Thuyết Pháp Ứng Khẩu - Quyển 1

thanh sĩ, thuyết pháp ứng khẩu, thuyết pháp ứng khẩu quyển 1

THÀNH KÍNH GIỚI THIỆU

THÀNH KÍNH GIỚI THIỆU


Chỉ có những người đã có nghe ông Thanh Sĩ thuyết pháp đôi lần, mới tin rằng ông có một biện tài Thuyết Pháp Ứng Khẩu từ trươc đến nay ít người làm được. Cách Thuyết Pháp Ứng Khẩu của ông không giống như các nhà sư thuyết pháp. Ai có dự một thời pháp của ông Thanh Sĩ cũng phải:

Kinh ngạc về tài ứng khẩu của ông:

Không bao giờ nghĩ đến đề mục trước, ông tự ứng khẩu và tùy theo căn cơ người cầu pháp mà thuyết ra những điều tương ứng với trình độ cơ cảm của họ. Bởi vậy cuộc thuyết pháp của ông luôn luôn rất linh hoạt vì nó ứng đối với khát vọng cầu pháp của mọi người.

Kinh ngạc vì lối văn thuyết pháp của ông: Thuyết Pháp Ứng Khẩu đã là khó, thế mà ông còn áp dụng một lối văn có vân, một lối thơ trác tuyệt. Thơ là một thể văn có vần có điệu, thế nên có sức rung cảm và điều dưỡng tính tình của con người, đúng với câu “Hưng ư thi” của Khổng Tử.

Kinh ngạc vì ông thuyết pháp ứng với tâm niệm của thính giả:

Nhiều người đã từng thí nghiệm và nhận thấy rằng một khi trong tâm niệm mống tưởng hay thắc mắc một nghi vấn nào, thì liền đó ông Thanh Sĩ ứng khẩu thuyết ngay về chỗ nghi vấn ấy. Đó chẳng qua là giữa ông và thính giả có sự cảm ứng về niệm tưởng, cho nên trong tâm của thính giả mống một niệm gì thì cái niệm ấy cảm ứng ngay đến diễn giả.

Trường hợp này thường thấy trong kinh Phật, như trong kinh Duy Ma có đoạn kể lại: khi nghe Phật thuyết về lý “Tâm tịnh tức quốc độ tịnh”, ông Xá Lợi Phất mống lòng nghĩ rằng:

“Nếu Bồ Tát tâm tịnh thì cõi tịnh độ của Phật cũng tịnh, nhưng cớ sao Đức Thế Tôn của ta trong lúc làm Bồ Tát tâm của Ngài không tịnh hay sao mà quốc độ của Ngài uế trược như vậy?”

Phật biết ngay chỗ mống niệm của ông Xá Lợi Phất liền giải về chỗ nghi vấn ấy.

Kinh ngạc vì chỗ không học mà thông:

Ai cũng biết ông Thanh Sĩ xuất thân là một tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo kém học, hay có thể nói là không học. Thế mà khi nghe những đề tài của ông đem ra thuyết pháp, như ta thấy ông luận về “Sự tu và Đạo đức” trong kỳ lễ kỷ niệm Đệ Thập Tứ Chu Niên ngày Đức Thầy Khai Sáng nền đạo Phật Giáo Hòa Hảo, người ta mới nhận thấy ông rất uyên bác về Phật Pháp thuyết minh và xiển dương giáo lý của Phật Giáo Hòa Hảo một cách thâm huyền quảng huợt.

Với bao nhiêu điều kinh ngạc ấy, chẳng những chứng tỏ rằng ông Thanh Sĩ rất xứng đáng là một tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo mà còn làm cho người đời thấy rằng Phật Giáo Hòa Hảo thường có một vài bực sáng tỏ xuất hiện mà người đời gọi là phát huệ như trường hợp của ông Thanh Sĩ vậy. Nhớ lại bài thuyết pháp của ông Thanh Sĩ từ trước tới giờ, không lần nào ông quên đặt mình là một tín đồ trung thành của Phật Giáo Hòa Hảo, để cổ võ nung đúc anh em đồng đạo việc tu hành trong khi Đức Thầy vắng mặt. Nhiều lần ông khéo khêu gợi về việc này làm cho tất cả nam nữ thính giả đều rơi lệ.

Thật là một việc khích động vô cùng hiệu quả ! Thế mà từ trên 5 năm nay, nghĩa là từ khi ông Thanh Sĩ ra đời thuyết pháp đến giờ, sau khi nghe pháp ra về, thử hỏi mấy người còn nhớ được cho đúng một đoạn văn nào của ông đã thuyết.

Đáng tiếc thay !

Nhưng đời nay có mấy ai được như Trương Tòng, “Nhứt mục khách thập hàng”, hoặc như Tôn giả A Nan nghe Phật thuyết đến đâu nhớ đến đó. Thế nên trên ngàn bài thuyết giảng của ông Thanh Sĩ đã thuyết khắp cả mấy tỉnh ở miền Hậu Giang như: Cần Thơ, Sa Đéc, Long Xuyên, Châu Đốc, Vĩnh Long trên 5 năm nay không còn lưu truyền được một bài nào.

Thật càng đáng tiếc hơn nữa !

Nhưng muốn điền bổ vào khiếm khuyết ấy, kể từ hôm khánh thành ngôi Tam bảo Tây An Cổ Tự, có nhiều anh em nghĩ ra cách luân phiên nhau mỗi người chép một câu, để sau khi giảng ráp lại thành bài. Việc làm được anh em tín đồ hoan nghinh khuyến khích không ngơt và do đó mới có sự trù tính in ra thành sách những bài Thuyết Pháp Ứng Khẩu của ông Thanh Sĩ từ Tết tới giờ. Việc khuyến khích ấy đưa ra nhiều luồng dư luận đáng chú ý:

1- Cần in thành sách những bài thuyết pháp của ông Thanh Sĩ, để cho tiện bề giữ lại những bài thuyết pháp ấy sau này, hầu tránh cái tệ “Thuật Nhi Bất Tác” của Khổng Tử ngày xưa đã bị hậu thế xuyên tạc rất nhiều, và cũng làm khổ cho các các bực tiền bối ta về thuật ngữ “Khổng Tử Viết” chẳng ít.

2- Nhận thấy trong các thời pháp của ông Thanh Sĩ gần đây, càng ngày thính giả càng đông, tự nhiên có người nghe không được rõ nên cần in thành sách những bài thuyết pháp của ông, để tiện bề xem lại khi cần. Như thế giúp cho mọi người được lãnh hội hết ý nghĩa của thời pháp và cũng còn có thể ghi nhớ một đôi điều, nếu tự mình nhận thấy bổ ích cho sự tu học của mình phần nào.

3- Ngoài ra, lại có một số người vì bận việc hoặc ở xa nơi thuyết pháp, nên không nên không thể đến thường để nghe, thì nay cần có những bài thuyết pháp của ông in ra thành sách đặng đọc lại. Như vậy, cũng như được nghe ông thuyết pháp mà không gián đoạn một phiên nào. Với những lý lẽ trên, khiến chúng tôi rất đỗi vui mừng khi hay tin những bài giảng của ông Thanh Sĩ được in thành sách. Chúng tôi không ngại tài sơ trí xiển viết mấy lời thành kính giới thiệu quyển Thuyết Pháp Ứng Khẩu này với các tăng ni đạo tục có lòng muốn hiểu rõ về Phật Giáo Hòa Hảo.

Thiện Duyên và Thiện Hạnh
LỜI BẠT (Của Tác Giả)

LỜI BẠT (Của Tác Giả)

Sinh ra cho tôi cái xác lành mạnh là cha mẹ; tạo nên cho tôi một lý tưởng đạo đức chính là Đức Huỳnh Giáo Chủ, “tức là Đức Thầy của chúng ta”.

Nhờ Sám giảng của Đức Thầy đánh thức tôi hồi lúc mới độ 16 tuổi đầu. Nhờ sức ám trợ của Đức Thầy mới khiến tôi cảm thấy hồi đầu theo Phật.

Với cách thức quy y, tôi chỉ do bài của Đức Thầy đã dạy trong các Sám giảng mà thi hành.

Mặc dù không được duyên hầu hạ bên Đức Thầy, song lòng tôi không lúc nào lảng quên hình ảnh của Đức Thầy mà trước kia trong dịp Đức Thầy đi khuyến nông tôi đã hân hạnh được thấy. Cho đến khi này hễ mỗi lần gợi đến việc của Đức Thầy thì tự thấy cõi lòng tôi nao nao, với một niềm thương kính cẩn và sợ sệt vô biên.

Vào tháng 2 năm Đinh Hợi (1947) hốt nhiên Đức Thầy thọ nạn. Sau khi tiếp được hung tin ấy, cả hai triệu tín đồ nam nữ như sét đánh ngang đầu. Trên khuôn mặt của mỗi người đều đượm tràn nước mắt và in sâu những nét buồn, sợ, thương, lo vô hạn. Vì người tín đồ vắng Đức Thầy như con lìa vú mẹ, dù sao cũng phải lo ngại và đau đớn.

Lo ngại cho hai triệu đồng đạo biết có được vững vàng đức tin chăng? Và cái tinh thần đạo đức sẽ ra sao? Trong lúc chờ đợi họ có giữ đúng theo lời của Đức Thầy dạy bảo hay để lảng quên?

Đau đớn vì Đức Thầy yêu kính của chúng ta cũng vì chúng ta mà từ lâu phải gánh chịu mọi nỗi gian truân tai khổ cho đến ngày nay cũng chưa rỗi được.

Không rõ Đức Thầy vắng mặt với sự lành mạnh ra sao?

Biết có gặp được người thành tâm thiệt ý kính đãi Đức Thầy như chúng ta chăng?

Cũng vì những nguyên nhân trên đó mà khiến tôi chẳng ngại mình tài sơ, trí siển đứng ra với cái ngu ý là để nhắc nhở khuyến khích cho anh em đồng đạo nam cũng như nữ:

-Hãy nhớ Đức Thầy, tưởng đạo lý;

- Nghĩ đến cơ nhân quả báo ứng,

- Hăng hái tu hành theo lời của Đức Thầy đã dạy rành trong Sám giảng,

- Lo bảo vệ tình thân ái giữa người đồng đạo cho được trọn vẹn và cao khiết đến ngày Đức Thầy trở lại. Tuy nhiên trong lúc chưa có cách nào hơn, thì mỗi người của chúng ta, phải đem một tấm lòng như tha như thiết, để cầu khẩn các đấng bề trên ủng hộ cho phần xác Đức Thầy được mạnh lành và sớm trở về dìu dắt một đoàn con dại đương lúc bơ vơ.

Với việc nhắc nhở ấy, tôi đã làm ngót hơn 5 năm nay, nghĩa là khởi đầu từ tháng giêng năm Mậu Tý (1948) đến giờ.

Song chỗ đi lại của tôi hầu hết mấy tỉnh ở miền Hậu Giang và lời giảng giải đã nhiều lần mà những bài ấy không được lưu truyền.

Bắt đầu từ tháng Giêng năm Quý Tỵ (1953), mỗi ngày sóc vọng tôi có đến ngôi Tây An Cổ Tự giảng dạy đạo lý do theo căn bản truyền giáo của Đức Thầy cho người đồng đạo được nhớ. Ở đây nhờ anh em có nghĩ ra cách luân phiên nhau mỗi người chép một câu, cho đến khi rồi phiên giảng về ráp lại thành bài. Phương pháp ấy đã đem lại kết quả là sự kết tập những bài giảng ứng khẩu này.

Tôi tự xét những lời của tôi đã nói ra trong khi giảng với mục đích nhắc cho toàn thể đồng đạo lớn nhỏ đều nhớ để tuân hành giáo điều của Đức Thầy, của Phật đã khổ công ra tay truyền bá. Nhắc cho đồng đạo nhớ rằng: Lời của Đức Thầy toàn là những lời réo kêu thống thiết. Ý muốn cho cả thảy nhơn sanh mau chóng quày đầu hướng thiện, cải tà qui chánh làm các việc phước đức. Tránh những sự lỗi lầm và mỗi ngày trong hai buổi sớm chiều phải thành tâm lạy Phật cầu Trời hầu nhờ ơn đức từ bi che chở cho tổ tiên cha mẹ, cho bá tánh vạn dân và cho mình thoát khỏi ngày tận diệt của buổi Hạ nguơn để bước sang kỷ nguyên mới.

Và hơn nữa còn trong vòng học Phật tu nhân, chúng ta sẽ phải tùy cơ để đáp ơn cho dân, cho nước mà chúng ta đã nhờ nhõi từ trước đến nay mới được sanh cư đầy đủ.

Tóm lại, chẳng qua vì lòng tôi quá nghĩ đến công ơn dìu dắt của Đức Thầy, sánh dường non biển; nghĩ đến chư vị siêu phàm đã đầy lòng từ bi hóa hiện cứu thế độ dân; nghĩ đến tình đồng đạo đã có sự tương quan mật thiết giữa nhau trong mọi sự vui khổ; nghĩ đến nước non dân tộc trong lúc khói lửa đao binh và nghĩ đến mình đã có lời thệ nguyện độ hết chúng sanh khỏi chốn Ta bà thống khổ; nhứt là trong khoản Hạ nguơn này, nên khiến tôi chẳng quản ngu khờ, đem tiếng nói ở tận đáy lòng của mình ra kêu gào, khuyên nhủ khắp cả chư nhơn đồng đạo và các tầng lớp dân chúng, hãy mau thức giấc Nam Kha tỉnh cơn ác mộng, gấp trau sửa cho tâm tánh hiền lành, việc làm chánh đáng, ý tưởng thanh cao để sống sót coi đời và cũng khiến cho mình đáp xong bổn phận đã thọ ân.

