Tần Dà trên đại thọ,
Đầy câu chánh pháp lạc chư nhơn !
THANH SĨ
Đêm 28-12-1951 nhằm mùng 1-12 Tân Mão
14- SỨ MẠNG ĐẠO THẦY

14- SỨ MẠNG ĐẠO THẦY

Vâng lịnh Thế Tôn xuống giáo dân,
Dọn đường Long Hội chọn hiền nhân.
Khuông phò chơn Chúa gây đời mới.
Phật pháp hằng nghe, dựa các lân.
THIỆN DUYÊN

Chẳng phải Thần Tiên chẳng phải dân,
Ngọc tòa nấy lịnh cứu chư nhân
Qua cơn sống khổ ngày tiêu diệt,
Trực đáo đài sen dựa các lân.

Các lân sĩ tử tựa trùng ba,
Vẻ mặt hân hoan sắc nõn nà.
Bẻ quế cung Thiềm thân hiển đạt,
Vinh đời con trẻ, đẹp lòng cha !
THANH SĨ
Đêm 29-12-1951 nhằm mùng 2-12 Tân Mão
15- BỔN PHẬN TÍN ĐỒ

15- BỔN PHẬN TÍN ĐỒ

Đã nguyện mang danh một tín đồ,
Lòng hằng tinh tấn niệm Nam mô.
Giữ tròn giới luật, hành chơn chánh,
Danh lợi phù hư chẳng nhiễm ô.
THIỆN DUYÊN

Muốn được làm xong phận tín đồ,
Tam cang thường ngũ rán quy mô.
Quán thân tứ đại như bào ảnh,
Cái hối tiền phi, lánh trược ô.

Ô trược ưu bi với não phiền,
Ta bà khổ khổ khổ vô biên.
Nhơn sanh sớm tỉnh cơn trần mộng,
Ly cõi tục phàm đáo cõi Tiên !
THANH SĨ
Đêm 30-12-1951 nhằm mùng 3-12 Tân Mão
16- CẢM TƯỞNG ĐỐI VỚI ĐỨC THẦY

16- CẢM TƯỞNG ĐỐI VỚI ĐỨC THẦY

Tha thiết hằng đêm nguyện chẳng thôi,
Khẩn cầu Giáo Chủ sớm lai hồi.
Dắt dìu con trẻ cơn nguy biến,
Để bấy lâu nay mãi dập dồi.
THIỆN DUYÊN

Chạnh cảm người xưa dễ được thôi,
Vì con chẳng quản kíp lai hồi.
Mong sao cởi mở dây xiềng xích,
Chưa toại thân cam chịu gió dồi.

Gió dồi cũng mặc cái thời quai,
Khổ nỗi bầy con phải lạc loài.
Dạ luống trông chờ thiên mạng đến,
Thầy trò hội hiệp bớt nồng cay !
THANH SĨ
Đêm 30-12-1951 nhằm mùng 3-12 Tân Mão
17- KHIÊM TỐN

17- KHIÊM TỐN

Chẳng nên kiêu hãnh tỏ mình hơn,
Từ nhượng, hằng khuyên sách Thánh nhơn.
Đã tránh lỗi lầm thêm học hỏi,
Hạnh đầu cần có, hỡi chư duơn.
THIỆN DUYÊN

Phàm thánh nguyên lai chẳng kém hơn,
Đừng hòng quí kỷ lại khi nhân.
Cam ngôn mỹ hạnh cho phong nhã,
Bỉ thử hầu gây mối thiện duơn.

Thiện duơn chặt buộc giữa người ta,
Ngoài lộ cũng như ở tại nhà.
Thượng hạ êm đềm và mật thiết,
Bao giờ có cuộc ó rầy la.
THANH SĨ
Đêm 31-12-1951 nhằm mùng 4-12 Tân Mão
18- CUNG KÍNH

18- CUNG KÍNH

Kìa xem phong độ khách thanh tao,
Lấy lễ vòng thân nhã biết bao !
Kiến lão đắc tràng câu tục ngữ,
Hơn nhau chỉ một tiếng chào cao.
THIỆN DUYÊN

Trời Nghiêu để lại giọng tiêu tao,
Tiếng gọi lời thưa đẹp biết bao !
Đoan chính dung nghi trai lẫn gái,
Nể nhường phẩm trật thấp cùng cao.

Cao thấp rành phân thói ở ăn,
Cha con tôi chúa vẹn năm hằng.
Anh em chồng vợ cùng bè bạn,
Đi đứng nằm ngồi có nếp ngăn !
THANH SĨ
Đêm 1-1-1952 nhằm mùng 5-12 Tân Mão
19- TRUNG THÀNH

19- TRUNG THÀNH

Một lòng vì nước với vì dân,
Ngay thảo làm nên bực Thánh Thần,
Đã đứng làm người sao vẹn nghĩa,
Một đời một đạo đến chung thân.
THIỆN DUYÊN

Từ bực vua quan đến thứ dân,
Nữ nam lão ấu một tinh thần,
Noi theo chánh khí trang hào kiệt,
Xã hội nào ai bỉ bạc thân.

Bỉ bạc thân danh ấy bởi mình,
Học đòi Đổng Trác bám hư vinh.
Bội cha phản chúa phường vô đạo,
Để lại người đời tiếng rẻ khinh !
THANH SĨ
Đêm 2-1-1952 nhằm mùng 6-12 Tân Mão
20- TÍN THẬT

20- TÍN THẬT

Điêu ngoa dối trá chẳng ai ưa,
Muốn được thành nhơn phải sớm chừa
Đối thật với người, người thật lại,
Lừa người chi khỏi bị người lừa.
THIỆN DUYÊN

Phàm ta muốn có lắm người ưa,
Tráo trở luôn luôn đã được chừa,
Miệng nói nửa cân lòng tám lượng,
Nào ai dám gọi cái quân lừa.

Quân lừa chỉ biết sống lừa quen,
Mua lấy vào thân cái rẻ hèn.
Vất vưởng để cho người chán ghét.
Trọn đời chẳng được một ai khen !
THANH SĨ
Đêm 3-1-1952 nhằm mùng 7-12 Tân Mão
21- ÔN HÒA

21- ÔN HÒA

Ích gì tiếng xẳng để chê bai,
Mọi việc cùng người hiệp mới hay.
Đờn quá thẳng dây chi khỏi đứt,
Sao bằng dịu giọng được bền dai.
THIỆN DUYÊN

Ung dung đối họa tiếng thanh bai,
Được sự mau thành, lý được hay.
Kinh nghiệm cho ta thường thấy rõ,
Cọc cằn xử thế ít bền dai.

Bền dai ít được bởi vì sao?
Vì kẻ thường ưa tiếng ngọt ngào,
Ngược lại ta đem lời chát chúa,
Phương chi tránh khỏi chỗ hờn nhau.
THANH SĨ
Đêm 4-1-1952 nhằm mùng 8-12 Tân Mão
22- CƯƠNG QUYẾT

22- CƯƠNG QUYẾT

Một chí một lòng phấn chấn lên,
Đạp bằng trở ngại vượt lên trên.
Tu hành bao nại điều tân khổ,
Dũng mãnh kiên trì hẳn được nên.
THIỆN DUYÊN

Phàm sao mọi việc đã nêu lên,
Tận xét không còn thấy chỗ trên.
Mạnh mẽ nơi lòng làm mải miết,
Đến ngày việc ấy được thành nên.

Thành nên việc ấy nếu như chưa,
Với giá bao cao mới được vừa.
Quả cảm lòng nguyền theo đến mức,
Đinh ninh kết quả sớm hay trưa !
THANH SĨ
Đêm 5-1-1952 nhằm mùng 9-12 Tân Mão
23- CẨN THẬN

23- CẨN THẬN

Lựa là dục tốc với bôn chôn,
Kẻ giận thường hay mất trí khôn.
Chậm rãi tu hành mà chín chắn,
Còn hơn xởi lởi mãi tu nôn.
THIỆN DUYÊN

Ngu là trễ nãi dại bôn chôn,
Giá muốn tìm ra được kẻ khôn.
Nhín chút thì giờ xem tứ hướng,
Người không chậm lục chẳng nao nôn.