Và do những ý nghĩ đó. Nên tôi mới định ý cho quyển giảng này ra mắt chư đồng đạo may ra giúp ích
cho nhau được một phần nào trên đường tu niệm trong lúc vắng mặt Đức Thầy.

Vậy tất cả lời lẽ trong quyển này nếu có chỗ nào sơ sót, lầm lẫn xin đồng đạo hãy xét nghĩ vì cải thiện ý của tôi mà vui lòng điểm xuyết lại cho.

Rất thậm tạ,
Định Hòa, Mạnh thu năm Quý Tỵ.
Thanh Sĩ.

Những Bài Thuyết Pháp Năm Quý Tỵ 1953

THÁNG GIÊNG:
01- Đêm 14 Nhân Lễ Khánh thành ngôi Tây An Cổ Tự

Đêm 14 Nhân Lễ Khánh thành ngôi Tây An Cổ Tự ở thôn Long Kiến.

“Khởi đầu bằng một đoạn tản văn chép không kịp”.

Nhơn dịp Tây An Tự khánh thành,
Mượn câu huyền diệu gọi nhơn sanh.
Hãy mau thức tỉnh lo tu niệm,
Thoát khỏi sông mê đến cõi lành.
Năm nay gọi là năm con rắn,
Loại với rồng song chẳng có chân;
Bắc Nam Trung khắp ba phần,

Chỗ nào Rắn cũng bò lần đến nơi.
Tài của Rắn ỷ hơi nọc độc.
Thừa hại người trong lúc bất phòng;
Nhưng nào qua lưới tạo công,
Gặp tay Hớn Bái mạng vong chẳng còn.
Thấy việc thế hao mòn lờ lụn.
Khuyên đạo đồng nay cũng nên nghe;
Dám đâu có tiếng bài khoe,
Chỉ thương nhau bảo lắng nghe chút tình.
Bởi cũng một cội lành trong đạo.
Nên có lời khuyến cáo cho nhau;
Để cho bớt nỗi máu đào,
Để sau cùng được bước vào đài sen.

Thừa đêm vắng lời quen đã rót.
Hỡi đạo đồng lừa lọc để vào;
Đây là giọng nói khuyên nhau,

Muốn cho trên dưới một màu từ bi.
Lời vắn tắt nên ghi tim phổi,
Để ra về sửa đổi chút nào;
Thương nhau muốn được thêm cao,

Khỏi ngày đọa lạc khỏi vào hố sâu.
Hỡi đồng đạo ngồi lâu chớ nệ.
Nghe những lời kinh kệ sĩ hiền;
Khuyên nhau đâu có vì tiền,

Nhắc nhau vì bởi lòng thiền(g)* đấy thôi.
Muốn cho đó có ngôi có vị,
Được sống còn phỉ chí ước ao;
Sĩ Thanh vắn tắt lời trao.
Anh em đồng đạo cùng nhau ra về.
14 tháng Giêng Quý Tỵ (tức 27 tháng 2-1953)
-----------------------------
* Lòng thiền hay lòng thiềng từ cũ của lòng thành.
02- Đêm Rằm Nhân Lê Khánh Thành ngôi Tây An Cổ Tự

Đêm Rằm Nhân Lê Khánh Thành ngôi Tây An Cổ Tự ở thôn Long Kiến


“Khởi đầu bằng một đoạn tản văn chép không kịp”.

Quí đáng thay cho tổng Định Hòa,
Được ngôi Tam Bảo rất nguy nga.
Cổ kim xét nghiệm đà hy hữu,
Mong mỏi từ đây đượm khí hòa.

***

Rồng mãn kế Rắn kia lại đến,
Năm cũ tàn năm mới bước sang;
Kiếp người theo cái thời gian,
Trẻ rồi già, kế thân tàn như hoa.
Người phải biết lo xa mới được,
Rán vun trồng cội phước mà nhờ;
Nước nhà rối tợ vò tơ,
Chữ tu đồng đạo vội ngơ ngẩn lòng.
Tiên Phật rất não lòng sa lệ,
Thấy chúng sanh bê trễ tu hành;
Hiện nay ít kẻ làm lành,
Mãi lo tiền bạc cạnh tranh tối ngày.
Nên Thanh Sĩ ai hoài chua xót,
Vịn từ tâm nối gót khuyên dân;
Muốn cho đồng đạo xa gần,
Nghe đây rồi phải định thần xét suy.
Đạo với lý mấy khi được gặp,
Khi gặp rồi phải gấp tu hành;
Phật Tiên bỏ thế không đành,
Mà sao người thế nỡ tình ngó lơ.
Đã hiểu biết thời cơ thống khổ,
Sao chẳng tìm phương độ lấy thân;
Mãi đeo theo cuộc hồng trần,
Ngày qua tháng lại mộ phần đến nơi.
Chừng đó dẫu buông lời hối tiếc,
Thì ăn năn sao kịp bớ người !
Nay đây khuyên nhủ trong đời,
Nghe câu đạo lý hãy rời tánh mê.
Tu cho được gặp Huê Long hội,
Tu cho tường gốc cội Rồng Tiên;
Bấy lâu phải chịu ăn phiền,
Gần ngày thoát nạn Rồng Tiên đấy rồi.
Nay chỉ có trau giồi đức hạnh,
Để Phật Trời cứu cánh đấy thôi;
Dân ôi ! kìa hỡi dân Ôi !
Lời đây khuyên đó vô hồi bi ai.
Muốn cho kẻ đời nay tỉnh ngộ,
chẳng quản chi lao khổ đời mình;
Mong sao trên dưới thuận tình,
Dẹp đi thù ghét khỏi sinh máu đào.
Đây chẳng dám lời nào ngụy biện,
Lấy lòng ngay có khuyến người tu;
Mong sao dứt được ngục tù,
Ước đời thoát khỏi sương mù ban mai.
Để được thấy sáng khai ánh nguyệt,
Khỏi phải còn mờ mịt như xưa;
Từ đây tật xấu nên chừa,
Thói tà rán tránh cho vừa thần tiên.
Hỡi đồng đạo lặng yên nghe kỹ,
Rồi in sâu tâm trí của mình;
Bởi đời nay quá mỏng manh,
Gần ngày tiêu diệt người lành rán lo.
Mặc dù phải gay go trắc trở,
Nhưng tấm lòng gắn bó đừng rơi;
Tin rằng có Phật có Trời,
Lúc nào cũng vẫn độ người hiền lương.
Chỉ những kẻ theo đường tà quấy,
Khó mong gì thoát lưới tạo công;
Ngày kia phải chịu não nồng,
Kìa tai nọ ách vô cùng thiết tha.
Nay phải rán Di Đà thường niệm;
Và luôn luôn hạnh kiểm giữ gìn,
Làm cho được sạch được thanh,
Ngày kia mới đặng mây lành phủ che.
Nay phải chịu khắt khe dưới thế,
Bởi cuộc cờ xỏ rế biết sao !
Miễn mình hiền đức đeo vào,
Ắt là sẽ được Thiên Tào đỡ nâng.
Hỡi đồng đạo thôn lân lớn nhỏ,
Từ nay đây xét rõ dữ lành;
Làm hiền sẽ được yên mình,
Tạo hung ắt phải muôn nghìn lao đao.
Phật Tiên phải lăn vào cõi tục,
Bởi thấy đời việc phúc thả trôi;
Mãi cam chịu nổi luân hồi,
Ngàn muôn kiếp phải dập dồi tử sanh.
Nên tiện có ứng thân khắp chỗ,
khuyên nhủ người lớn nhỏ tỉnh lòng;
Anh em nam nữ đạo đồng,
Khi nghe rồi phải để lòng làm theo.
Mới thoát khỏi nàn eo sắp tới,
Được nhìn xem thế giới tranh hùng;
Nạn tai xét gẫm khó cùng,
Nếu người chẳng tưởng việc công của Trời.
Ỷ lại vào thiên thời văn vật,
Vội quên đi Tiên Phật chẳng cần;
Tưởng là theo cái tiền trần,
Hưởng đầy lạc thú khỏe thân lắm rồi.
Đâu còn biết luân hồi là khổ,
Quên linh hồn ẩn chỗ xác thân;
Chừng khi tan rã huyễn trần,
Linh quang kia phải muôn phần đọa sa.
Hỡi đồng đạo trẻ già nam nữ,
Phải từ đây gìn giữ tâm hiền;
Mặc dù gặp lắm truân chuyên,
Với lòng cũng vẫn làm hiền đấy thôi.
Để tránh khỏi tai trời ách nước,
Có nhờ ơn trên trước chở che;
Bởi đời mỏng tợ màn the,
Anh em sao mãi say mê cuộc đời.
Phải tu tỉnh gặp người Thượng cổ,
Được xem coi những chỗ nhiệm mầu;
Nay khuyên chớ tưởng rằng lâu,
Việc đời mai tối ai hầu biết chăng?
Tu gặp những khó khăn trắc trở,
Mà ta không than thở mới tài;
Trên đường đâu cũng có gai,
Nhưng lòng cương quyêt chơ nai bơ dân.
Khuyên hãy rán bốn ân gìn vẹn,
Đến ngày kia khỏi thẹn Phật Trời;
Dân ơi ! Kìa hỡi dân ơi !
Tu hành phải rán nhớ lời Phật Tiên.
Một là phải đền ơn đất nước,
Hai nên lo cội phước gia đình;
Ba là tưởng Phật mầu linh,
Sớm hôm sùng ngưỡng không tình lảng xao.
Bốn nên nhớ đồng bào nhơn loại,
Đã bao phen nhờ nhõi nhau nhiều;
Ngày nay việc nghĩa nâng niu,.
Để hầu đền trả ít nhiều bớ dân !
Nếu vẹn bốn điều ân đã kể,
Thì được gần chín bệ dễ dàng;
Ngày nay dù phải gian nan,
Ấy là họa trước phải mang bớ người !
Miễn cho được nhớ lời Phật dạy,
Mở lòng nhơn hà hải giúp nhau;
Không còn ô nhiễm trần lao,
Lại càng việc nghĩa sửa trau thêm hoài.
Đến chung cuộc gặp ngày vui đẹp,
Có mây lành thay dép đỡ chân;
Hoặc là có được châu trân,
Trị bao thủy hỏa muôn phần ứng linh.
Thưởng cho kẻ vẹn mình đạo Phật,
Ban những người chơn chất lương hiền;
Thương cho những kẻ tham tiền,
Tạo nhiều tội ác liên miên khổ sầu.
Khuyên đồng đạo cần âu việc đạo,
Nên giữ điều ngay thảo chớ rời;
Trên đầu tin có Phật Trời,
Lòng luôn trau sửa cho đời thanh cao.
Mấy khi gặp trần lao thay đổi,
Lập đời tân nhiều nỗi lạ lùng;
Muốn người được thấy ngọc trung,
Để xem cho biết anh hùng vang danh.
Muốn người rõ hương lành rừng thẳm,
Bay khắp trời càng ngâm càng thơm;
Nay dầu túng thiếu tiền cơm,
Với lòng cũng vẫn để ôm chư từ.
Luôn luôn nhớ tiêu trừ tham ố,
Phải tìm phương Tịnh Độ tu hành;
Di Đà sáu chữ để tình,
Ngày kia sẽ được khỏi mình chông gai.
Sự khổ não ngày nay cũng lắm,
Nhưng có nơi còn đặng an cư;
Sợ e gặp loạn gia cư,
Thảy đều bỏ trống người người vắng hoe,
Nay khuyên chúng không nghe lại giận,
Nhưng nghĩ vì bổn phận phải làm;
Muốn đời nhập thánh siêu phàm,
Mà trong thế sự còn ham việc trần.
Có mấy kẻ xa lần tội ác,
Để tìm phương giải thoát từ đây;
Anh em tin tưởng Đức Thầy,
Vưng trên Thượng Đế xuống nay cõi trần.
Chúng ta được hữu phần tỉnh ngộ,
Thời sớm toan rứt bỏ trần ai;
Có về nơi cảnh Bồng Lai,
Yên nhàn hôm sớm liễu mai bạn tình.
Đâu còn phải trói mình bể tục,
Chịu mọi điều khổ nhục tháng ngày;
Anh em đồng đạo gái trai,
Hữu tâm đi đến đêm nay rất nhiều.
Nghe rồi phải mai chiều sửa dạ,
Đừng để cho sa ngã từ đây;
Ngày kia mới đặng sum vầy,
Dưới mình đẹp đẽ trên Thầy vui tươi.
Nay chớ có buông lơi đạo cả,
Vì mấy khi gặp mở trường lành;
Ai cần chuyên chú học hành,
Đến ngày thi cử đặt mình bực cao.
Khi bẻ quế biết bao khoái lạc,
Danh hiền kia ghi tạc bảng vàng;
Đạo đồng chớ quá lời than,
Từ nay nên nhủ sắt gang đến cùng.
Chẳng hề có bươi bòng thay đổi,
Vẫn được trau chung thủy một lòng;
Ngày kia được thỏa dạ mong,
Gặp Thầy gặp Chúa vô cùng đẹp xinh.
Long Hoa Hội mối manh tại đó,
Song bởi trong lớn nhỏ chẳng tìm;
Thế nên không rõ cổ kim,
Để tâm kia mãi im lìm lẳng lơ.
Khi biết được huyền cơ mầu nhiệm,
Thì luôn luôn tinh tiến một đường;
Kịp ngày biến cải tang thương,
Để mà chầu Đức Phật Vương non Thần.
Hỡi đồng đạo ân cần tu tỉnh,
Phải nói lam chơn chanh mơi la;
Chớ nên tiếc của tham nhà,
Đừng đeo danh lợi gây ra tội tình.
Phải cương quyết hy sinh nhứt thế,
Giúp cho người rách rưới mồ côi;
Lòng nhân cứ mãi vun bồi,
Bảo sao chẳng được đứng ngồi tòa sen.
Còn dạ mãi ố hoen keo bẩn,
Cứ lo cho thân phận ấm lành;
Không hề thương kẻ nhọc nhành,
Chẳng đem giúp đỡ nhân sanh một tiền.
Đến ngày thác điền viên cũng bỏ,
Tội tình kia hồn đó phải mang;
Chi bằng nay sớm lo toan,
Ngày kia sẽ được vẻ vang trăm bề.
Thương nhau mới vỗ về cạn kỹ,
Muốn cho nhau gắng chí tu luôn;
Vì đây là một lớp tuồng,
Có trung có nịnh vui buồn trộn pha.
Nên có cuộc nồi da xáo thịt,
Lại phải còn kẻ chích người châm;
Càng suy gan ruột héo bầm,
Gọi kêu đồng đạo tỉnh tâm tu cần.
Chữ tu ấy trau thân sửa nết,
Nguyện một lòng đến chết không thôi;
Dầu cho sóng dập gió dồi,
Tâm kia cứ giữ một lời sơn minh.
Như vậy ắt cảm trên Chư Phật,
Ngày nguy nàn kịp bước hộ trì;
Nhược bằng dân chúng mê ly,
Ở trong tràng mộng đạo nghì vội quên.
Khi gặp phải đạn tên ách biến,
Vái van nào được chuyện linh mầu;
Bây giờ khuyên hãy khẩn cầu,
Sớm hôm phải rán dập đầu vái van.
Hỡi đồng đạo xóm làng lân ấp,
Từ nay đây gấp gấp sửa mình;
Bởi đời khác thể chỉ mành.
Cho nên Thanh Sĩ không đành làm thinh.
Khiến phải tỏ chút tình mến đạo,
Để cho người xốc xáo tu cần;
Ngày kia gặp hội Phong Thần,
Được xem phép nhiệm muôn phần hay ho.
Nay cần mẫn toan lo sớm tối,
Kẻo phải thân lạc lối bớ người !
Lòng kia khuyên chớ để rời,
Bao nhiêu ngọc quí trong đời tại đây.
Tu khác thể cấy cày ruộng rẫy,
Sốt sắng thời lúa ấy dồi dào;
Nhược bằng biếng nhác chẳng trau,
Thì ngay kia ăt lua vao it oi.
Thương nhau phải rạch ròi bày biện,
Mong moi người tinh luyện ân cần;
Trên không thẹn với Phật Thần,
Dưới làm cho cả muôn dân đẹp lòng.
Lời dịu ngọt như ngân chậm rãi,
Khiến cho người nghe lấy được rành;
Không vì cái giọng rất thanh.
Mà là muốn kẻ xét tình thiệt hơn.
Nếu ngay chánh ghi xương khắc cốt,
Còn vạy tà hãy lột hãy buông;
Đây không có phải thơ tuồng.
Mà là tiếng kệ não buồn khuyến dân.
Bởi sợ kẻ xa lần bổn thiện.
Nên kêu gào tiếng đến xa gần;
Anh em đồng đạo định thần,
Để mà nghe rõ một lần thử coi.
Đây quyết chí để noi gương Phật,
Chẳng màng chi khổ cực kiếp này;
Miễn lam được vẹn lời Thầy,
Thêm gây lợi ich muôn loai đây thôi.
Song ít kẻ nhớ lời khuyên bảo,
Tưởng chừng như nói láo gạt người;
Nào đâu có rõ mạng trời,
Từ bi khiên kẻ đem lời dạy dân.
Nào Tiên Phật Thánh Thần bốn phía,
Cùng rập nhau tiếp kế lâm phàm;
Hoặc là ở Bắc ở Nam,
Đông Tây cũng có đặng làm Phật ngôn.
Kêu gọi kẻ tỉnh hồn tỉnh trí,
Nhắc nhở người sửa cải việc làm;
Bỏ đi những tánh tham lam,
Rèn cho được chữ từ nhân trong lòng.
Mới khỏi phải dấn thân cảnh khốn,
Bởi đời nay sắp đến tận tiêu;
Mấy năm điền địa đìu hiu,
Dân gian thưa thớt đã nhiều thấy chưa.
Nhưng còn lắm ngẩn ngơ thêm nữa,
Vì Bắc, Trung nước lửa chưa ngưng;
Miền Nam e sợ họa Tần,
Lại còn nội loạn muôn phần gớm ghê.
Tranh mạnh yếu thảm thê thảm,
Giành địa điền u ám ám u;
Bây giờ chỉ có thật tu,
Thương nhau như một thì cù hóa long.
Hỡi đồng đạo để lòng xét nghiệm,
Rồi tự mình soi kiêm lẽ mầu;
Phận này dám gạt ai đâu,
Thừa ân Tiên Phật một câu khuyên đời,
Kẻ gần gũi nhiều ngày lờn lã,
Tưởng rằng mang xác giả như người;
Hay đâu tâm được chói ngời,
Để chờ có dịp cứu đời qua truông.
Nay vận bỉ chưa suông phải ẩn,
Đợi chờ ngày phong vận đến nơi;
Thuyền kia ắt phải tách rời.
Để mà rước khách khỏi nơi bến sầu.
Hỡi đồng đạo bây lâu tu tỉnh,
Được mấy ai nhập thánh siêu phàm;
Bởi vì cõi tục còn ham,
Tâm trần chẳng dứt chưa kham chứng thành.
Nay khuyên nhủ phải canh phải cưi,
Gạn ruộng lòng cho cỏ đừng sanh;
Nhứt tâm gieo hột giống lành,
Ắt là bông trái tốt xinh muôn vàn.
Dân bởi sợ tai nàn đưa lại,
Nên phải tu hoặc vái sớm chiều;
Nhược bằng mai khuyên luât điều,
Đời không tới ít kẻ theo đạo trường.
Vì sợ chết phải nương theo Phật,
Rồi thấy lâu bỏ vất không cần;
Dễ đâu khuất lấp mắt thần,
Thấy đời lợi dụng muôn phần xót đau.
Khuyên nhủ phải mau mau thành thật,
Nên tưởng rằng có Phật có Trời;
Ngày kia tận thế lập đời,
Có Long Hoa Hội cho người được xem.
Có rắn độc tràn lan cắn mổ,
Có tượng voi hùm hổ nuốt người;
Lại còn có sấu lội bơi,
Giựt giành ăn hại những người dối tu.
Lại còn có ám u âm khí,
Ngày Phiên Tần gây lấy thiên tai;
Lại còn bịnh hoạn khổ thay,
Trái ban ôn dịch ai ai cũng sầu.
Âm dương phải một bầu xáo trộn,
Để rồi phân căn bổn mới rành;
Ai ơi ! Khuyên hãy làm lành,
Đặng mà cứu rỗi gia đình một phen.
Thêm nữa khỏi ố hoen sử sách,
Được thơm tho khí phách anh hùng;
Lời đây khuyên đó chẳng cùng,
Bởi lòng tràn ngập thương trong mọi người.
Ví xác thịt của tôi đem xé,
Để chia ra mỗi phía mỗi manh;
Thì đâu đó được an lành,
Với lòng đây nguyện hy sinh chẳng cần.
Ngặc vì luật công bằng tạo hóa,
Tội ai làm nấy trả hẵn hòi;
Tình thương đây để mà coi,
Biết sao thế phút hóp hoi của trần.
Vậy đồng đạo có thân phải liệu,
Để đến đời bận bịu không rồi;
Bây giờ lớn nhỏ trau giồi,
Sơm trưa đi đứng nằm ngồi chơ quên.
Sau sẽ được lâu bền quốc độ,
Khỏi gặp ngày tai khổ lâm vào;
Hỡi này nhơn loại đồng bào,
Khổ này là khổ chung nhau một lần.
Để lập lại Thượng nguơn khắp chốn,
Đặng an cư toại hương đủ đầy;
Ngày nay lắm vạy ít ngay,
Kẻ giàu no ấm người nghèo đói đau
Ít kẻ biết chia nhau để sống,
Thế cho nên lắm chốn lịch chinh;
Vì đây mà sắc Thiên Đình,
Đổi đời lập lại công bình cho dân.
Khi lập lại cõi trần kỳ chót,
Phật Thánh Tiên nối xuất ra nhiều;
Tùy phương cứu độ sớm chiều,
Hoặc đem cơ bút hoặc điều thuốc thang.
Để được cảm tâm can chư chúng,
Rồi dắt người hành đúng chơn truyền;
Anh em hãy giữ lòng nguyền,
Tin rằng trên có Hoàng Thiên hiểu rành.
Kẻ bị hiếp với tình chẳng rúng,
Người được hơn ắt cũng phải kinh;
Ngoài ra còn luật công bình,
Không tư không vị chúng sanh rán chừa.
Đây khuyên đó đường tơ kẽ tóc,
Phải cần nên gìn chặt chớ rời;
Càng ngày càng khổ dân ơi !
Ấy do hệ của Phật Trời định ra.
Theo nhân quả người ta mới có,
Nên phải đành chịu khổ tứ phương;
Bây giờ tỉnh mộng hoàn lương,
Thì là sẽ được an khương thái bình.
Lời luận biện vì tình bác ái,
Tiếng nhắn nhe bởi lấy lòng thương;
Anh em không nại gió sương,
Để nghe lời lẽ bày tường Sĩ Thanh.
Thì phải rán tưởng tin chắc chắn,
Ngày gần đây sẽ đặng gặp Thầy;
Trong khi nhơn loại Đông Tây,
Thảy đều ngước mặt bó tay kêu trời.
Nói chỗ ấy mọi người nên nhớ,
Rồi khỏi e bỏ dơ đường tu;
Ngày nay rán vén ngút mù,
Để cho thần trí khỏi vào chỗ mê.
Thì sẽ được Long Huê trực đáo,
Rõ nhiệm mầu Phật đạo sau này;
Nhủ khuyên đồng đạo đến đây,
Giảng đà sắp hết lòng này chưa buông.
Vì chưa buông nên mới nói thêm,
Khiến cho sanh chúng nỗi niềm gắng ghi.
Trông thấy nhân sanh quá thiết tình,
Với lòng thương xót biết muôn nghìn.
Không đành dứt hẳn lời khuyên nhủ,
Sóc vọng từ đây tỏ mối manh.
15 tháng Giêng Quý Tỵ -Tức 28 tháng 2-1953.

THÁNG HAI:
03- Ngày Rằm tại Tây An Cổ Tự: Tam Quy-Ngũ Giới

Ngày Rằm tại Tây An Cổ Tự: Tam Quy-Ngũ Giới

Thưa quý đồng đạo, 
Lần giảng này cũng như lần giảng rồi, đều được đồng đạo trưởng ấu tham thính đông đúc, khiến cho lòng tôi tràn ngập nỗi vui mừng và đau đớn. 

Tôi vui mừng vì được thấy việc đạo đức còn được nhiều người nhớ tưởng, song phải đau đớn vì sự vắng mặt của Đức Thầy hơi lâu, làm cho có nhiều trường hợp gay ngạnh xảy ra giữa khối tín đồ, làm thành duyên cớ cho kẻ ngoại đạo mỉa mai và một phần người thiếu đức tin đâm ra chán nản mà gần như không còn giữ lấy việc công phu trai giới theo thường lệ. 

Vì lẽ ấy tôi không ngại sự hiểu biết non kém của mình, đã nhiều lần đứng ra nhắc nhở đạo đức từ vùng này đến vùng khác trong khu vực Phật Giáo Hòa Hảo, để cho người đồng đạo sực nhớ lại lời phát nguyện, sự quy y của mình (trước Tam Bảo và Cửu Huyền) mà chữa trị cái lầm lạc, tội lỗi mà chính mình đã gây ra sau ngày Đức Thầy vắng mặt tới giờ, cho không còn tái phạm nữa. 

Thưa đồng đạo, 

Chúng ta đã đặt chơn vào cửa đạo, đã mang danh một “Tín Đồ Nhà Phật”, nhứt thiết về kinh luật của Phật, chúng ta phải học và trước tiên phải hiểu rõ Tam Quy Ngũ Giới, vì đó là một nấc thang đầu của sự hành đạo. 
Tôi xin lược giải Tam Quy Ngũ Giới như sau: 

Tam Quy: 
  1. Quy y Phật. 
  2. Quy y Pháp. 
  3. Quy y Tăng.
Đức Phật đã vì quá thương xót nhân loại chúng sanh còn bận trong cõi khổ, Nên từ trước đến nay, có vô số kiếp Ngài đã phải ra vào cõi Ta Bà này cứu vớt vô lượng chúng sanh khỏi biển trầm luân thống khổ. 

Không có một sự chánh đáng nào mà Phật Ngài không hành, không có một cái phương tiện nào mà Phật Ngài không dùng và không có một việc đau khổ nào mà Phật Ngài không chịu được, chỉ vì sự hóa độ chúng sanh vậy thôi. 

Cái đức độ Từ Bi của Phật thật không chỗ cùng tột. Ngài từng hy sinh mọi sự nhu cầu cần thiết có quan hệ đến tánh mạng của Ngài cho chúng sanh. Ngài tự phải nén lòng trốn xa cha già trong khi hiu quạnh; lìa bỏ con vợ đương độ thơ ngây; địa vị vua chúa đối với Ngài không màng; lầu son gác tía đối với Ngài không luyến, mà hết cả trân phẩm báu vật, mỹ nữ cung nga, mọi sự dục lạc thường tình đối với Ngài chẳng hề cảm nhiễm, chỉ quyết lòng đi tìm kiếm cho kỳ được chánh đạo nhiệm mầu, trước độ mình thoát khổ, sau cứu vớt chúng sanh khỏi nẻo sanh tử bệnh tật.