Nao nôn triệu chứng của buồn ngơ,
Chậm lục là điềm sắp lỡ cơ.
Có cả hào cương và thấm thị,
Muôn phen giỏi lắm một phen trờ !
THANH SĨ
Đêm 5-1-1952 nhằm mùng 9-12 Tân Mão

Nhân có cuộc phá hoại tại Dinh Ông xã Kiến An, một số anh em bị tử nạn vì mìn nổ gây thành một đề tài xúc động.
24- XÚC ĐỘNG ANH EM TỬ NẠN

24- XÚC ĐỘNG ANH EM TỬ NẠN

Số hệ gì đâu quá trớ trêu,
Một ngày tử nạn mấy người yêu.
Mây sầu gió thảm trời u ám,
Có động lòng chăng? Cả tiếng kêu.

Tiếng kêu có thấu đến ai không ?
Xúc niệm tình nhau một phái tông.
Chẳng lẽ tiêu mòn như thế ấy,
Còn gì đi đến Hội Hoa Long.
THIỆN DUYÊN

Thật sự thì không có trớ trêu,
Tự mình oán ghét tự mình yêu.
Giai do cộng nghiệp đời Nguơn Hạ,
Rán trả đừng buồn, ngớ ngẩn kêu.

Ngẩn kêu bởi chửa được lòng không,
Còn chấp người theo một phái tông.
Chưa rõ huyền cơ đà nhất định,
Chẳng vì sanh tử chẳng Hoa Long !
THANH SĨ
Đêm 6-1-1951 nhằm mùng 10-12 Tân Mão

25- ĐỨC HẠNH

25- ĐỨC HẠNH

Tài chửa làm nên giá trị người,
Tài suông chỉ tạo lắm trò cười.
Tu thân muốn được tròn nhơn cách,
Đức hạnh giồi trau cả vẹn mười.
THIỆN DUYÊN

Còn có phương chi dễ cảm người,
Hơn là cửa miệng vẫn tươi cười.
Lòng trong chứa chất đầy nhơn ái,
Mười kẻ hằng thương được cả mười.

Cả mười việc thiện vẫn làm xong,
Chẳng thẹn muôn dân chẳng thẹn lòng.
Hiện kiếp cùng người không để oán,
Thác sanh được dạo cõi Tiên Bồng !
THANH SĨ
Đêm 6-1-1952 nhằm mùng 10-12 Tân Mão
26- CẦN MẪN

26- CẦN MẪN

Sớm tối lòng hằng chẳng để lơi,
Di Đà lục tự niệm không rời.
Đường qua Cực Lạc mười muôn ức,
Cố gắng qui lai có mấy hơi.
THIỆN DUYÊN

Hỏng việc phần nhiều tại chí lơi,
Bằng theo lẽ định nguyện không rời.
Dầu cho việc ấy muôn trùng khó,
Cũng được thành công chẳng mấy hơi.

Hơi mấy người nghe việc khó khăn,
Đăm ra chán nản vẻ tung tăng.
Đâu hay đạt chí trên thiên hạ,
Sống chỉ đeo theo cái hạ tằng !
THANH SĨ
Đêm 7-1-1952 nhằm 11-12 Tân Mão
27- TIẾT KIỆM

27- TIẾT KIỆM

Chẳng nên keo kiết chẳng xa hoa,
Tiện tặn là phương sách trị gia.
Dầu chẳng được dư không đến thiếu,
Bước chăng tri túc, cũng do ta.
THIỆN DUYÊN

Điều lành phưởng phất tựa muôn hoa,
Xuất thế hay người ở tại gia.
Đức hạnh bòn chen đừng phí dụng,
Một ngày huệ nghiệp sẽ gần ta.

Gần ta sẽ thiện một ngày thêm,
Dù ít dù nhiều cũng ráng chêm.
Chẳng phút rời xa hằng bảo thủ,
Lôi Âm sẽ được bước lên thềm !
THANH SĨ
Đêm 9-1-1952 nhằm 13-12 Tân Mão
28- NGHIÊM NGHỊ

28- NGHIÊM NGHỊ

Uy nghi vọi vọi chốn Kim đài,
Sắc diện từ bi thể tướng oai,
Mỗi bước đoan trang và đỉnh đạt,
Ma Tuần trông thấy phách hồn bay.
THIỆN DUYÊN

Trên vị tâm vương tọa ngọc đài,
Dưới chàng Súy Huệ vẻ hùng oai.
Đơn thân giữ vững an thành nội,
Sáu giặc nhờ ngươi đã tản bay.

Bay tản bao nhiêu việc úa hèn,
Từ lời chê trách đến lời khen.
Luôn luôn vẻ mặt thêm trầm tĩnh,
Người lạ như là những kẻ quen !
THANH SĨ
Đêm 9-1-1952 nhằm 13-12 Tân Mão
29- LIÊM KHIẾT

29- LIÊM KHIẾT

Giữ lòng thanh bạch một nguồn chơn,
Dầu cảnh trần nhơ cũng chẳng sờn.
Một vẻ làu làu không nhiễm trước,
Ngọc ngà trong trắng dễ gì hơn.
THIỆN DUYÊN

Trong đời mỗi kẻ được lòng chơn,
Đứng trước tài phi bụng chẳng sờn.
Thế giới không lâm cơn nước lửa,
Con người giá sạch có gì hơn.

Có gì hơn được tấm lòng trong,
Khỏi bị người nghi khỏi bị phòng.
Thượng hạ nào ai không tín nhiệm,
Cử đồ mọi việc thảy đều xong !
THANH SĨ
Đêm 10-1-1952 nhằm 14-12 Tân Mão
30- CHƠN CHÁNH

30- CHƠN CHÁNH

(Hạn vận xa tà lánh ma)

Mọi đường khuất khúc kíp dang xa,
Cố giữ lòng ngay chẳng vạy tà.
Đức thắng quỉ thần nghe phải lánh,
Nêu cao khí tiết phục hàng ma.
THIỆN DUYÊN

Những điều xảo trá hãy nên xa,
Cũng chớ ưa nghe tiếng mị tà.
Kẻ dối người gian âu phải lánh,
Đừng lòng chứa chất thói yêu ma.

Yêu ma bám víu lối gian manh,
Thọ cảm bao nhiêu quả bất lành.
Vào hổ ra han thân khốn đốn,
Người đời nhàm nhụa thứ hôi tanh !
THANH SĨ
Đêm 11-1-1952 nhằm 15-12 Tân Mão
31- TRI THỨC

31- TRI THỨC

Đuốc huệ nêu lên ánh sáng lòa,
Phá tan hắc ám thập tam ma.
Khắp nơi sáng suốt không ngăn ngại
Tỏ rõ phân minh nẻo chánh tà.
THIỆN DUYÊN

Thường khi mắt nhậm ngó đèn lòa,
Bất giác mê lầm Phật lẫn ma.
Mỗi mỗi tư duy cho đáo để,
Không hề đọa lạc cửa tinh tà.

Tin tà rải rác khắp trong trần,
Đủ cách mưu mô đủ phép thần.
Nhiễu hại người đời ôi xiết kể,
Hỡi người thiện tín rán bình phân !
THANH SĨ
Đêm 12-1-1952 nhằm 16-12 Tân Mão
32- CẢNH TỈNH

32- CẢNH TỈNH

Khi trầm khi bổng lạ lùng thay !
Hỡi kẻ đồng môn ráng miệt mài.
Trí thể quân bình hồn lẫn xác,
Đạo mầu nháy mắt được huyền khai.

Huyền khai nhất khiếu hẳn nhiên rồi,
Chỉ có nơi tâm sớm tỉnh hồi.
Lánh cuộc trần mê xa bể ái.
Muôn đời khoái lạc lắm người ôi.

Người ôi sao chẳng sớm ăn năn,
Rần rộ đua chen tợ muỗi lằng.
Bám víu mồi câu gây giết hại
Bao giờ mới được biết qui căn.

Qui căn trở lại nẻo huyền sâu,
Nương tựa Liên Hoa cảnh ngọc lầu.
Dạo khắp bốn phương trong chốc lát,
Lợi danh cuộc thế có gì đâu !
THANH SĨ
Đêm 12-1-1952 nhằm 16-12 Tân Mão
33- NHẪN NHỤC

33- NHẪN NHỤC

Ở đời muôn việc nhịn là hơn,
Dứt cuộc tranh đua dứt oán hờn.
Thư thái nơi lòng an ổn phận,
Con đường thành đạt của hiền nhơn.