Quả nhiên, sau 6 năm tham thiền khổ hạnh Ngài chứng quả Như Lai. Từ đó Ngài trụ thế dạy dỗ chúng sanh suốt 49 năm trời, độ được vô số chúng sanh đắc đạo và Ngài cũng độ cho vua cha và vợ con của Ngài, với tất cả quyến thuộc thân thích đa số được thành tựu viên mãn. 

Tuy nhiên lòng từ bi của Phật Ngài chưa lấy làm thỏa mãn. Ngài nguyện cho đến khi nào không còn một chúng sanh chịu khổ nơi cõi Ta Bà thì Ngài mới vui nhập Niết bàn. Như vậy đủ tỏ cho chúng ta cảm thấy rằng Đức Phật không lúc nào bỏ quên chúng ta, mà vẫn thương yêu chúng ta như mẹ đối với con, hằng muốn chúng ta được an vui lâu dài, chớ chẳng hề muốn trông thấy chúng ta đau khổ. 

Đối với tâm đức cử chỉ của Phật như đã kể lược nơi trên, khiến cho lòng chúng ta không siết cảm động và kính phục mà thành tâm nương về nơi Đức Phật, trước nhờ sự cứu vớt của Ngài, sau soi lấy tấm gương đại từ bi, đại hùng lực đó, để trau giồi cho chúng ta trong một ngày gần đây hoàn toàn trở nên một người đầy đủ giác ngộ đạo lý, đáng được hầu hạ dưới chơn Đức Phật. 

Như thế gọi là Quy y Phật. 


Song chúng ta không chỉ nương về Đức Phật bằng cách kính phục hoặc làm theo một ít việc đại khái của Phật quá suông sẻ vậy được mà chúng ta phải gia tâm cứu xét Kinh nghĩa, Luật, Luận của Phật một cách tường tận, rồi tuần tự hành theo từ khoản một, cho hợp với trình độ hoàn cảnh của mình mới dẫn nhập đến chỗ cực tinh, cực diệu của đạo Phật được. Vì các giáo pháp đã có trong đạo Phật bấy lâu đó là do Đức Phật lúc tại tiền thuyết ra. 

Sau khi Ngài tịch rồi, các chư vị đại đệ tử của Ngài mới cũ hợp nhau lại mà biên lục thành tập gồm có 3 tạng: Kinh, Luật, Luận. Trong đó, Phật có phân tách rành rẽ từng việc một của cả vũ trụ vạn hữu cho các chúng sanh hiểu thấy đâu là nhân duyên hợp thành, đâu là nghiệp quả kết hiện một cách tỉ mỉ rõ rệt, để cho chúng sanh đầy đủ đức tin mà cả quyết được sự giải thoát của mình. 

Kinh pháp như là một ngọn đuốc, một cây thước, nó có sức làm ngay được vật, làm soi sáng được lối đi, kẻ tu hành không thể không lấy nó làm ni tấc được. Mà nhứt định phải có hơn nữa, chúng ta cung kính và nương về nơi Kinh Pháp, vì Kinh Pháp đó do Phật thuyết ra. 

 Như vậy gọi là Quy y Pháp. 


Đối với các vị tăng đã được Phật truyền phó y pháp hoặc đạo đức uyên thâm, tu hành chơn chánh, từng hy sanh cứu thế độ nhân, không quản đến sự khổ sở, chẳng núng trước cảnh sang trọng, hằng giữ gìn tinh nghiêm giới luật. 

Trong lúc chưa gặp Đức Phật chúng ta phải nương về các vị này, để trông nhờ sự dạy dỗ, không dám dãi đãi hoặc khinh lờn, vẫn một lòng chăm lấy sự đạo đức do các vị dạy cho mà làm theo. 

Cũng như trường hợp của chúng ta đối với Đức Thầy hiện giờ vậy. Tuy không có y pháp cụ chứng nhưng được Phật sắc truyền giao. 

Như vậy gọi là Quy y Tăng. 

Ngũ Giới: 
  1. Sát sanh, 
  2. Đạo tặc, 
  3. Tà dâm, 
  4. Vọng ngữ, 
  5. Ẩm tửu. 
Những khi rượt bắt con vật để làm thịt, ta sẽ thấy nó trốn chạy một cách thương hại. Nó sợ chết và muốn sống như ta, ta há nỡ lòng giết nó một cách vô cớ được ư? Trong khi ta chưa trì trai được, vì lẽ lúc này ta còn phải làm việc sóc vác theo khuôn khổ của đạo nhân nhiều hơn. Thành thử buộc ta dùng một ít cá thịt vừa với sự nhu cầu, để giúp cho sức khỏe của ta được có nhiều, để làm cho công việc khỏi bị chậm chạp vậy thôi. Chớ ta không vì lấy miếng ăn làm thú vị, rồi đây ta sẽ lần lượt từ chỗ tâm chay tiến đến thực chay một cách trọn vẹn, nếu trình độ và hoàn cảnh của ta cho phép ta đến đó.
 
Đối với loài vật cũng như loài người, lúc nào ta cũng phải xem xét cái tít tắc trong việc làm của ta, không để phải hại đến mạng sống của nó và ta không nuôi ý muốn giết, hoặc vui thấy, hay nghe cho kẻ khác giết nó một cách vô cớ, lại ta cũng không nên nuông chìu cái khẩu dục, sát hại loài vật một cách quá đáng hơn sự nhu cầu thường lệ của ta. 

Như vậy gọi là giới sát sanh. 


Phải làm lấy việc để cung vào sự sống, phải có sanh kế để nuôi vững xác thân. Song trước khi làm những việc này ta phải củ soát lại nhiều lần, thấy rằng chơn chánh rồi sẽ thi thiết sau. 

Giàu có Không được bê tha xa xí cho phải nghèo, cũng như người nghèo không được dựa vào chỗ thiếu hụt chẳng chịu nỗ lực làm ăn, lại sanh ra biển lận trộm cướp của người về nuôi sống cho mình mà quên rằng kẻ đã làm ra được của ấy họ đã đổ ra biết bao nhiêu mồ hôi công khó mới tạo ra. Nay ta lấy của họ ta sung sướng, họ đau khổ mà họ là đồng bào ta, không thì cũng là cũng loài người vẫn muốn sung sướng, sợ đau khổ và biết tiếc như ta, thì lẽ phải ta nên giúp họ nhiều hơn, chớ lòng ta đâu vui xài của họ bằng cách gian tặc như vậy được. 

Tóm lại bất luận sự vật nào nếu không phải của ta thì nhứt định không được lấy và ta cũng không xúi cho kẻ khác lấy, ví dầu thiếu món ấy mà phải chết đi nữa, thà là ta chịu chết chớ không đành làm việc phi nghĩa có hại cho đạo đức của ta và người khác. 

Như vậy gọi là giới đạo tặc. 


Sắc đẹp là món ưa thích nhứt của cả một thế giới loài người, trái lại nó cũng chẳng kém gì hầm lửa, biển sóng hay giết được người dễ dàng, kẻ tu hành phải tránh nó, đừng đợi nó tránh mình. Thắng được nó là một việc rất khó, song không phải là không thắng được mà hễ khi thắng được nó rồi sẽ nhẹ được nửa phần chướng ngại của sự tu học. Cho nên sắc đẹp đối với người tu hành nào cũng cần phải thắng phục được nó, đừng để nó sai khiến lại mình. Dù nam nữ cũng vậy đều phải chú trọng lẽ trinh chánh làm gốc, sẽ coi nó là việc quan hệ đến đời sống hiện hữu và tương lai của mình rất nhiều mà hết sức bảo vệ cho trong sạch. 

Kẻ thắng được sắc đẹp là hạnh phúc, bại vì sắc đẹp là khổ nhục vậy. Cả đến sự nằm, ngồi, đi, đứng, nghe, thấy, nghĩ tưởng có thể phạm tội dâm được, nếu trong lúc đó nơi mình có chỗ quấy mà điều này bề trái của nó rất dễ phạm tội dâm, vì nó không hình và rất hại cho trí tưởng phải mờ ám điên đảo. Cho nên luật đạo răn ta không nên ve vãn vợ con người, phải giữ sự trinh trắng cho ta và cho kẻ khác, để tránh khỏi cái nhân quả hỗn loạn của ngày mai, việc này dù phải nát thây cũng gắng làm cho được, mới đạt đến quả phẩm siêu việt của đạo Phật. 

Như vậy gọi là giới tà dâm. 


Cái lỗ miệng là một tai trong tam tai, việc nói láo là một tội ác trong 4 tội ác của lỗ miệng, chuyện có nói không chuyện không nói có, việc đủ cho rằng thiếu việc thiếu cho rằng đủ, đặt điều kiếm chuyện làm cho giữa người này với người khác hiểu lầm nhau. Giao kết hứa hẹn ngày kia đổi ra ngày nọ và trước tụng đình không biết bao nhiêu sự đôi chối lẫn nhau, đến nỗi phải thề thốt đủ lẽ... Giai do một phần lớn của sự nói láo mà ra. 

Lời nói của mình thường được kẻ khác tín nhiệm, danh giá của mình đã làm cho người kính nể mà chỉ vì một việc nói láo là cũng đủ làm hư hại hết cả, mà khi đã bị hư hại thì khó mà thâu hồi như cũ được. 

Cho nên kẻ ở trong đạo đã hiểu lấy cái vọng ngữ là một cái hại cho sự tin tưởng, sự thân ái, sự hòa nhứt giữa nhau và cũng là một cái nhân không chánh đáng cho mình mà lúc nào cũng nhắm vào sự thật để mà nói năng, hứa hẹn và tường thuật với kẻ khác. Tránh tất cả chuyện mơ hồ sai siển, dối mị trong việc nói, dù hạng nào cũng vẫn giữ như thế. 

Như vậy gọi là giới vọng ngữ. 


Kẻ thù của trí não là rượu. Nói nhây nhưa nhầm lẫn, thấy cháng váng, mù lòa thần tri, dễ bị hỗn loạn điên đảo là kết quả của bịnh rượu vậy. Rượu khiến cho người gây nên tội sát nhân, tội tà dâm, tội phạm thượng, tội cướp bóc và tội hay đánh vợ mắng con, gây ó chửi rủa kẻ hàng xóm và đến phải nằm bờ ngã buội, la liệt đầu đường xó chợ, không còn biết nhục nhã xấu xa. 

Rượu dẫn người tới chỗ tù tội xấu hổ khôn cùng, kẻ tu hành đạo đức phải cự tuyệt nó không hề dùng đến một giọt nhỏ (chỉ trừ khi bịnh do lương y dạy cho mới được dùng, khi khỏi bịnh rồi thôi) để bảo vệ trí não được bình dị sáng suốt hầu tránh được mọi sự thấy biết sai lầm có tai hại cho mình và cho kẻ khác. 

Tóm tắt, rượu là một thứ có tánh nóng cực đoan, nó hay làm hư hại trí óc của ta, dễ dắt ta đến chỗ tội ác tình tệ và cũng làm trở ngại đức hạnh của ta chẳng nhỏ, nên ta tự quyết không uống rượu và cũng không bao giờ ước ao nghĩ tưởng đến nó nữa. 

Như vậy gọi là giới ẩm tửu.

 
Tóm lược, Tam quy Ngũ giới dạy cho ta phải nương về Đức Phật, chăm học pháp giáo của Phật và hướng theo các vị tăng sư chơn chánh để mà tu tập. Ngoài ra ta phải tránh hẳn sự giết chóc, trộm cướp, dâm loàn, láo khoét, chè rượu, đổi lại lòng nhân ái, bố thí, lễ độ, chân thật, sáng suốt và bồi dưỡng cội nguồn phước huệ cho ngày càng được phổ cập rộng ra khắp cả mọi người, thì sẽ nắm lấy được cái diệu quả nơi cõi chí thiện được. 

Thưa quý đồng đạo, Còn có cái phúc nào hơn được cái phúc chúng ta sắp chết trong cõi Hạ nguơn mà được Đức Thầy ra tay cứu vớt. 

Tuy trót 7 năm trường Đức Thầy vắng mặt, song không phải là tuyệt vọng mà là có một ngày gần đây Đức Thầy sẽ trở về. Và hiện giờ Sám Giảng vẫn còn sờ sờ tại nhà của mỗi chúng ta, ấy là phương dược rất mầu, để cứu sống chúng ta đến ngày kết cuộc. Chúng ta không để cho vật chất lôi cuốn, tiền bạc cám dỗ, sắc đẹp mê hoặc, hay một sức mạnh của danh vị nào trên đời này quyến rũ lòng chúng ta được. 

Chúng ta phải khắc phục được mọi lẽ ấy bằng cách tự giác lẽ “Dinh Hư Tiêu Trưởng” của trường đời một cách hẵn hòi, để tiến đến chỗ cao siêu của đạo đức. 