Hiền nhơn với oán đáp bằng ân,
Gặp cảnh nhục hèn vẫn tự hân.
Đối đãi kẻ thù ra kẻ nghĩa,
Nhờ người dứt được mối tiền nhân.
THIỆN DUYÊN

Chỗ nào gọi kém chỗ nào hơn,
Mừng ấy còn không há có hờn.
Tánh vẫn vô sanh tâm tịch mặt,
Ngã còn chẳng có, có đâu nhơn.

Nhơn đâu thiệt có gọi rằng ân,
Ái tắng như là việc não hân.
Hai lẽ nguyên lai vô thật tướng,
Quả còn chẳng chấp, chấp chi nhân !
THANH SĨ
Đêm 13-1-1952 nhằm 17-12 Tân Mão
34- BÁC ÁI

34- BÁC ÁI

Nhìn đàn con khổ, xót lòng cha,
Như mẹ yêu con rất thiết tha.
Quyết độ đàn con ra bể khổ,
Tình yêu của mẹ rộng bao la.
THIỆN DUYÊN

Xem cả mọi người thể một cha,
Ân thì ghi nhớ oán thì tha.
Yêu đương chất chứa lòng vô tận,
Muốn kẻ cùng mình thoát võng la.

Vũng la bủa bọc khắp nhơn gian,
Cảm thấy bao nhiêu cảnh khổ nàn.
Ruột rối vò tơ lòng khấn nguyện,
Đời mau giải thoát buổi lầm than.
THANH SĨ
Đêm 15-1-1952 nhằm 19-12 Tân Mão
35- ĐỘ LƯỢNG

35- ĐỘ LƯỢNG

Lấy nhơn hàng phục mới là hay,
Dung thứ khoan hồng kẻ dưới tay.
Gây ở nơi người lòng cảm mến,
Căn cơ phúc đức được thêm dày.
THIỆN DUYÊN

Lòng thương kẻ dở, mến người hay,
Lỡ có sai lầm hãy nới tay.
Ta thứ cho người, người thứ lại,
Mối tình mỗi bữa được thêm dày.

Thêm dày thiện cảm cả hương lân,
Nhờ ở lòng ta có đức nhân.
Mỗi việc khi ta lời phán đoán,
Trẻ già sẽ có lắm người vâng !
THANH SĨ
Đêm 15-1-1952 nhằm 19-12 Tân Mão
36- THẢO HIẾU

36- THẢO HIẾU

Công đức sanh thành tợ bể non,
Mười ân sao vẹn đạo làm con,
Cù lao chín chữ lòng mang nặng,
Báo bổ chung thân dễ được tròn.
THIỆN DUYÊN

Song thân nghĩa ấy sánh bằng non,
Cát bụi lâm đền bổn phận con.
Dầu thác muôn lần vì chữ hiếu,
Đáp ân cúc dục cũng chưa tròn.

Chưa tròn đức cả của song đường,
Đã quá vì con khổ đủ phương.
Quên ngủ quên ăn quên mệt mỏi,
Bế bồng xích tử được an lương !
THANH SĨ
Đêm 16-1-1952 nhằm 20-12 Tân Mão
37- ÂN NGHĨA

37- ÂN NGHĨA

Giúp người nào có kể công chi,
Song kẻ thọ ân phải gắng ghi.
Dầu chẳng ai đòi nhưng phải trả,
Làm sao tránh khỏi tiếng vô nghì.
THIỆN DUYÊN

Người cũng như ta có khác chi,
Ra tay cứu độ đáng đời ghi.
Sau khi thọ huệ trong thiên hạ,
Phải tính sao xong kẻo lỗi nghì.

Lỗi nghì ắt bị kẻ cười khinh,
Cho đó là môn giống bạc tình.
Sống chỉ nhờ người, người khó cậy,
Nhục nầy biết rửa, thuở nào vinh !
THANH SĨ
Đêm 17-1-1952 nhằm 21-12 Tân Mão
38- PHỤNG SỰ

38- PHỤNG SỰ

Quy y Phật pháp quyết thành y,
Dầu phải gian lao vẫn hộ trì.
Tận tụy tuân hành theo giáo lý,
Một đời vì đạo chẳng thiên di.
THIỆN DUYÊN

Chọn kẻ hiền tài để kháo y,
Nhờ lây trí tuệ giúp phương trì.
Không đen hậu vận không trầm nịch,
Chuyên nhứt lòng ta khỏi dịch di.

Di dịch vì không gặp được người,
Đủ tài đủ sức đủ tinh đời.
Dạy ta thắm nhuận mùi chơn lý,
Hầu có bền gan dõi đến nơi !
THANH SĨ
Đêm 18-1-1952 nhằm 22-12 Tân Mão
39- BIỆN BIỆT

39- BIỆN BIỆT

Nên biết phân minh nẻo chánh tà,
Chánh thì phụng sự, vạy thì xa,
Nương theo thuyền giác dùng gươm trí,
Chém vỡ mê si, phá võng la.
THIỆN DUYÊN

Tầm nơi chánh đáng lánh nơi tà,
Vinh hãy nên gần, nhục hãy xa.
Cửa Phật ngày ngày cần nhớ tưởng,
Nhà ma bữa bữa chớ lân la.

Lân la dễ bị cảm mê lòng,
chẳng rõ đâu là chỗ đục trong.
Càng lắm mù mờ càng lắm tội,
Bao giờ thoát khỏi cái cùm gông !
THANH SĨ
Đêm 19-1-1952 nhằm 23-12 Tân Mão
40- BỐ THÍ NHIẾP

40- BỐ THÍ NHIẾP

Thấy người đói khát giúp cho no,
Nếu chấp rằng cho, chẳng thiệt cho.
Bằng thí pháp mầu vô uý thí,
Cái cho như thế, có chi so.
THIỆN DUYÊN

Trên đời lắm kẻ bữa không no,
Mở rộng lòng thương hãy giúp cho.
Khiến được an lành không đói khó,
Tiện phương hóa độ đức nào so.

Nào so sánh kịp tấm lòng không,
Kẻ thọ người ban thấy vẫn đồng.
Tâm cảnh khi duyên là cả thế,
Tới lui sự ấy được lưu thông !
THANH SĨ
Đêm 20-1-1952 nhằm 24-12 Tân Mão
41- ÁI NGỮ NHIẾP

41- ÁI NGỮ NHIẾP

Lựa tiếng dịu dàng rất mến yêu,
Nói ra ai cũng dễ lòng xiêu.
Thích tình cảm khích lời chơn chánh,
Thức tỉnh nhờ nghe giọng mỹ miều.
THIỆN DUYÊN

Tiền của như làm kẻ khó yêu,
Nên đem lẽ diệu cảm người xiêu.
Ăn năn cải hối theo đường đạo,
Đức hạnh trau tria được mỹ miều.

Mỹ miều dáng vẻ được nhu hòa,
Hợp lẽ từ bi Phật Thích Ca.
Tự giác thân tâm trong sáng cả,
Thiên hình đối kháng chẳng mê xa !
THANH SĨ
Đêm 21-1-1952 nhằm 25-12 Tân Mão
42- DIỆU LÝ TÂM NGUYÊN