Có thế, chúng ta mới tránh được sự hối tiếc của ngày mai, vì tội lỗi mà hái lấy cái quả rất thê thảm dở dang cho đời mình.
04- Hồi 10 giờ 50 tại Tây An Cổ Tự: Nhân ngày Vía

04- Hồi 10 giờ 50 tại Tây An Cổ Tự: Nhân ngày Vía

Phật Thích Ca nhập Niết bàn
Tháng Hai thường lệ đến ngày Rằm,
Vía Phật Thích Ca nhập Niết bàn.
Nam nữ đồng tâm lai Cổ Tự,
Nguyện cầu thế giới sớm bình an.
Nhắc tới đạo khiến lòng chua xót,
Tiếc sanh linh từ giọt máu đào.
Muốn cho không bị mòn hao,
Nhưng ôi ! dòng máu cứ trào chưa ngưng.
Đêm ngồi nhớ rưng rưng nước mắt,
Ngày nghĩ ra ruột thắt gan bào.
Muốn cho đồng đạo cùng nhau,
Dưới trên đều được giồi trau tâm hiền.
Nhưng lắm kẻ tham tiền tham bạc,
Chẳng kể chi sống thác đồng bào.
Đến đây khuyên nhủ cùng nhau,
Từ nay xin hãy nêu cao tấc lòng.
Hãy tu tỉnh sạch trong chơn chánh,
Nên giồi mài tâm tánh thẳng ngay.
Cuộc đời dời dạt đổi thay,
Tuồng đời càng siết tới hoài không thôi.
E cho kẻ bạc vôi rồng rắn,
Khó mong gì sống đặng đến cùng.
Tuy là nay quá hào hùng,
Luật trời khi đến vẫy vùng khó thay.
Cất tiếng gọi gái trai đồng đạo,
Tưởng Đức Thầy trí não giồi mài.
Đường xa chớ lạc đừng phai,
Gánh gồng dầu mỏi chớ lay tấm lòng.
Phải gắng chí mới hòng thấy đạo,
Nên thiệt tình mới rõ báu năm non.
Phải gìn trọn nghĩa tôi con,
Dầu rằng lao lý chớ mòn chớ lơi.
Cuộc thay đổi cùng nơi khắp chốn,
Đâu cũng đều hỗn độn như mình.
Ngày kia nhờ có Ngọc Đình,
Ra tay mầu nhiệm để bình nhân gian.
Nay khuyên chớ sầu than lắm nỗi,
Phải thiệt hành giềng mối kệ kinh.
Mặc dầu lao lý đến mình,
Khuyên nên giữ lấy bạch trinh tấc lòng.
Tu thời phải có công có đức,
Cả hai điều gắng sức mà làm.
Tam quy ngũ giới phải kham,
Ba giềng năm mối rán làm chớ quên.
Mong đồng đạo được nên Tiên Phật,
Đến ngày cùng rõ biết cơ huyền.
Nay còn chờ cuộc biến thiên,
Để xem nhơn loại ngửa nghiêng thế nào.
Tài của chúng hùng hào cho mấy,
Dối có Trời xét thấy dễ không.
Ngày kia nhơn loại đại đồng,
Tưởng chừng như thể ở trong lửa lò.
Họa ấy thật rất to bớ chúng,
Cần trau giồi ắt cũng tránh xa.
Hỡi này đồng đạo trẻ già,
Sự đời càng mãi diễn ra tai nàn.
Bởi nhơn loại tham gian thái quá,
Mãi giành nhau cơm cá giết nhau.
Đến chừng nhơn loại đồng bào,
Thảy đều thương mến cùng nhau một nhà.
Vậy mới khỏi can qua khói lửa,
Được tránh ngày nghiêng ngửa đao binh.
Nay còn xao xiến chơn tình,
Kẻ hiền người dữ muôn nghìn lao lung.
Hỡi đồng đạo thủy chung như nhứt,
Để trau giồi đạo đức vẹn tròn.
Dầu cho biển cạn núi mòn,
Với lòng mình vẫn sắt son một màu.
Vậy mới được đạo cao đức cả,
Vậy mới rằng vị quả thơm tho.
Bây giờ hãy rán lần dò,
Tìm qua cho được chuyến đò từ bi.
Đời lao khổ bởi khi tận diệt,
Đạo lu mờ vì mất thiện căn.
Lắm người buổi trước xung xăng,
Sau rồi lảng trí không bằng khi xưa.
Nay đồng đạo sớm chưa gắng gổ,
Nên thành lòng Phật Độ chẳng xa.
Cuộc đời nhiều nỗi thiết tha,
Với lòng phải rán hiền hòa bớ dân !
Thương nhau phải lăm lần khuyên dứt,
Muốn cho nhau cùng bực sau này.
Cũng đồng gặp Phật gặp Thầy,
Cũng đồng dự hội Rồng mây non đài.
Đâu nỡ để nhơn loài thống khổ,
Há đành vui những chỗ điêu linh.
Nên đây khuyên nhủ tận tình,
Anh em đồng đạo rán gìn chớ buông.
Khuyên gắn chí qua truông vượt ải,
Để gặp kỳ Tướng bái Đàn đăng.
Tuy là tình trạng khó khăn,
Ơn Trên cũng đã bủa giăng lưới mầu.
Tội với phước hai đầu định rõ,
Dữ hay lành đã có phân minh.
Chỉ còn chờ sắc Ngọc Đình,
Ra oai thì mới được bình thế gian.
Nay khắp xóm cùng làng dưới thế,
Có Phật Tiên bày kế đã rồi.
Thuốc men hoặc giúp bằng lời,
Gọi kêu chư chúng biết đời Hạ nguơn.
Kẻ hữu chí xác thân chẳng kể,
Quyết trau giồi kinh kệ được tròn.
Dầu cho ốm yếu gầy mòn,
Dầu cho tai nạn lòng son một màu.
Kẻ ngu dại được trau tâm tánh,
Đến ngày kia nhập thánh siêu phàm.
Nhưng người quỉ quyệt khôn ngoan,
Ỷ mình tài cán chẳng toan tu trì.
Sau trở lại ngu si dại dột,
Lại còn e chẳng được sống còn.
Cuộc đời nhiều nỗi thon von,
Anh em đồng đạo rán bòn phước duyên.
Tu cho rạng con Tiên cháu Phật,
Tu cho thêm non nước rỡ màu.
Một phen nước mạnh dân giàu,
Cũng nhờ trên có Thiên Tào giúp tay.
Muốn cả thảy ai ai cũng được,
Nhờ ơn trên ban phước ít nhiều.
Ngày nay giữ lấy qui điều,
Gia công lạy lục sớm chiều chớ quên.
Tu phải được vững bền tâm chí,
Ngọc mài lâu ngọc ấy mới tinh.
Mặc dầu hiền hậu lấy mình,
Không làm việc phước chơn tình cũng lu.
Khuyên người hay cần tu cho chóng,
Bởi cuộc đời đã mỏng lắm rồi.
Đời ơi ! kia hỡi đời ơi,
Vì đâu mà phải có lời dạy khuyên.
Bởi muốn kẻ thoát miền lao khổ,
Bởi cuộc đời sắp đổ cũng gần.
Muốn sao cho được toàn thân,
Muốn sao cho khỏi chịu phần nát tan.
Nên đây phải kêu vang từ chập,
Muốn cho người tu tập tháng ngày.
Từ đây đồng đạo gái trai,
Những ngày sóc vọng vãng lai chùa này.
Để nghe giảng nhớ Thầy nhớ đạo,
Để trau giồi ngay thảo ý mình.
Bởi vì thế cuộc linh đình,
Nay vầy mai khác chưa bình chưa yên.
Sợ đồng đạo vì tiền vì bạc,
Để lương tâm phai lạc lu mờ.
Nên đây phải dụng kệ cơ,
Khuyên người gắn bó hằng giờ chớ phai.
Hỡi đồng đạo gái trai già trẻ,
Đi đến đây lặng lẽ để nghe.
Nghe rồi khuyên hãy e dè,
Tránh điều tội ác mới là thiệt tu.
Nay cuộc thế dân đâu cũng loạn,
Nhờ Phật Trời Ngài rán chở che.
Để cho dân chúng khỏi mê,
Lại còn được chóng quay về Bồng Lai.
Đến đó mới an cư bình thản,
Khỏi vướng điều tai nạn hải hùng.
Đạo đồng khuyên hay giữ lòng,
Đừng cho ma quỉ đèo bồng nhiểu nhương.
Tâm với trí thường thường mài miệt,
Đức cùng ân cần thiết lo làm.
Một khi đạo lý gìn kham,
Thiên cơ sẽ rõ Bắc Nam sẽ tường.
Muốn cho kẻ hiền lương chơn chât,
Ấy là điều chưa Phật mong chờ.
Đạo đồng khuyên chớ ngẩn ngơ,
Có ngày sẽ được hết mờ hết lu.
Nay phải rán cần âu việc phải,
Nên lo làm chớ nại nhọc nhằn.
Như xưa Tam Tạng Đường Tăng,
Gian lao biết mấy mới thăng Phật Đài.
Tu sung sướng khó thay cho thế,
Tu nhọc nhằn Ngọc Bệ mới gần.
Nay chưa đến việc họa Tần,
Mà trong bá tánh lui lần chữ tu.
Khuyên hãy rán vọng cầu trên trước,
Sớm mau đem việc phước rải ban.
Khiên người mình thịt hóa vang,
Chống nơi tà mị mới an bớ trần.
Lời khuyên nhủ đạo đồng vưng chi,
Từ nay đây đạo lý giồi mài.
Ngày kia mới đặng gặp Thầy,
Lại còn chứng quả non đài xuê xang.
Nay tề tựu Tây An Cổ Tự,
Cùng nhau nghe từ chữ từ câu.
Ra về hãy để nhớ lâu,
Đặng ma trau trỉa đạo mầu nơi tâm.
Mong cho kẻ ngọc lâm bước tới,
Muốn sao người đại hội được gần.
Nay đây mài miệt tâm thần,
Khuyên đừng uể oải bớ dân thời này.
Như Đức Phật, Đức Thầy xuống thế,
Bởi thương đời bê trễ đường tu.
Sợ ngày tiêu diệt ám u,
Mới đem đạo lý vân du phổ truyền.
Hỡi đồng đạo não phiền hay dứt,
Điều tham sân nên diệt cho cần.
Ngày kia mới được an thân,
Là ngày gặp Phật gặp Thần vui tươi.
Lời khuyên nhủ mọi người gắn bó,
Tiếng giảng khuyên cho đó vui lòng.
Đến đây chào hết đạo đồng,
Giảng cơ đã dứt thong dong ra về.
15 tháng 2 Quý Tỵ -Tức ngày 20 tháng 3-1953.
05- Ngày 30 hồi 10 giờ 55 tại Tây An Cổ Tự: Tam Độc

Ngày 30 hồi 10 giờ 55 tại Tây An Cổ Tự

Hỡi đồng đạo,
Nay ngày 30 tháng 2 năm Quý Tỵ, lần giảng này là kỳ thứ ba của phiên giảng thường lệ ở tại ngôi Tây An Cổ Tự.
Muốn đem lại cái kết quả chắc chắn của người hành đạo trong nền đạo Phật Giáo Hòa Hảo, tôi không ngần ngại đem ra bàn giải cùng các chư đồng đạo. Có 3 điều độc hại trở ngại cho sự đạo đức của chúng ta như sau:

1- Độc Tham Lam:
Tại sao gọi tham lam là độc? 
Đối với cái lợi nó hay làm mờ ám đôi mắt của người, khiến cho cho nước lớn xâm chiếm nước nhỏ, khối mạnh lấn hiếp khối yếu, giàu sang bức sách nghèo hèn và cá nhân này mưu hại cá nhân nọ, gây ra nhiều cuộc nồi da xáo thịt, chém giết ghê tởm, đều chỉ vì muốn tham lấy cái lợi cho mình mà tạo thành sự tranh đấu khốc liệt, để phải tội lỗi tàn ác cho người và cho mình điêu linh khổ sở.

Rốt lại nó cũng không đưa mình đến chỗ vinh diệu trường cửu mà chỉ thường đem lại cho mình một cái chết vô nghĩa.
Cho nên gọi cái tham lam đó là độc.

2- Độc Sân Hận:
Tại sao gọi sân hận là độc?
Đối với vua tôi hốt nhiên lỗi trung, đối với cha mẹ hốt nhiên lỗi hiếu, đối với vợ chồng hốt nhiên lỗi nghĩa, đối với anh em hốt nhiên lỗi hòa, đối với bậu bạn hốt nhiên lỗi tín, dễ gai mắt dễ trái tai, dễ nói ra những lời cắt đứt sự thân yêu cung kính và dẫn đến sự thoi đánh, chém giết, chửi rủa, đưa thân ra tụng đình, dẫn mình đến chỗ tù tội, cuộc sanh hoạt dễ bị hư hỏng tan nát, con người mau cằn cỗi bịnh tât, không đem lại cho ta cái khoan nhã thư thái nào, lại thường làm cho ta phải cuồng táo khổ nhục. Các điều này chỉ do lòng sân hận gây ra.

Cho nên gọi cái sân hận đó là độc.

3- Độc Mê Si:
Tại sao gọi mê si là độc?
Những cái phải cho là quấy, cái quấy cho là phải, những cái chánh cho là tà, cái tà cho là chánh, những
cái thật cho là hư, cái hư cho là thật, điều lành việc dữ luôn luôn hiểu ngược lại, làm cho sai siển chơn lý, gieo ra nghiệp nhân đen tối từ một người này đến một người khác, chằn chịt, chồng chéo lẫn nhau để phải buộc vào cái bánh xe luân hồi sanh tử trong cõi Ta Bà mà mỗi chúng sanh từ khi vô thỉ đến nay, đã gấp mấy lần muôn triệu kiếp mà chưa thoát thân ra được. Trái lại càng ngày càng thêm siết buộc cho mình vào đường tội lỗi mà tựa hồ như ngây như ngất, chưa nhận ra đâu là sanh tử đâu là Niết bàn, để mãi chịu thời gian giết mòn, vô thường vật ngã, xương thịt chồng như núi Thái sơn, huyết lưu đỏ như biển đại dương, nước mắt chảy dầm dề hơn suối thác, mọi việc ấy toàn là ở trong cái luyến ái, cái dục lạc mà nguồn gốc của nó sanh chỗ mê si.

Thế nên gọi cái mê si ấy là độc.

Tham, sân, si ba điều này độc hại như thuốc độc, như rừng lửa, như lượn sóng to nó hay làm chìm hay
đốt rụi và hay giết chết cội phước sinh mạng trí huệ của ta. Chúng ta không nên dung túng nó một cách
cẩu thả, cần phải tìm cách để đối trị: Thay gì cái tham lam đổi lại cái bố thí, cái sân hận đổi lại cái nhẫn nhục, cái mê si đổi lại cái trí huệ, thì cái tham lam, sân nộ, mê si không còn nữa.