42- DIỆU LÝ TÂM NGUYÊN

(Luận về Tam Thân Tứ Trí)
Thanh Sĩ

Khai chí lý Đạo mầu phân tỏ,
Đem huyền thâm mở ngõ đưa đường,
Thức tánh quang Phật pháp phô trương.
Kiến ngộ đạt tâm lương mầu diệu.
Tùy duyên hạnh ứng huyền thiện chiếu,
Soi gương lành liễu ngộ Phật đàng,
Phải truy tầm tỏ thấu cơ quan,
Rồi chẳng ngại bước đàng hành đạo.
Lòng từ bi xiết chi áo não,
Là bởi thương hung bạo cường quyền,
Đạo cùng đời lăn lộn ngửa nghiêng,
Nào ai thấu máy huyền bí ẩn.
Gút mây mù còn đang chuyển vận,
Cảnh đồ lao chớ bẩn lòng phàm,
Nay diệu mầu đưa đến Kiều Lam,
Mong trên dưới bền lòng cố gắng.
Dù mưa gió bão giông cũng chẳng,
Núng nao lòng mới đặng công thành,
Nhắn cùng người đạo đức cao thanh,
Đặng tận ngộ ngọn ngành thấu rõ.
Phải ghi nhớ khuyên lòng đừng bỏ,
Lời cao siêu Phật pháp cơ truyền,
Tứ Trí minh ứng độ tùy duyên,
Phải kinh nghiệm tinh chuyên rèn đúc.
Do ta tạo gây nền hạnh phúc,
Câu bại thành trong đục nơi mình,
Chí thiệt hành đạo pháp tinh minh,
Nẻo huyền bí ta in vào dạ.
Cần thẩm xét tận tường chơn giả,
Để phân minh cho hả lòng thiền,
Cái TRÍ THÀNH SỞ TÁC đầu tiên,
Ta phải giữ mối giềng kiên cố.
Đóng năm cửa vách thành đồ sộ,
Đuổi sáu ma bảy quỷ ra ngoài,
Dụng tinh thần mạnh mẽ ra oai,
Dẹp ba chướng đồ lao thảm thiết.
Ta phải có cái tâm cương quyết,
Thì làm nên mọi việc trên đời,
Khó khổ nào cũng luật Phật trời,
Bày ra đó cho đời liệu lấy.
Tùy nhân quả chuyển luân phải quấy,
Hạp nơi nào sở cậy mà dùng,
TRÍ DIỆU QUAN SÁT kỹ tâm trung,
Khá phân định nơi lòng cho tận.
Xem mọi cách tỏ tường bổn phận,
Hiện bây giờ trí vẩn nơi nào,
Chỗ tịnh mầu hay chốn động xao,
Rồi mạnh mẽ lòng mau phủi sạch.
Nằm đi đứng nơi nào đủ cách,
Để cho ta tìm vạch thói hèn,
Phải canh chừng tà niệm lẫn xen.
Làm quấy rối mất đèn trí huệ.
Cần gìn giữ hằng giờ bảo vệ,
Cho linh hồn vượt bể mê đồ,
Trí diệu màu mới đặng qui mô,
Ta được thấu bồ đề nẩy lá.
Cần nên nhớ rách rồi phải vá,
Đừng để cho *tua xả không dùng,
Căn dặn lòng đại lực đại hùng,
Để trừ tuyệt thói tà dấy động,
Tâm với ý phải nên phiền đóng,
Tập cho rành hình bóng của mình,
Vượn leo chuyền quấy rối đức tin,
Làm ta phải bể tình sóng dậy.
Ngựa thì nó ưa điều đua chạy,
Thêm mến ăn cỏ béo lá bùi,
Chốn thấp hèn cứ mãi nhủi chui,
Nơi thành thị tới lui la lết.
Ỷ sức mạnh nào suy mỏi mệt,
Đâu có hay kiếp chết là gì,
Nay mà ta đã biết tu trì,
Nên tỉnh trí tâm ly thân xác.
Tâm trí quyết tìm phương giải thoát,
Màng kể chi mặn lạt thói đời,
Rán làm xong mới đặng yên nơi,
Sau rồi sẽ thảnh thơi muôn thuở.
TRÍ BÌNH ĐẲNG TÁNH này cơ sở,
Là cái nền tảng để tu hành,
Trong lòng hằng được chữ tịnh thanh,
Thời xem thấy nguyệt tinh chiếu rọi.
Tìm chân lý kịp chân theo dõi,
Thì mai sau vượt khỏi bể trần,
Phải hằng giờ chánh định tâm nhân,
Để yên lặng tâm thần bất động.
Dù lắm kẻ vô lương đánh trống,
Cũng không hề xao động tâm mình,
Được như lời mới gọi “Trí Bình”,
Hằng đứng vững không tình siêu ngã.
Lời nhắn nhủ người ngoan để dạ,
Hành chánh rồi khỏi đọa linh hồn,
Người tu hành đừng có bôn chôn,
Hãy bền chí dò đường đi tới.
Mình chậm rãi mà tròn đạo ngỡi,
Còn hơn người tu xới tu bừa,
Giữa chánh tâm bước nấc Hạ thừa,
Từ chỗ ấy mà đưa Trung Thượng.
Đời còn lắm khổ đời nghiệp chướng,
Mà nhiều người tu bướng tu càn,
Nếu biết rồi thì phải sửa sang,
Lo tập luyện bảo toàn tánh đạo.
Còn chi nữa mà lòng lừa đảo,
Không trau giồi tánh hảo lòng hiền,
Cố sức mình mới gặp Phật Tiên,
Thêm vinh hạnh dựa miền Cực Lạc.
ĐẠI VIÊN CẢNH TRÍ này minh đạt,
Phải làm sao khắc tạc nơi lòng,
Ta phải dùng để nó bên trong,
Hằng soi thấu tấm lòng thay đổi.
Nhờ “Gương Ấy” hằng giờ cứu rỗi,
Những nơi lòng đen tối chưa tròn,
Cố gắng thêm hạnh đức sắc son,
Càng lộ vẻ nơi lòng trong trắng.
Thường hằng ngày rửa cho tròn sáng,
Mới mừng ta chẳng vướng bụi hồng,
Ở trên đời mọi việc mọi phòng,
Kẻo phải vướng vào vòng hắc ám.
Đời còn mãi lợi quyền xúc cảm,
Có bao người tự lãm lòng nhà,
Nếu như nay trồng kiểng không hoa,
Thì dân chúng bỏ qua cũng phải.
Giống linh căn thuận mùa tiết trải,
Đành lòng nào phụ rãy không dùng,
E cho đời lở dở kiết hung,
Bối rối cúc cung cầu khẩn.
Nào ai có tiếc người thất vận,
Để đáo đầu bái khẩn đã rồi,
Chứa chan thay mắt ngọc châu trời,
Ai chẳng thấu Phật Trời Tiên Thánh.
Nên nhớ lại soi gương minh cảnh,
Rồi sửa sang dẹp dọn lòng tà,
Có thú gì tạm giả đời ta,
Mà lặn hụp ái hà la múa.
Rất buồn thảm đời còn tranh của,
Cùng tham công máu tủa sương mù,
Phải liệu toan hai chữ chơn tu,
Sau mới khỏi mưa dầu nắng lửa.
Nhờ từ thiện Phật Tiên cứu chữa,
Cho thân ta được thuở sống thừa,
Chiếc thuyền lành Chư Phật rước đưa,
Người trọn đạo sang qua bỉ ngạn.
Xin bày kể “Ba Thân” rõ hãn,
Người thiện tâm hãy rán nhớ cùng,
Cái PHÁP THÂN đạt lý ngộ thông,
Là những nẻo mà lòng ta sửa.
Dẹp tà mị chánh tâm nương dựa,
Thì tự nhiên đạt pháp chớ gì,
Ngoài giả trần cõi tạm sá chi,
Trong chơn tánh vàng y chẳng đổi.
Từ chỗ hành mà ta cứu rỗi,
Nơi tâm hành giềng mối tình minh,
Vạn sự đời khó dễ trược thanh,
Đều bởi gốc ở tình sửa đổi.
Được trọn cả PHÁP THÂN nhuần gội,
Thì thông minh tri kiến rõ ràng,
Cái lý này tâm đặng rảnh rang,
Được đi đến nấc thang diệu quả.
Rảnh là rảnh tình đời không ngã,
Trí thông dong tâm khả vị tình,
Cư trần đồ chẳng mến phù sinh,
Ở cảnh tục minh kinh toại dạ.
Rồi ta phải tùy duyên ứng hóa,
Đem thân lưu phổ tá phàm tình,
HÓA THÂN này diệu pháp tinh minh,
Ngoài lìa vật trong tình vô nhiễm.
Được tỏ ngộ đạo mầu chơn tiện,
Nạp thời lưu tìm kiếm duyên lành,
Thuyết tùy hình nay phải cửi canh,
Lo cho được bất sanh bất diệt.
Tưởng chơn chánh ấy là mới thiệt,
Lòng vạy là tiêu diệt không còn,
Tưởng phải lành hưởng cảnh lầu son,
Bằng vọng quấy chung lòn địa ngục.
Tuy tâm khởi biến hình trong đục,
Do ở lòng hóa cảnh đủ điều,
Hiện tại ta ta phải lượng theo,
Tìm chân lý chỗ nào thức tánh.
Tuy là nơi vô hình hữu ảnh,
Thường hiện ra thấy tánh rõ ràng,
*Xảy ngộ rồi kết lý từ trang,
Không sanh nhiễm nào tan nào diệt.
Bằng thấu tỏ vô vi thanh khiết,
Phải cần âu tìm triết lý mầu,
Tùy duyên lành hóa độ từ câu,
Trong nhiều nét gồm thâu tâm pháp.
BÁO THÂN rất nhiệm mầu khai lập,
Kho báu nhà sẵn sắp đủ đầy,
Phải tìm chìa mở khóa mới hay,
Rồi đủ món dùng xài chẳng xiết.
Được viên mãn BÁO THÂN mới thiệt,
Chắc lòng ta có Phật rõ ràng,
Đủ diệu mầu huyền bí khai tàng,
Do kho báu mà an chánh mạng.
Một phen này lòng ta hãy rán,
Đến ngày sau mới đặng thanh nhàn,
Ba thân này giác tánh huệ quang,
Thì sẽ được minh tâm kiến tánh.
Gây nghiệp lành hưởng an Phật cảnh,
Tạo hung đồ đói lạnh ngục hình,
Trong rất nhiều kinh pháp siêu sanh,
Người đọa lạc trầm luân mãi mãi.
Nên phải đành tam nguơn lập lại,
Đời hai mươi thế kỷ tiêu điều,
Trong hội này công quả ít nhiều,
Tùy duyên nghiệp luật triều thưởng phạt.
Đáp những công hiền ngu khao khát,
Nhờ mưa lành tưới mát bá tòng,
Cái trường thi đạo đức rất thông,
Mà cũng ở vào trong căn hạnh.
Thi đức trí thi trong bản tánh,
Chỗ bại thành do bởi lòng người,
Điều chánh tà sửa tập hai mươi,
Luận chơn lý người người hiểu lấy.
Lời kinh pháp tỏ bày nơi đấy,
Khá rõ thông phải quấy thiệt hành,
Luận bàn nhiều e lẫn trược thanh,
Nào xa chỗ đức lành tập luyện.
Mong lòng đạo tâm suy rồi nghiệm,
Những tông truyền quyền biến chớ chầy,
Nói bao lời thuyết nghĩa không hay,
Mong lòng thiện thêm đầy mới lạ.
Thôi ngưng bút dứt lời thanh nhã,
Chúc đạo hiền đức cả đừng sờn,
Rồi sau này cũng được hưởng ân,
Của Phật Thánh Tiên Thần ban bố.
Xã Phú Lâm, 10-4-1948 nhằm ngày 2-3 năm Mậu Tý.
43- HỎI ÔNG TAM HÒA