Thưa đồng đạo,

Con người của chúng ta chẳng may sanh nhằm cái đời chiến tranh hỗn loạn, quanh mình đầy dẫy những
gai gốc tàn ác, hầm hố tội lỗi. Tuy nhiên còn được chút duyên lành mới gặp Đức Thầy ra đời, nhủ lòng từ bi dạy dỗ chúng ta được biết sự nhân quả luân hồi mà gắng sức tu hành làm lành lánh dữ. Để trước độ rỗi tổ tiên, cha mẹ được siêu thăng, sanh linh dân tộc khỏi đồ thán và sau đó cũng là một phương nhiệm cứu lấy chúng ta khỏi nỗi oan khiên, xa nơi bể khổ.

Nếu chúng ta không nhận lấy cái cơ hội này để tu hành, thì một ngày kia nó đã qua rồi không sao tìm
được, ngày ấy là ngày chúng ta rất hối tiếc, nhưng đã muộn.

Vậy đồng đạo cũng như tôi khó thể bỏ qua. Mỗi người phải tự trau lấy đức hạnh của mình, hầu đưa
mình đến ngày thành đạt đạo quả:

Rèn lòng thương hết sanh linh,
Học theo gương Phật quên mình cứu dân.
Quản chi gầy ốm xác thân,
Miễn cho đạo lý bủa gần đến xa.
Khiến cho trên thuận dưới hòa,
Cùng trau lấy một sắc dà đấy thôi.
Gác qua tất cả việc tồi,
Để làm dân sự đứng ngồi được an.
Nay đành cất một lời than,
Than đời không chúa như thoàn chạy khơi.
Biết đâu góc biển chân trời,
Trong cơn tấn thối giữa vời lưỡng nan.
Lại là cùng phải thở than,
Lúc này Thầy lại xa ngàn ở đâu.
Trong cơn gió thảm mưa sầu,
Lắm điều khổ nạn một bầu chịu chung.
Từ đây thế cuộc hãi hùng,
Cầu trên Chư Phật nhủ lòng cứu dân.
Đức Thầy mau sớm trở chân,
Dắt dìu bổn đạo thoát lần nạn tai.
Hỡi này đồng đạo gái trai,
Từ đây phải rán miệt mài chữ tu.
Vì thân lao lý mặc dù,
Với lòng cũng vẫn sự tu vuông tròn.
Tu cho rạng vẻ nước non,
Tu cho nhơn loại sống còn mai sau.
Tu cho khắp cả đồng bào,
Thảy đều hưởng lấy sắc màu thơm tho.
Nay đây người phải rán lo,
Cuộc đời còn lắm gay go chưa ngừng.
Sợ e nhiều cuộc dửng dưng,
Hết Phiên rồi kế họa Tần đảo điên,
Lại còn giặc dậy ngoài biên,
Ở trong nội địa ngửa nghiêng vô cùng.
Ấy là tai họa trần trung,
Ngày giờ tận diệt khó hòng tránh xa.
Mỏi mong đồng đạo trẻ già,
Từ đây rán niệm Di Đà chớ quên.
Đức Thầy vẫn ở một bên,
Vô hình hữu ảnh người hiền chớ ly.
Nếu mình lòng tưởng từ bi
Ắt là sẽ được hưởng thì nhiệm sâu.
Khuyên nhau trau trỉa đạo mầu,
Từ đây phải rán khẩn cầu thêm lên.
Phải cần hòa thuận dưới trên.
Từ Nam chí Bắc hãy bền tâm tu.
Đừng cho đạo lý mờ lu,
Phải cần gìn vẹn một câu tín thành.
Không nên úy tử tham sanh
Phải cần liều chết giữ tình hiền lương.
Mặc dầu gai gốc bốn phương,
Với tâm hiền Đức Phật đường cứu cho.
Cảnh tình thiệt quá đắn đo,
Nhưng mà chơn chánh khỏi lo nạn nghèo.
Mong sao qua ải leo đèo,
Mỗi người được thoát hùm beo khỏi nàn.
Để cùng chầu đức Minh Hoàng,
Để cùng gặp hội Nhà Bàng thử nao.
Sự tư thì phải gian lao,
Gian lao mới được quả cao bớ người !
Mặc ai nói nói cười cười,
Phận mình cứ giữ cho đời thanh cao.
Dẫu rằng bão táp ồ ào,
Tâm kia bình tịnh được vào cõi Tiên.
Khỏi đeo các cuộc trần duyên,
Không còn luân chuyển nơi miền phàm gian.
Ơn trên chư Phật giáo troàn,
Bởi vì thấy chúng mê mang giấc sầu.
Sợ cho đến cuộc đáo đầu,
Vì gây tội ác khó hầu tồn sanh.
Nên chi đem mối đạo lành,
Giảng cho tất cả nhơn sanh nghe tường.
Nghe rồi đạm bạc rau tương,
Tu hành hai chữ hiền lương ân cần.
Lại làm tròn việc Tứ Ân,
Tránh xa Thập Ác mới gần Phật Tiên.
Cuộc đời còn lắm đảo điên,
Sợ e thế giới ngửa nghiêng tan tành.
Việt Nam dân quốc rối đoanh,
Xiết bao khốn khổ dữ lành chịu chung.
Nhưng mà đến cuộc hãi hùng,
Hiền còn dữ mất lẽ trong luật Trời.
Khuyên ai hãy nhớ từ lời,
Ra về cũng rán gìn nơi chơn thành.
Nhớ rằng tu phải thiệt hành,
Ăn chay thì phải làm lành mới chay.
Niệm Phật thì phải làm ngay,
Mới là theo kịp với Ngài Phật Tiên.
Xưa kia các đấng thiêng liêng,
Cũng là chịu khổ vô biên đấy rồi.
Mới là được có vị ngôi,
Mới là siêu xuất hơn người trần gian.
Bây giờ thế giới nghinh ngang.
Dựa vào vật chất mà toan phế Trời.
Chừng khi tai nạn đến nơi,
Sức mình đã kiệt mới lời vái van.
Chừng ni thì rất muộn màng.
Phật Trời đâu cứu bạo tàn bớ dân !
Nhủ khuyên đồng đạo xa gần,
Bởi vì nay cái xác trần chưa yên.
Mai còn đeo cai bịnh phiền,
Cho nên không thể giảng khuyên được nhiều.
Đến đây chỉ có mấy điều,
Chúc cầu đồng đạo được nhiều phước duyên.
Lời giảng đến đây đã dứt rồi,
Đạo đồng lớn nhỏ đứng hay ngồi.
Thung dung cất bước ra về nghỉ,
Kỳ tới sang nghe chớ thả trôi.

Dứt hồi 11 giờ 10 phút, 30 tháng 2 Quý Tỵ (tức 13 tháng 4-1953).

THÁNG BA:
06- Ngày Rằm, hồi 11 giờ 5 phut tại Tây An Cổ Tự: Thân Ngũ Uẩn

Ngày Rằm, hồi 11 giờ 5 phut tại Tây An Cổ Tự: Thân Ngũ Uẩn – Thơ: Văng Đức Thầy

Thưa quý đồng đạo,
Lòng tôi lấy làm hoan hỷ và cảm động mà nhận thấy 3 kỳ giảng qua rồi cho đến kỳ giảng này, anh em đồng đạo càng lúc càng đến nghe đông đảo. Cái hoan hỷ của tôi là vì tôi tin có một ngày gần đây nền Phật giáo sẽ chấn hưng lại được. Cái cảm động của tôi là vì tôi được thấy giờ phút đen tối này mà lòng tin tưởng, sự cố gắng đạo đức của đồng đạo còn nhiều.

Thưa quý đồng đạo,
Hôm nay tôi xin giảng về cái “Thân Ngũ Uẩn” giả hợp quá ư dơ bẩn và cam chịu mọi nỗi đau khổ vô tận của con người.
Người đời thường cho xác thân là tốt đẹp sạch sẽ, nếu tô điểm chuốt gọt nước thơm xà phòng vào thì lại
càng tự đắc, cho cái tốt đẹp cái sạch sẽ đó được tăng thêm gấp bội. Thế rồi cứ tha hồ mà vui sướng theo mọi hình ảnh do các thị dục biến hóa ra.
Song họ quên rằng cái xác thân nó bọc ngoài một lớp da mịn màng hào nháng, chỉ được tạm gọi là đẹp đẽ, Chớ kỳ thật, bên trong của nó chứa đầy một bộng to tướng nào là: Gan, ruột, phổi, phèo, tim, cật, xương, mỡ, máu, thịt và cứt đái...v. v... Rất đỗi dơ bẩn, còn bên ngoài của xác thân thì có chín lỗ như: Hai lỗ con mắt thì có ghèn cháo, hai lỗ tai thì có cứt rái, hai lỗ mũi thì có nước mũi, một cái lỗ miệng thì có đờm đạnh, hai lỗ đại tiểu thì có nước phẩn và nước tiểu. Mỗi ngày nó thường rịn chảy những mùi chất hết sức thúi hôi, không khác gì cái cầu tiêu. Cái bọc đồ dơ dáy mà lúc nào con người cũng phải mang đai theo mình một cách nặng nề bẩn thỉu. Dầu cho bậc vua chúa cũng phải như vậy, chớ không tài nào tránh khỏi được.
Như thế mà bảo cho xác thân tốt đẹp sạch sẽ được ư?
Thương ôi ! bởi chúng sanh không nhận ra được sự dơ bẩn của xác thân, nên phải đem hết cả tâm thần
sức lực của mình bổ vào sự đòi hỏi trau chuốt của thân xác thái quá. Rốt lại cũng chỉ đeo lấy cho mình mọi nỗi đau khổ, do lòng ham muốn ích kỷ không được thỏa mãn là cùng, Cái đau khổ của con người có thể kể ra một vài điều trong cả ngàn muôn điều đau khổ như sau, để cho chúng ta xét nghiệm như:

1- Hồi còn trong bụng mẹ thì cái thân này chẳng khác nào bị giam cầm trong ngục tối, ngồi chồm hỗm trên đồ ăn của mẹ vừa ăn tiêu, đỡ đội đồ ăn của mẹ vừa mới ăn vào, cái đi đứng nằm ngồi của người mẹ cũng đều dễ khiến cho đứa con phải giựt mình khiếp sợ cả. Đến ngày lâm bồn của mẹ, thân đứa con phải trải qua một cơn hoảng hốt, rồi mới chen ra khỏi thân mình của người mẹ được, chẳng khác nào một con tượng lớn mà phải chen qua kẹt đá nhỏ hẹp vậy. Mà thôi đâu, sau đó cái thân đứa trẻ còn phải chịu một hồi tắm rửa của bà hộ sanh gần muốn đứt ruột, vì da thịt còn non bị xối nước vào, quá ư đau rát.
Đó la cái đau khổ thứ nhứt.

2
- Từ đó cái thân mới dần dần lớn lên cả tâm hồn lẫn xác thịt, đều bị sự chi phối sự hấp dẫn của cảnh đời:
Nào là phải nỗ lực tranh đấu cho có danh vị lớn lao, có hầu thiếp đẹp đẽ, có nhà cửa đồ sộ, có xe tàu lộng lẫy, có tiền của dồi dào, có đất đai mênh mông, có thế lực mạnh mẽ, có vậy kiếng đông đảo và có cả mọi sự thỏa thích của nhục dục. v. v... Cái muốn này khiến cho con người quên mất cái nặng nhọc, cái luồn lụy mà không được như ý nguyện, hoặc được rồi lại mất đi khiến cho lòng đâm ra phiền não.
Đó là cái đau khổ thứ hai.

3- Những người thân yêu của mình, bình thường gần gũi quyến luyến như: Cha mẹ, vợ con, quyến thuộc chẳng hạn, rủi phải chết mất đi, xa cách đi, hoặc bất ngờ mà phải lạc loài thì khiến cho lòng phải nhớ thương trông ngóng, ăn không ngon ngủ không yên, tâm não thồi thộp bối rối. Nước mắt rơi chứa thành sông, mồ hôi đổ như nước xối, kẻ khóc đứng người than ngồi, thân người trở nên võ vàng tiều tụy, có nhiều khi muốn chết theo, hoặc đi theo mà không làm sao được, lại có khi phải điên cuồng xé quần, xé áo, ca hát nghêu ngao giữa chợ ngoài đường không còn biết gì là xấu hổ.
Đó là cái đau khổ thứ ba.

4
- Những kẻ thù ghét nhờm nhụa của mình, lòng mình không muốn gặp gỡ ưa thích mà trái lại phải gặp
gỡ đối phó, hoặc giả vì hoàn cảnh bắt buộc cho mình phải luồn lụy những việc mà ý mình không muốn.
Đó là cái đau khổ thứ tư.

5
- Các việc ở trong người của mình như sung sướng quá, cực nhọc quá, thương yêu quá, ghét sợ quá, đói quá, ngủ quá, thức quá, mập quá, ốm quá. v.v...
Mất sự thăng bằng trong người trở lại khó chịu.
Đó là cái đau khổ thứ năm.

6
- Ngày tháng trôi qua giết mòn cái son trẻ, cái khỏe mạnh của con người đi, để đến một tuổi già thân hình xấu xí, da dùn như vỏ ổi, đầu bạc tựa gối sương, mắt thấy không đặng xa, tai nghe không đặng tỏ, gối mỏi lưng cong, đi đứng chậm chạp, nói năng hiểu biết lầm lẫn nhiều điều mà cũng phải gượng ăn uống, gượng thuốc men để cầu thêm sự sống.
Đó là cái đau khổ thứ sáu.

7
- Có thân, lẽ phải cam chịu bốn mùa nóng lạnh, hai khi nắng mưa thì tránh sao cho khỏi cái bịnh, hơn nữa thân con người rất dễ gây bịnh, nếu sau một cơn mưa nắng quá sức cầm cự của xác thân, hoặc ăn uống hoặc thức ngủ không giờ giấc. v.v... Cũng có thể sanh bịnh được.
Đến khi trong người có bịnh chẳng luận nặng nhẹ đều thấy khó chịu, song nếu bịnh nhẹ thì bịnh nhân chỉ lo sơ sài thôi. Trái lại, bịnh nặng thì bịnh nhân chợt nhớ đến cái chết mà phải lo lắng chạy chữa đủ phương, để cầu lấy cái mạnh, cái lo chạy này không nhứt định vào hạng nào mà hết thảy giàu nghèo, chi đến kẻ dư trăm tuổi cũng vẫn lo chạy như đứa nhỏ một tháng. Bịnh nhơn đành phải lo sợ cho tính mạng của mình nhiều hơn. Trái lại các người ở chung quanh bịnh nhơn, với sự lo sợ ấy cũng không kém, kẻ nằm trơ thim thíp, người ngồi ngó lom lom, đôi đàng ăn không ngon ngủ không yên, thầy bà chạy vạy thuốc men lu bù, chỉ cầu cứu cho bịnh nhân được mạnh. Thật không còn cái khổ cái nghèo nào hơn cái bịnh.
Đó là cái khổ thứ bảy.


8
- Đứng sau cái bịnh là cái chết, cái chết này nó chẳng hẹn già, nó cũng không hẹn ngày, nó nhắm lúc
nào nó có thể đến được thì đến, chớ không nể sợ một ai cả. Còn chi đau khổ hơn cái chết, lúc gần chết,
nghĩa là trong cơn hấp hối, thì trong người bức ngặt vô cùng, hơi thở cái ngắn cái dài, chết từ lóng xương, đứt từ đoạn ruột vì tiếng kêu than của kẻ thân yêu đang đứng xoay quanh, kẻ sắp chết lòng muốn được sống và cố gượng lấy hơi thở để được sống mà không sao sống được, thì những sự luyến tiếc thương yêu vợ con, nhà cửa, danh vị, của tiền đó rất là bực tức đau khổ mà ôm theo cái hơi thở cuối cùng, kế nghe lên tiếng ghê rợn thê thảm ấy là thân nhân của kẻ bất hạnh kêu má kêu cha. v.v...
Đó là cái đau khổ thứ tám.

Bao nhiêu sự nghiệp vĩ đại trong cái khôn ngoan, bao nhiêu cơ đồ vương bá trong cái mạnh bạo, cũng như bao nhiêu cái sanh hoạt đơn giản, cái đời sống thanh đạm của con người bất hạnh ấy đến đây không còn nữa, nó chỉ lưu lại trong sử sách, hay ngoài cửa miệng của người đời những lời bình phẩm tốt xấu mà tỏ ra kính trọng hoặc khinh chê vậy thôi.

Thưa đồng đạo,
Cũng vì bao nhiêu nỗi đau khổ này, mà Đức Thầy của chúng ta đành phải buộc lòng xa cha già mẹ yếu,
lìa chị lớn em khờ, đi đó đi đây kêu gọi dạy bảo cho chúng ta sớm biết quay đầu về đường đạo đức. Vì cái đạo đức ấy mới có đủ năng lực cứu thoát chúng ta khỏi được mọi nỗi khổ đau. Tại sao? Vì cái đau khổ này giai do ở cái nghiệp tạo quá khứ và cái nhân duyên đương đời của chúng ta mà có, song cái nghiệp nhân ấy kỳ thật do ta kiến, cái vị ngã nó kết thành mà kẻ tiêu diệt được nó chính là ta.

Gia dĩ, cõi Hạ nguơn này chẳng khác nào đợt sương trên ngọn cỏ, chỉ mành treo chuông to, chuông kia sẽ rớt, sương nọ phải tan, vì không chịu nổi cái sức nặng, cái ánh sáng của mặt trời. Chỉ mành đó là cái phước mong, chuông to nọ là tội dầy của chúng sanh, đợt sương ấy là ác khí của Hạ nguơn, ánh sáng mặt trời đây là thiên đạo của Thượng nguơn vậy.

Nhắm vào các nguyên nhân trên đây, mà chúng ta tự quyết định cho cái sự tu của chúng ta được đi đến chỗ thành tựu viên mãn, hầu đáp ơn cho Đức Thầy, cho tổ tiên cha mẹ, cho cả chúng sanh và cứu cho ta thoát khỏi biển khổ sanh tử.

Tôi xin nhắc lại một lần nữa rằng: Cái xác thân tứ đại của con người rất là dơ bẩn và cam chịu mọi nỗi đau khổ, chúng ta không nên quyến luyến nó nhiều, song không được hủy hoại, phải mượn nó làm chiếc thuyền đưa chúng ta qua sông.

Vì ngoài cõi Ta Bà này thuộc về hướng Tây, cách đây chừng mười muôn ức cõi Phật, có một nước hiệu
là Cực Lạc, do Đức Phật Di Đà làm giáo chủ, xác thân chúng sanh nước ấy do bông sen hóa thành, bền chắc như kim cang không biên hoại, không già bịnh chết chóc, có lục thông, đáng cho chúng ta thác sanh về đó.

Không nữa, ngày Thượng nguơn sắp đến gấp, cái tôn chỉ Phật giáo chúng ta đang sùng bái đây, chính nó là một ngọn đuốc lớn nhứt hiện giờ, có đủ sức sáng đưa dắt chúng ta đến đó. Cõi Thượng nguơn này như cõi Thiên Đàng vậy.

Chúng ta phải hăng hái lên, để trau giồi đạo đức chơn chánh cho có nhiều đức hạnh, nhờ các đấng bề
trên ủng hộ cho chúng ta đến được cõi Thượng nguơn Thiên Đàng ấy. Vì nó là một phần thưởng vô giá của chúng sanh hiền đức trong kiếp Hạ nguơn này.

Nhìn nhau ma băt mủi lòng,
Xa Thầy ta phải bế bồng lấy nhau.
Nhìn nhau mà giọt lệ trào,
Trò đây Thầy ở phương nào bặt tin.
Nhìn nhau mà bắt động tình,
Thân mình no ấm Thầy mình ra sao.
Nhìn nhau đau lại càng đau,
Xa Thầy con trẻ khác nào mù đui.
Nhìn nhau chi siết ngậm ngùi,
Xa Thầy bổn đạo rối nùi như tơ.
Nhìn nhau lòng luống ngẩn ngơ,
Xa Thầy bổn đạo như cờ túng con.
Nhìn nhau lòng bắt héo von,
Xa Thầy con trẻ như còn xác trơ.
Nhìn nhau đôi mắt muốn mờ,
Xa Thầy bổn đạo như tờ giấy lem.
Thấy vầy đâu nỡ ngồi xem,
Ra tay dìu dắt cùng đem một đàng.
Thương nhau đâu nại khổ nan,
Lấy lời đạo đức dịu dàng réo kêu.
Thương nhau nước bọt mây bèo,
Muốn đem kết lại trôi theo một dòng.
Thương nhau như đứa tiểu đồng,
Lạc tiên trong cảnh vô cùng thảm thê.
Thương nhau vẽ mặt làm hề,
Muốn cười phải khóc muốn trề phải khen.
Thương nhau thời vận còn đen,
Noi gương Hàn Tín theo đàng Quan Công.
Thương nhau như cá ròng ròng,
Xa bầy lạc mẹ giữa đồng bơ vơ.
Thương nhau như chuối ngoài bờ,
Gió giông thổi mạnh xác xơ từ tàu.
Thương nhau vàng ít nhiều thau,
Lâu ngày ten đống sắc màu hết tươi.
Thương nhau buổi trước mười người,
Bây giờ còn lại đâu thời đôi ba.
Thương nhau trong cảnh gà nhà,
Lại đanh bôi mặt để ma chọi nhau.
Thương nhau như cảnh bên Tàu,
Hai phe Quốc Cộng đánh nhau tơi bời.
Thương nhau như hạn nắng trời,
Đồng khô cỏ cháy vô hồi thon von.
Thương nhau như mẹ lạc con,
Kẻ trông người đợi mõi mòn con ngươi.
Thương nhau khuyên nhủ từ người,
Từ đây phải rán vẹn mười nghĩa ân.
Thương nhau đạo lý chuyên cần,
Để mà gặp hội Phong Thần đặng xem.
Thương nhau đoàn tụ chị em,
Để mà gắng gổ có đem đường lành.
Thương nhau như sợi chỉ mành,
Mà treo chuông lớn nỗi tình héo von.
Thương nhau muốn được sống còn,
Phải cần giữ vẹn lòng son một bề.
Thương nhau bớt miệng nhún trề,
Hãy nên đau xót đem về giúp nhau.
Thương nhau đâu quản gian lao,
Réo kêu từng chập tiếng gào chẳng ngưng.
Muốn cho nhau rèn đúc tinh thần,
Cho tròn Mười thiện Bốn ân của Thầy.
Cuộc đời lao lý dẫy đầy,
Anh em đồng đạo nhớ Thầy chớ ngưng.
Sự tu phải rán ân cần,
Con đường diệu viễn bươc gần tơi nơi.
Dầu cho lao khổ với đời,
Tâm kia khá giữ một lời sơn minh.
Lúc nào cũng phải tưởng tin,
Có Trời có Phật mà gìn luật răn.
Những điều trái việc Pháp, Tăng,
Phải nên rứt bỏ đạo hằng mới cao.
Anh em đồng đạo cùng nhau,
Hôm nay tạn mặt lời trao tận tường.
Phải cần trau trỉa cho thường,
Nhắm vào hai chữ hiền lương mà làm.
Tu cho thấy cảnh trời Nam,
Những người nhập thánh siêu phàm hữu duyên.
Tu cho rạng mặt tôi hiền,
Được gần thánh bệ sạ duyên mới lành.
Tu sao cho được đắc thành,
Ngày kia mới toại ý mình chơn tu.
Sự tu thì phải công phu,
Sớm chiều lạy lục khẩn cầu chớ quên.
Phải cho dai dẻo bỉ bền,
Mới là thân nọ được lên sen vàng.
Sự tu phải giữ ngay đàng,
Mới là thoát khỏi cuộc nàn mai sau.
Trẻ già đồng đạo cùng nhau,
Đến đây thì rán sửa trau cho hiền.
Ở đây là cảnh chùa chiền,
Tây An Cổ Tự di truyền Phật Ông.
Đến đây thì phải tỉnh lòng,
Làm sao cho được sạch trong mới là.
Sự tu bất luận trẻ già,
Thành lòng niệm Phật Di Đà được siêu.
Từ đây trong lúc sớm chiều,
Nhớ Thầy tưởng Phật nâng niu tháng ngày.
Dầu cho trăm đắng ngàn cay,
Khuyên người hãy rán miệt mài chơ buông.
Vươn mình để có qua truông,
Ngày kia mới gặp được tuồng khải ca.
Thấy nhau mà ứa ruột rà,
Bề ngoài vô số trong đà ít oi.
Làm sao cho rạng cốt nòi,
Làm sao cho được dễ coi bớ người !
Sự tu không phải trò chơi,
Đây là việc Phật việc Trời rất cao.
Miệt mài cần mẫn sửa trau,
Không giờ phút để lảng xao mới thành.
Cuộc đời như sợi chỉ mình,
Không tu ắt phải tan tành thây thi.
Phật Tiên vì tánh từ bi,
Xuống đời nào có quản chi khổ sầu.
Miễn là khắp cả năm châu,
Vạn dân đều biết cúi đầu quy y.
Đặng cho kịp đến khoa kỳ,
Long Hoa chiếm bảng vậy thì mới vinh.
Nay còn rối loạn quân binh,
Vạn dân phải chịu điêu linh khổ nàn.
Tâm người đồng đạo vững vàng,
Tin rằng Tiên Phật nhãn quang soi tường.
Đức Thầy chừng thuận buồm trương,
Trở về dìu dắt bốn phương vui vầy.
Hiện nay trong cảnh chua cay,
Tớ xa Thầy rất khổ thay cho mình.
Muốn lòng kia được hiền lành,
Ắt Trời Phật giúp cho mình thảnh thơi.
Lời khuyên đồng đạo đôi nơi,
Từ đây cuộc thế giữa vời linh đinh.
Phải cần xem Bắc Đẩu tinh,
Để mà tìm thấy được bên mé bờ.
Cuộc đời thay đổi ai ngờ.
Rán tu được có hưởng nhờ bớ dân !
Tại sao có Phật có Thần.
Bởi người trung nghĩa hiếu ân vẹn tròn,
Muốn sao rồi phận tôi con,
Giữ đường trong sạch mới còn bớ ai !
Khuyên răn hãy nhớ miệt mài,
Đạo đồng già trẻ gái trai phải hành.
Cần chiêm nghiệm kiếp phù sanh.
Là đời tạm giả để mình gắng tu,
Tu cho vén ngút mây mù,
Huệ tâm được phát ngục tù được ra.
Bây giờ nhiều quỉ nhiều ma,
Khuyên người tỉnh mỉnh mới là tránh xong.
Phải cần chí sức gia công,
Tu cho gặp hội Hoa Long mà nhờ.
Nay chưa đến bến đến bờ,
Thuyền kia còn phải dật dờ giữa sông.
Ấy là tuồng sâp hóa công,
Rất nên nhặc nhiệm phàm không biết nào.
Tại sao Nam Bắc, Tây Tàu,
Mỗi ngày đánh đập ồn ào gớm ghê.
Bởi vì sắp tẩy trần mê,
Cho nên có cuộc ủ ê như vầy.
Nhờ ơn Trời Phật độ rày,
Cho người được thoát khỏi ngày lao lung.
Từ đây đồng đạo rèn lòng,
Rán chừa việc ác làm xong việc lành.
Sự tu thì phải thật hành,
Nói làm cho một mới rành sự tu.
Đến đây phân biện đâu đâu,
Lời tuy vắn tắt nghĩa âu đã rành.
Xin chào đồng đạo an lành,
Giảng đây đã dứt lòng mình chưa nguôi.
15 thang 3 Quý Tỵ (tức ngay 28 thang 04-1953)

THÁNG TƯ:
07- Ngày mùng 1 hồi 10 giờ 50 phút tại Tây An Cổ Tự: Tâm Vô Thường - Pháp Vô Ngã

Ngày mùng 1 hồi 10 giờ 50 phút tại Tây An Cổ Tự: Tâm Vô Thường - Pháp Vô Ngã

Thưa quý đồng đạo,

Kỳ giảng rồi tôi đã giảng về thân ngũ uẩn chẳng sạch và rất là đau khổ của con người. Đến lượt hôm nay tôi định giảng về cái “Tâm vô thường và Pháp vô ngã” của chúng sanh.