43- HỎI ÔNG TAM HÒA

Muốn đi tìm Phật ở gần xa,
Ngày trụ phương nao hay tại nhà,
Đến đó đường đi đà mấy dặm,
Non đài điện động chỗ nào đa.
Bốn mùa học hỏi sao không gặp,
Tám tiết tầm kinh chẳng thấy ra.
Nam Bắc mắt nhìn đâu Phật đó,
Đông Tây ai rõ chỉ giùm ta.

Hàng phục vọng tâm dụng pháp gì?
Diêt trừ ngã tướng phải dùng chi?
Lục ma loạn động thường làm giặc,
Sáu quỷ lộng hành chúng thị phi.
Ba nghiệp nặng nề sanh tội ác,
Tám đường khổ não dẫn mình đi.
Mười hai duyên nắm trì lôi kéo,
Thuyết phục làm sao gỡ đặng chì.

Bằng hữu thương nhau vẫn sở hành,
Tước quyền danh lợi vọng tâm sanh,
Vợ con đeo đắm thường ràng buộc,
Nhà cửa xinh tươi bỏ chẳng đành.
Ăn ở trải mùi ngon ngọt béo,
Vui chơi sung sướng thỏa lòng sanh.
Đổ tường bốn vách đều huân tập,
Hành xử sao xong sở nguyện thành.

Tu tập làm sao thấy tánh mình,
Đạo đời lộn xộn biết đâu tin,
Bồ đề quả Phật ai tầm đặng,
Ông chủ nhơn ông vốn tướng hình.
Tinh thể bổn nguyên người vật há,
Bản lai ẩn hiện chỗ nào sanh,
Tâm nào ma quỷ tâm nào Phật,
Tánh có nhiều chăng kiếm tánh mình.
Thanh Sĩ
44- GỞI BỐN PHƯƠNG

44- GỞI BỐN PHƯƠNG

Mượn mực đề thơ gởi bốn phương,
Gọi người căn thiện sớm hoàn lương,
Hạ nguơn khổ thảm nhiều ô uế,
Thượng cổ vui mừng lắm vị hương.
Thanh cảnh gần đây màn kiết hiện,
Trược trần sắp đến lớp tang thương.
Bá gia khuyên hãy mau chờ dậy,
Rứt bỏ sông mê tới Phật đường.

Phật đường ái hộ khách quần sanh,
Khiến kẻ lui chơn ẩn cửa lành,
Ngày bữa non nhơn vui sắc tịnh,
Đêm hôm nước ký thích màu thanh,
Lòng không bận đến câu huyền quí,
Dạ chẳng vương vào chữ lợi danh.
Diệu dụng tùy nghi đi hóa chúng,
Lánh thân khỏi nạn lửa trong thành.

Trong thành họa dữ đã kề bên,
Hỡi bớ nhân dân chớ lãng quên,
Nhanh trí cứu nhau không đợi biết,
Mau tay giúp lẫn chớ mong đền.
Khổ này ách nọ liền như dệt,
Thảm tới sầu lui lẹ tựa tên.
Ác trả ác vay gây đại ác,
Chỉ tồn lợi ích đám kên kên.

Kên kên có dịp gặp mồi ngon,
Có phải lương tâm đã chẳng còn,
Dĩa mực vô liêm mờ tánh thiện,
Mùi ten bất chánh ố lòng son.
Lợi riêng thế giới càng thêm lớn,
Nghĩa cả nhơn xanh cứ mãi mòn.
Thấy thế làm sao không giặt giả,
Máu đào tợ biển xác như non.

Như non xác chết thấy kinh hồn,
Bớ chúng mau cầu Phật Thế Tôn,
Đem phép Ma ha trừ khổ họa,
Soi đèn trí huệ phá hoàng hôn,
Nạn dân ba cõi lần lần dứt,
Ách nước năm châu bớt bớt dồn.
Nay chớ khoe cường giàu dũng lực,
Địa cầu thay vỏ hết làm khôn.

Làm khôn làm khéo đảo luân thường,
Gieo rắc âu sầu khắp bốn phương,
Xô đẩy vào nơi đau lẫn đói,
Đua chen đến chốn khóc tha phương.
Bao người hết chán tuồng mơ mộng,
Mấy kẻ hay lìa cạnh khói sương.
Tưởng mãi vinh thân bằng kế giảo,
Quên đi hậu hữu khổ không lường.

Không lường tội lỗi kẻ đời nay,
Đủ cách sanh phương để xí xài,
Bè bạn giết nhau vì bởi lợi,
Anh em hại lẫn cũng do tài,
Trọng tiền chồng vợ đành ly dị,
Khinh nghĩa cha con nỡ nghiệt cay,
Ngoài thế biết bao trường ác chiến,
Chẳng qua ích kỷ mới phô bày.

Phô bày lắm việc quá tồi phong,
Lãng mất gương xưa của giống dòng,
Chuốc thói lăn loàn quên tục cổ,
Theo đời phóng đảng phụ cha ông,
Nghe nhiều kẻ, dối bằng môi mím,
Thấy ít ai, đem được tấm lòng.
Giả nó giả kia thành lệ giả,
Rán mà cải thiện cứu non sông.

Non sông chất ngất nỗi đao binh,
Cảnh ấy dù ai cũng động tình,
Hiệp sức tiêu trừ quân hổ báo,
Đồng tâm phá diệt lũ yêu tinh.
Dạ tham đối lại lòng khoan bố,
Mưu dữ thay cho kế tốt lành.
Nếu được như lời dân cả nước,
Tương tàn họa ấy có đâu sanh.

Đâu sanh nghiệp ác ác đâu sanh,
Chỉ mảnh treo chuông ắt khó lành,
Sắp đến Long Hoa Hoa thạnh mậu,
Gần ngày tận thế thế điêu linh.
Khuyên trong bá tánh trau tâm chí,
Nhủ khắp chư gia sửa tánh tình.
Nương cửa từ bi rời quỉ quyệt,
Sẽ tường hiệu lực của tam thinh.

Lực của tam thinh rất dị thường,
Đổi người đổi vật đổi thôn hương,
Cũ hư tránh để tuồng sinh mới,
Hung ác nhường cho lớp thiện lương,
Thượng đức hạ ân trời Thuấn Đế,
Nội thuần ngoại mỹ đất Văn Vương.
Thương đời Thanh Sĩ đem lời mọn,
Mượn mực đề thơ gởi bốn phương.
Thanh Sĩ

III- PHẦN LIỄN ĐỐI
Những câu liễn của ông Thanh Sĩ

TÂY AN CỔ TỰ

TÂY AN CỔ TỰ

Ở xã Long Kiến, quận Chợ Mới, tỉnh An Giang

BÊN ĐÔNG LANG

1-
 
Giác tự giác tha yếu chỉ khách từ bi Phật Đạo,


Đạt nhơn đạt kỷ tiêu đề môn trung thứ Nho tông.

Có nghĩa:
Giác mình giác người đó là yếu chỉ từ bi của kẻ tu hành theo Đạo Phật,
Thành đạt cho người, thành đạt cho mình, đó là là tiêu đề trung thứ của tông Nho.


2-
 
Bất kỵ sát đạo dâm vọng tửu hà vi Phật tử,


Vô tu nhân nghĩa lễ trí tín an đắc Nho gia.

Có nghĩa :
Không kiêng sát sanh, đạo tặc. tà dâm, vọng ngữ, ẩm tửu (Ngũ giới) sao rằng Phật tử,
Chẳng tu nhân, nghĩa, lễ, trí, tín (ngũ thường) sao gọi Nho gia.

3-
Thiên đường hữu lộ quang minh thả tự tại, nhơn liêu đáo,
Địa ngục vô môn hắc ám do trầm luân, khách cạnh tầm.

Có nghĩa :
Thiên đường có lộ quang minh lại tự tại, người vắng đến,
Địa ngục không cửa hắc ám còn trầm luân, khách tranh tầm.


4-

Nhĩ mục phi tà gian, thị thính thiên ban vô chướng ngại,

Khẩu thân bất vọng trá, hô hành vạn sự hữu hanh thông.

Có nghĩa:
Tai mắt không tà gian, ngàn điều thấy nghe không chướng ngại,
Miệng thân chẳng vọng trá, muôn việc nói làm được hanh thông.


5-
Phong bình lãng tịnh kỳ, nhựt nguyệt tin tương phản chiếu,


Vụ tán vân tiêu, tức sơn hà địa các hồi quang.

Có nghĩa:
Gió yên sóng lặng thì mặt trời, mặt trăng, các vì sao đều phản chiếu,
Mù tan mây rã thì núi, sông , đất đều hồi Quang.

6-
 
Giới thị thứ sư nhựt nhựt do lai đa khoái Lạc,


Nhẫn chi hiền hữu niên niên dĩ xuất thiểu oan sầu.

Có nghĩa:
Giới luật là ông thầy thứ hai, ngày ngày theo đó mà hành thì được nhiều khoái Lạc,
Nhẫn nhục là bạn hiền, năm năm lấy đó xuất sử thì ít oan sầu.


7-
 
Kiến sắc vô lưu tình ái ố, hà vô nhãn tuệ,


Văn thinh bất trước ý thị phi, khởi bất nhĩ thông.

Có nghĩa:
Thấy sắc mà không để tình thương ghét, sao không nhãn tuệ,
Nghe tiếng mà chẳng nhiễm ý phải quấy, há chẳng được nhĩ thông.


8-
 
Vi nhơn toàn nhơn ý niệm, hữu cửu tư tam úy,


Xử thế xứng thế tinh thần, tăng thật nghĩa tứ ân.

Có nghĩa:
Làm người cho đúng ý niệm con người toàn nhân phải có chín điều lo (1) và ba điều sợ (2),
Xử thế cho xứng với tinh thần xử thế toàn mỹ phải thêm mười đức tốt (3) và bốn trọng ân (4).


Chú thích:
(1) Cửu tư: Theo sách Luận Ngữ người quân tử có chín điều lo nghĩ:
1- Xem phải rõ, 2- Nghe phải thông, 3- Sắc mặt phải ôn hòa, 4- Dung mạo phải cung, 5- Lời nói phải trung, 6- Việc làm phải kính, 7- Nghi phải hỏi, 8- Phẩn phải nạn, 9-Thấy được phải nghĩ đến nghĩa.
(2) Tam úy: Theo sách Luận Ngữ người quân tử có ba điều sợ: Sợ mạng trời, sợ đại nhân, sợ lời nói của Thánh nhân.
(3) Thập nghĩa: Mười đức tốt theo sách Lỗ Ký:
1- Phụ từ, 2- Tử hiếu, 3- Huynh lương, 4- Đệ đễ, 5- Phu nghĩa, 6- Phụ thính, 7- Trưởng huệ, 8- Ấu thuận, 9- Quân nhân, 10- Thần trung.
(4) Tứ Ân: Bốn trọng ân mà làm người phải đền đáp:
1- Ân tổ tiên cha mẹ, 2- Ân đất nước, 3- Ân Tam Bảo, 4- Ân đồng bào và nhân loại.

9-

Bổn ý tu nhân sở dĩ tín thâm cơ báo ứng,


Chủ tâm chủng phước nhân do tri quảng tự thiên nhiên

Có nghĩa: 
Bổn ý tu nhân nghĩa, là vì tin sâu cơ báo ứng,
Chủ tâm trồng phước đức, ấy bởi hiểu rộng lẽ thiên nhiên


10-

Công nghĩa quảng thi, nhứt thế đắc tông vinh tổ hiển,


Đức ân thâm chủng thiên thu lưu quốc niệm dân hoài.

Có nghĩa:
Công nghĩa rộng thi, một đời được tông vinh tổ hiển,
Đức ân sâu rắc, ngàn năm để nước nhớ dân thương.


BÊN TÂY LANG

11-

Cầu Phật cầu tâm cụ túc tự tha vi chánh đạo,


Trác thân trác hạnh kiêm tu nội ngoại thị chân tông.

Có nghĩa:
Cầu Phật cầu ở tâm, đầy đủ tự lực tha lực là chánh đạo,
Trau thân trau hạnh, gồm tu cả trong ngoài đó mới chơn tông.


12-

Phao khí tham lam nhứt kiếp xả thân đăng giác ngạn,


Tẩy trừ sân nộ thiên thu cầu đạo vượt mê tân.

Có nghĩa:
Ném bỏ tham lam, một kiếp xả thân lên bờ giác,
Tẩy trừ sân nộ, ngàn thu cầu đạo vượt bến mê.


13-
 
Ngọc phủ thảng diêu không tam độc hồi đầu tiện kiến


Bửu đường tuy viễn tiệt lục trần bán bộ nhi lâm.

Có nghĩa:
Phủ ngọc chẳng gần, trừ tam độc (1) quày đầu là thấy,
Nhà báu dù xa, dứt lục trần (2) nửa bước đến liền.


14- 

Bố ái lợi đồng phổ độ tứ phương uyên đạo niệm,


Khiêm cung thận đức thâm truyền bá tánh tuấn chân tu.

Có nghĩa:
Dùng bố thí ái ngữ, lợi hành, đồng sự (3) mà phổ độ bốn phương thì đạo niệm càng rộng,
Lấy khiêm nhượng, cung kính, thận trọng, đức hạnh (4) mà rộng truyền trong bá tánh thì hạnh chơn tu mới cao.


Chú thích:
(1) Tam độc: Tham, sân, si.
(2) Lục trần” Sắc, thinh, hương, vị xúc, pháp.
(3) Tứ nhiếp pháp là một pháp mà Phật và Bồ tát dùng nhiếp hóa chúng sanh.
(4) Bốn đức tính của người quân tử.

15-
Tam tâm tứ tướng minh, đương tại siêu phàm nhập thánh,

Ngũ uẩn lục hòa liễu, mạng chung khử trược hồi thanh.

Có nghĩa:
Nếu rõ thông ba tâm (1), bốn tướng (2) thì hiện đời được siêu phàm nhập thánh.
Bằng giỏ ngộ năm uẩn (3) sáu hòa (4) thì mạng chung sẽ bỏ trược về thanh.


16-

Từ bi hỷ xả tồn tâm, Phật dữ nhơn bất dị,


Tham ái sân si cảm tánh, Tiên tương tục phi đồng.

Có nghĩa:
Tồn (tại) được cái tâm từ bi hỷ xả (5) thì Phật với người không khác,
Còn giữ cái tính cảm nhiễm: tham ái, sân nộ, mê si (6) thì Tiên cùng tục chẳng đồng.


Chú thích:
(1) Tam tâm: Chí thành tâm, Thâm trọng tâm, Hồi hướng phát nguyện tâm. Người có đủ ba tâm ấy ắt được vãng sanh Tịnh Độ.
(2) Tứ tướng: Ngã tướng, Nhơn tướng, Chúng sanh tướng, Thọ giả tướng là bốn tướng giả mà kẻ chấp cho là thiệt.
(3) Ngũ uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
(4) Lục hòa: Giới Hòa, Kiến hòa, Lợi hòa, Thân hòa, khẩu hòa, ý hòa; sáu điều “Hòa Kính” mà các nhà sư phải giữ.
(5) Từ, Bi, Hỷ, Xả là Tứ Vô Lượng tâm của Phật.
(6) Tham ái, Sân nộ, Mê si là ba thứ độc mà người tu hành phải trừ diệt.

17-

Vô minh nhi minh khoảnh khắc Như Lai tùng xứ hiện,


Hữu ngã bất ngã tu vu Bồ tát ứng cơ truyền.

Có nghĩa:
Do vô minh mà minh (sáng) thì trong khoảnh khắc Như Lai từ chỗ đó hiện ra,
Đã hữu ngã mà không chấp ngã (ta) thì lệ làng Bồ tát ứng cơ truyền pháp.


18-

Nguyện xuất tam đồ, tiên miễn diệt thất tình lục dục,


Cầu ly tứ khổ, tảo chuyên trừ thập ác bát tà.

Có nghĩa:
Nguyện ra khỏi tam đồ (1) thì trước gắng diệt trừ bảy tình (2) sáu dục (3),
Cầu lìa bốn khổ (4) sớm chuyên trừ mười ác (5) tám tà (6).


Chú thích:
(1) Tam đồ: Ba con đường ác: Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh.
(2) Thất tình: Bảy thứ tình cảm: Mừng, giận, thương, sợ, yêu ghét, muốn.
(3) Lục dục: Sáu điều ham muốn của con người, Theo phật là: 1- Sắc dục, 2- Hình mạo dục, 3- Oai nghi tư thái dục, 4- Ngữ ngôn âm thinh dục, 5- Nhơn tướng dục, 6- Tế huợt dục. Còn theo Khổng là: Danh vị, Tài lợi, Sắc dục, Tư vị, Hư vọng, Tật đố.

19-
Hoàn diệt mê si vĩnh kiếp nhơn nhơn giai Thánh Phật,


Liễu trừ ái dục trường sanh cá cá thị Thần Tiên.

Có nghĩa:
Mê si mà hoàn toàn diệt thì muôn đời người người đều Thánh Phật,
Ái dục mà trừ xong thì trường sanh mỗi mỗi là Thần Tiên.


20-

Thoát ly bát khổ, khái yếu tùng lương chi khởi thỉ,


Siêu xuất lục phàm nguyên nhân trụ chánh giá đầu tiên.

Có nghĩa:
Muốn thoát ly tám khổ (7) yếu lược là bắt đầu từ điều lành,
Toan ra khỏi sáu phàm (8) nguyên lý là trước tiên do chỗ chánh.


Chú thích:
(4) Tứ khổ: Bốn điều khổ: Sinh, lão, bệnh, tử.
(5) Thập ác là mười điều ác: Ba ác của thân: Sát sanh, Đạo tặc, Tà dâm. Bốn ác của miệng: Lưỡng thiệt, Ỷ ngôn, Ác khẩu, Vọng ngữ. Ba ác của ý: Tham, Sân, Si.
(6) Bát tà: Tám ngọn gió tà: Lợi, Suy (mất mát), Hủy (chê sau lưng), Dự (khen sau lưng), Xưng (khen trước mặt, Cơ (chê trước mặt), Khổ, Lạc (vui).
(7) Tám khổ: Sanh, già, bệnh, chết, yêu xa nhau, ghét gặp nhau, mưu cầu chẳng được, năm ấm thạnh.
(8) Sáu phàm: Sáu cõi thuộc phàm: Địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, a tu la, người và trời.

CỬA ĐÔNG TAM QUAN

21-
PHẬT môn dục nhập tiên khai tâm môn tức Phật HÒA,



GIÁO pháp cầu tu yếu ngộ tánh pháp kỳ giáo HẢO

Có nghĩa:
Cửa Phật muốn vào, trước hết phải khai cửa tâm tức là với Phật cùng Hòa,
Pháp giáo cầu tu, trọng yếu phải ngộ pháp tánh, đó là điều giáo tối Hảo.


CỬA TÂY TAM QUAN

22-

Tây Phương chi lộ tại ư nhơn phương chi kim cổ,


An Dưỡng chi quốc do lai đạo dưỡng chi gia tự.

Có nghĩa:
Đường Tây Phương ở tại con người từ kim cổ,
Nước An Dưỡng do nơi đạo tu dưỡng tại gia và xuất gia (ở chùa).


PHÍA TÂY (MẶT TRƯỚC)

23-

Cổ dĩ tâm thanh ly khổ hải,


Kim bằng tánh tịnh xuất mê đồ.

Có nghĩa:
Xưa bởi tâm thanh lìa biển khổ.
Nay nhờ tánh tịnh khỏi đường mê.


CHÍNH GIỮA (MẶT TRƯỚC)

24-

Thiền tông yếu tại vô sanh pháp,


Tịnh độ sở cầu Cực Lạc phương.

Có nghĩa:
Yếu chỉ của Thiền tông là pháp vô sanh
Chỗ cầu của Tịnh Độ là phương Cực Lạc.


PHÍA ĐÔNG (MẶT TRƯỚC)

25-

Đại từ nhược hữu hà phi Phật,


Quảng ái vật vô thị thắng nhơn.

Có nghĩa:
Đại từ nếu có sao không thành Phật,
Quảng ái đừng không mới hơn người.


TÂY MÔN

26-
TÂY phương PHẬT ngự phóng quang phá diệt nhân sanh chư hắc ám,

AN quốc - truyền chấp trượng tiêu trừ thế giới xử mê ly.

Có nghĩa:
Phật ngự Tây phương phóng từ quang phá tan đời hắc ám.
Thầy truyền An quốc cầm tích trượng đập nát cõi mê ly.


ĐÔNG MÔN

27-
 Công đạo dĩ trì xu nhất xứ lê dân thượng Hòa hạ Hảo,

Phủ châu tiện giải tỏa tam thừa đồ chúng quả đắc công thành.

Có nghĩa:
Công đạo giữ lề, một cõi nhân dân trên Hòa dưới Hảo
Phú châu mở khóa ba thừa đồ chúng quả đắc công thành.


CHÁNH ĐIỆN

28-
Tam Bửu nhứt tòa tự cổ cập kim đắc truyền kỳ cao minh bất diệt,

Thập Phương tứ quả độ dân tiếp chúng chí nguyện thị thâm viễn vô biên.

Có nghĩa:
Một tòa tam bảo từ xưa đến nay được truyền cao minh chẳng dứt,
Bốn quả (1) mười phương độ dân cứu chúng chí nguyện xa thẳm không bờ.

Chú thích:
(1) Bốn quả là bốn quả Thánh: Tu đà hoàn (Nhập lưu), Tư đà hàm (nhứt hoàn), A na hàm (Bất hoàn), A la hán (Vô sanh).

PHẬT HỌC ĐƯỜNG

29-
Phật pháp nan văn khuyến miễn nhơn nhơn tu khát ngưỡng,


Nhơn thân hãn đắc đề tê cá cá khả quan phòng.

Có nghĩa:
Phật pháp khó được nghe, cố gắng người người tu ngưỡng mộ,
Thân người ít khi được, dặn dò mỗi mỗi khác đề phòng.


BÀN PHẬT THẦY

30-
Kim đài sở tại triêu mộ tứ phương năng khứ lai nhi lễ bái,

Ngọc phủ mục tiền nhựt nguyệt bá tánh thường xuất nhập dĩ sùng tôn.

Có nghĩa:
Tại đây đài vàng thiên hạ sớm chiều tới lui lễ bái,
Trước mắt phủ ngọc bá gia ngày tháng xuất nhập tôn thờ.


BÀN CỦU HUYỀN

31-

Tư căn nguyên xuất thủy mộc, thử ân thâm cam báo bổ,


Nhân tổ phụ sanh tử tôn, kỳ nghĩa trọng nguyện đáp bồi.

Có nghĩa:
Nhờ nguồn gốc ra nước cây, ơn sâu toan báo bổ,
Do ông cha sanh con cháu, nghĩa nặng nguyện đáp đền.

ĐỀN THỜ QUAN THƯỢNG ĐẲNG ĐẠI THẦN NGUYỄN TRUNG TRỰC

ĐỀN THỜ QUAN THƯỢNG ĐẲNG ĐẠI THẦN NGUYỄN TRUNG TRỰC

Tại xã Long Kiến. quận Chợ Mới, tỉnh An Giang


BÊN ĐÔNG
32-
 
Dĩ vãng ưu dân tiền hậu giang thi quốc sự,


Đương lai hộ tộc Nam Bắc địa khởi hùng binh.

Có nghĩa:
Dĩ vãng đã lo dân sông Hậu sông Tiền thi hành việc nước,
Nay mai sẽ gìn tộc đất Nam đất Bắc khởi cử binh hùng.



BÀN GIỮA

33-
Dụng hỏa thiêu địch thuyền Nhựt Tảo mưu thượng đẳng,



Cử đao hạ tặc lũy Kiên Giang khí đại thần.

Có nghĩa:
Dùng lửa đốt tàu thù ở Nhật Tảo ấy mưu thượng đẳng
Huơi đao hạ thành giặc tại Kiên Giang rõ khí đại thần.



BÊN TÂY


34-
Báo thân ân ninh thế tử hiếu tâm thiên lệ,



Tranh quốc vận trí vong khu trung trực thần sầu.

Có nghĩa:
Thà chết thế trả mẫu ân, lòng hiếu nhi đến trời rơi lệ
Đành bỏ thân tranh vận nước, chí Trung Trực khiến Thần phải sầu.



THỜ THƯỢNG ĐẲNG ĐẠI THẦN


35-


Nhựt Tảo chiêu binh nhiên hỏa mưu thần tiêu chiến hạm,


Kiên Giang hiển Thánh tái kỳ chuyển bút luyến Đồng Tân.

Có nghĩa:
Nơi Nhựt Tảo chiêu binh mưu thần thiêu chiến hạm,
Tại Kiên Giang hiển Thánh tái lai giáng bút mến Đồng Tân (1)



THỜ PHẬT THẦY

36-
Hán đại bí truyền thoại ứng tam thừa văn đế mộng,



Nam triều chân lý di truyền bát giới Phật Sư ban.

Có nghĩa:
Đời Hán có thuyết truyền rằng vua Minh Đế mộng thấy Phật, do đó tam thừa được truyền sang Trung Quốc (2)
Triều Nam do chơn lý nhà Phật lưu lại mà Phật Thầy giáo truyền tám điều răn cấm.


Chú thích:
(1) Xóm Đồng Tân xã Mỹ Hội Đông nơi ông Nguyễn Trung Trực tá ngụ để mưu hạ thành Kiên Giang
(2) Vua Minh Đế đời Hậu Hán nằm mộng thấy người vàng có hào quang rực rỡ đoán biết Phật ở phương Tây.



CHÁNH ĐIỆN

37-
Phật tọa phi diêu thiện niệm Tứ Ân hoàn xá lợi,


Tổ đàn bất viễn phụng thừa tam giáo kiến vân đài.

Có nghĩa:
Ngôi Phật không xa chuyên niệm Tứ Ân thành xá lợi
Đàn tổ rất cận thừa hành tam giáo thấy đài mây.


4- BÀN HỘ PHÁP

38-

Hộ thế thiên trung mỗi dĩ kim thằng khai giác ngộ,
Pháp môn cao thượng thường tương bửu phiệt thoát mê đồ.

Có nghĩa:
Giữa trời hộ thế, chỉ lấy dây vàng khai nẻo giác
Pháp môn cao viễn, thường dùng bè báu vượt đường mê.

CHÙA LIÊN HOA

CHÙA LIÊN HOA

Ở xã Mỹ Hội Đông (An Giang)

CỬA CHÁNH


39-
Bá tử vương tôn phất kỉnh phất cung nan chánh quả,


Thiện nam tín nữ năng trì năng niệm hướng chân tâm.

Có nghĩa:
Con chúa cháu vua không kính không cung khó thành chánh quả,
Trai lành gái tín hay trì hay niệm dễ đạt chơn tâm


40-
LIÊN HOA Thứu lãnh vân thanh thiên ái tinh thần HỘI,




BỬU TỰ Kỳ viên hạo ảnh địa cầu phổ tế ĐÔNG.

Có nghĩa:
Hoa sen non Thứu, mây trong trời tạnh là tinh thần tụ HỘI,
Chùa báu vườn Kỳ, ánh rọi địa cầu thức rộng độ phương ĐÔNG.



MẶT TIỀN


41-


Thắng địa khả triêm cam vũ nhuận,


Trường Giang năng quán đạo căn thâm.

Có nghĩa:
Cảnh đẹp khá thấm nhuần mưa mốc thuận,
Sông dài hay tưới mát đạo căn sâu.



42-

Khuyến thế vô tư hồn quốc ĐỊNH,



Cư dân hữu nghĩa vựng nhơn HÒA.

Có nghĩa:
Khuyến thế không riêng hồn nước ĐỊNH
Dạy dân có nghĩa tụ nhơn HÒA.
CHÙA KHÔNG MÔN

CHÙA KHÔNG MÔN

Ở Sơn Đốt xã Nhơn Mỹ (An Giang)


NGÔI TAM BẢO


43-


Tam thế Phật chơn đồng tiếp chúng,




Bửu tòa qui tịch vĩnh vô sanh.

Có nghĩa:
Chơn Phật ba đời đồng độ chúng,
Lặng về tòa báu rốt không sanh.



CHÁNH ĐIỆN


44-

Yên lục đạo nghinh ân Phật pháp,
 


Tiệt tam đồ mông đức Thánh tăng.

Có nghĩa:
Lắp sáu nẻo đón ân Phật pháp,
Dứt ba đường nhờ đức Thánh tăng.



3- CỬA CHÁNH


45-


Không tâm trần thế duy tâm Phật,




Môn pháp Tịnh Thiền bản pháp siêu.

Có nghĩa:
Tâm không bụi thế do tâm Phật.
Pháp giáo Tịnh Thiền góc pháp siêu.

CHÙA LONG HÒA

CHÙA LONG HÒA

Tại xã Long Điền, quận Chợ Mới, tỉnh An Giang


CỬA NGÕ


46-


LONG vận môn khai thiện tín đồng chiêm ngưỡng,




HÒA quang hộ tự bá tánh đắc an ninh.

Có nghĩa:
Vận hội LONG hoa mở cửa, thiện tín đồng chiêm ngưỡng,
Cửa chùa HÒA chung ánh sáng, trăm họ được an ninh.

*** Ngoài ra, còn gần 10 đôi liễn nữa (được viết khi ông Thanh Sĩ chưa xuất ngoại), rất tiếc vì (giấy mục) rách nát lại không lưu bút nên thất truyền.

Thi Lục -Thanh Sĩ

Đánh giá bài viết

4.98/32 rates

Đăng nhận xét

Cảm ơn Đạo Hữu đã đóng góp. Chúc Đạo Hữu một ngày an lạc! A Di Đà Phật