Cái tâm nó là một quan năng có sức biến hóa thiên hình vạn trạng, vô lượng vô biên và cái tâm nó cũng có thể như là cái kho tàng vô tận. Cả thảy sự sự vật vật xưa và nay của thời gian và không gian, của một người và vô số người, của một vật và cả thảy vật, của có phạm vi và không phạm vi, của có hình thức và không có hình thức, của có hình ảnh và không hình ảnh, của ở trong người và ngoài người, của rộng lớn như hư không và nhỏ như mũi kim, cho đến việc của đời và của đạo. v.v... Cái tâm nó đều hàm chứa được tất cả.

Bởi thế cho nên cái tâm nó cũng có thể nghiễm nhiên như một vị đế vương, nó cũng có thể trở thành một anh ăn mày vất vả, nó cũng có thể như ông quan thanh liêm, nó cũng có thể trở thành như một anh đạo chích tàn ác, nó cũng có thể như kho vàng và rồi nó cũng có thể biến thành như thùng rác mà cái tâm này là cái vọng tâm.

Vì cái vọng tâm nên nó có đủ thất tình lục dục.

Cái vọng tâm nó hay mừng những cái lợi lộc mà riêng nó chiếm được và những người thù ghét của nó khi bị thiệt hại hay đau khổ.

Cái vọng tâm nó hay giận tất cả người nào chạm đến tự ái và quyền lợi đã có của nó và nó còn giận luôn cả thảy việc gì chính lòng nó muốn mà không được đem lại kết quả như ý.

Cái vọng tâm nó hay thương một cách hẹp hòi ích kỷ, nghĩa là nó chỉ hay thương lấy nó và cái gì thuộc về của nó. Dầu rằng cái thương ấy không được chánh đáng, có hại cho kẻ khác cũng mặc, miễn đem lại thỏa mãn cái thương của nó là đủ.

Cái vọng tâm nó hay vui nghe những tiếng nỉ non trầm bổng, vui thấy những cảnh bày trí lả lơi, vui trông vào kẻ mạnh hiếp người yếu và nó cũng hay vui thấy nó hơn trên được người về phương diện nào và nó cũng hay vui khi thấy lợi lộc về tay nó được nhiều.

Cái vọng tâm nó hay yêu cái giàu sang, cái tước vị, ái tiền của và cái sắc đẹp của nó đã có hay đương có mà hết sức gìn giữ. Kẻ nào chạm rờ vào việc yêu của nó sẽ la kẻ thù độc nhứt của nó vây.

Cái vọng tâm nó hay ghét những ai cao hơn nó, giỏi hơn nó hay giàu hơn nó, mạnh hơn nó và hưởng được nhiều sung sướng danh vị hơn nó. Những kẻ ấy toàn là những cây đinh trước mắt nó, nó sẽ tìm hết cách để đối phó.

Cái vọng tâm nó hay sợ cái gì đã thuộc về của nó như danh vị , sắc dục, tài lợi, phú quý mất đi, nên nó có đủ cách để bảo thủ cho kỳ được viên mãn.

Sở dĩ cái Tâm nó có nhiều cái mừng, giận, thương, yêu, vui, ghét, sợ giai do là nó chỉ bồi dưỡng cho cái xác thân. Nhưng nó quên rằng cái xác thân vốn của đất, nước, gió, lửa hợp thành, đến một ngày kia nó sẽ già, sẽ bịnh, sẽ chết và sẽ tan ra.

Những chất đặc như thịt xương thuộc về đất nó tan rã theo đất. Những chất lỏng như máu thuộc về nước nó tan rã theo nước. Những chất hơi như hơi thở thuộc về thuộc gió nó tan rã theo gió. Những chất ấm nóng thuộc lửa nó tan rã theo ánh nóng của mặt trời.

Bây giờ thì cái thân đâu còn nữa mà chỉ gọi nó cho đến đây là cùng.

Ví bằng một vị đế vương có hàng trăm cung phi, cả vạn kho lẫm và gấp triệu cây số ngàn đât đai đi nữa, đến khi chết cũng không sao giữ cho cái thân còn nguyên vẹn được.

Hàng trăm cung phi ấy cũng không đem theo được một người nào, cả vạn kho lẫm đó cũng chẳng hề rờ mó vào tay được một hột và gấp triệu cây số ngàn đất đai kia nó chỉ dành cho một khoảng nhỏ, để chôn cất cái xác thân hôi thúi ấy thôi. Kỳ dư những cái khác như: Cung phi thì để lại cho kẻ khác yêu, kho lẫm thì để lại cho kẻ khác xài và đất đai thì để cho kẻ khác ở mà bao nhiêu việc tội việc phước đã vì cái thân này mà gây tạo trong lúc bình tố thì để phần hồn mang chịu.

Nếu có phước nhiều thì sanh lên thiên đường, còn có tội thì đọa xuống địa ngục và luân hồi vào các loài trong cõi khổ mà chịu lấy mọi sự thống khổ, để đền lại tội trạng ác nghiệp đã gây ra ở kiếp qua.

Té ra, những cái danh lợi, sắc tài của mỗi đời không tồn tại và rất là mộng huyễn, nó gạt con người phải vì nó mà tội khổ, rồi nó không hề một lời an ủi hay chia sớt. Trái lại, nó càng rà rê ngã ngớn khêu gợi lại cái tập quán, cái háo kỳ, cái dị cảm của con người đã có, để lọt vào lưới của nó đặng nó giết hại.

Ôi ! Giả dối thay thân xác. Tai hại thay cho lòng ô nhiễm của chúng sanh ! Thế mà từ cổ chí kim chẳng biết bao nhiêu người cũng vì cái thân xác mà đem hết tài năng trí lực, nước mắt mồ hôi của mình ra để mà tranh đấu tất cả cái lợi, cái đẹp, cái danh cho cái thân, xong rồi cũng không đi đến đâu hơn là chỉ đi đến cái chết là hết. Như vậy mà đến bây giờ cái cạm bẫy cái lầm lạc ấy chưa phải là dứt hay là không có được. Nếu chúng sanh hiện nay không sớm hồi tỉnh mà xa tránh nó.

Hỡi đồng đạo,

Xét lại cái thân này là vô thường, vọng tâm này là giả dối không có cái gì bền bỉ chắc chắn, cũng đủ khiến cho chúng ta nhàm chán cái tư lợi, cái ích kỷ lắm rồi, huống chi còn được nhớ lời dạy dỗ của Đức Thầy đã cho chúng ta biết rằng: Cõi đời Hạ nguơn này nhân loại sắp đến chỗ tận diệt để lập lại Thượng nguơn, Mà cái Thượng nguơn ấy là một nơi để chọn lọc những người lương thiện được sống sót, trên thì chúa thánh dưới tôi hiền, cả thảy dân gian đồng sống trong khuôn khổ đạo đức trật tự, không còn có những cuộc dối gạt, chém giết, ngang tàn theo thói thường như cõi đời bây giờ nữa. Thế là càng khiến cho chúng ta thêm chán cái huyễn ảo của đời nay mà bước mạnh đến cái đạo.

Vì Cái Đạo nó là một cứu cánh tuyệt đối của đời chúng ta, nếu chúng ta không nhơn lúc này, kiếp này để mà tu tỉnh cho đến chỗ giải thoát, thì có bao giờ mà chúng ta gặp lại cái may trong muôn một ở một lần thứ nhì nữa, nghĩa là được sanh nhằm cái đời có Phật giáng thế hóa độ chúng sanh, lập đời Thượng cổ và mở Hội Long Hoa như ngày nay.

Song cái sự tu của chúng ta không chỉ ngồi niệm Phật, ăn chay, cúng lạy một cách không trơn như vậy được mà là chúng ta phải vừa tu lấy cho mình và đồng thời phải đem hết việc làm, lời nói sáng suốt của mình thuộc trong phạm vi đạo đức chơn chánh ra mà giúp đời giúp đỡ cho kẻ khác nữa mới được.

Vì rằng cái chủ nghĩa từ bi bác ái, tự giác giác tha của Đức Phật đã dạy, là phải được đem ra phổ cập rộng cùng khắp cả chúng sanh trên thế giới, mà hiện giờ chúng ta chưa có thể trong nhứt thời, mà tiến đến một địa hạt quảng đại qua hơn trình độ và sức cảm chịu của chúng ta được. Vậy chúng ta phải tuần tự, từ chỗ hẹp mà tiến lần đến một chỗ rộng, nghĩa là phải gieo rải cái đạo đức, cái từ thiện từ một cá nhân của chúng ta đến toàn người trong gia đình của chúng ta, đến người quanh vùng của chúng ta và từ đó dần dần đi đến một xã hội, một quốc gia, cả nhơn loại và khắp hết chúng sanh.

Có được như thế, mới làm cho con người của chúng ta trở nên một người có ích của thiên hạ, không sự tội lỗi, được nhiều công lợi phước đức và mới không phụ cái giáo lý cao siêu của Đức Phật đã lưu truyền hơn 2500 năm nay và cũng làm cho Đức Thầy của chúng ta được hài lòng.

Và con người chúng ta đã được có những hành động chơn chánh phước đức như trên, thì chẳng khác nào chúng ta đã có một con thuyền vững chắc, có đủ sức đưa chở cho chúng ta từ bên này sông Hạ nguơn sang được bên kia bờ Thượng cổ hay giải thoát.

Hơn nữa chúng ta phải nhờ cái thuyền phước đức ấy mới có thể cứu vớt Cửu Huyền Thất Tổ, cha mẹ họ hàng của chúng ta và bao nhiêu người khác đồng thoát khổ như chúng ta được.

Thương nhơn loại trong cơn đồ thán,
Thảm đồng bào lâm cảnh gạo châu.
Phận sĩ hiền cần phải lo âu,
Thân tráng sĩ hãy toan vùng vẫy.
Làm những việc mọi người nhờ cậy,
Tạo các phương đất nước vững vàng.
Bởi chúng sanh sắp đến điêu tàn,
Nên Tiên Phật lắm lời kêu gọi.
Sợ cho kẻ vội quên dòng dõi,
E nỗi người xa mất đạo lành.
Chỉ có tu mà chẳng có hành,
Miệng niệm Phật lòng không tưởng Phật.
Khuyên nhủ kẻ tận tường lời thật,
Mong mọi người nghe rõ mà làm.
Cõi hồng trần khuyên chớ có ham,
Đường Tiên Phật hãy nên lai đáo.
Đã được ở trong nền Phật giáo,
Phải gìn tròn mối Đạo Thích Ca.
Nếu sự tu gác bỏ lòng tà,
Thời sau ắt sang qua cõi Phật.
Bởi nhơn loại lắm người giảo hoạt,
Nên gây ra nhiều việc hãi hùng.
Từ kẻ này nước nọ lung tung,
Đến kẻ trí người ngu rối khổ.
Nay Nam Việt Phật Tiên giáng độ,
Giống Lạc Hồng hăng hái tu hành.
Đến ngày kia mới đặng tồn sanh,
Sau khỏi chịu những điều tai khổ.
Rất mong mỏi cho nhau tỉnh ngộ,
Nhưng ít người được biết rèn lòng.
Chỉ cạnh tranh theo việc tiền đồng,
Ít trau trỉa tấm lòng chơn thật.
Nên kêu gọi cho nhau tỉnh thức,
Từ thi bài cho đến giảng lời.
Mong cho nhau được biết cơ trời,
Hầu xử lấy cuộc đời chơn chánh.
Nếu chẳng sớm nghe lời Phật thánh,
Để muộn màng tu tỉnh không rồi.
Hỡi đạo đồng ! Đồng đạo hỡi ơi !
Nầy dân chúng chúng dân nên liệu.
Cả thế giới nhục thân nặng trịu,
Chốn non bồng ngọc cốt nhẹ nhàng.
Lại còn thêm được sống vững vàng,
Không còn chịu rày tan mai hiệp.
Nay đây cũng có cơ tu kịp,
Vậy mỗi người hãy rán sửa mình.
Kẻo ngày kia sắc lịnh Ngọc Đình,
Sai Thiên tướng răn trần thêm khổ.
Nay khuyên nhủ chỉ vì cứu độ,
Cho người sau này được sống còn.
Để xứng mình là phận tôi con,
Thêm vẹn vẽ trong hàng Phật tử.
Hỡi đồng đạo đây là phận sự,
Của một người trau lấy đạo trường.
Hợp cùng nhau phân biệt chính đường,
Mong mỏi kẻ ghi lời hữu lý.
Sự tu phải diệt lòng ích kỷ,
Điều thiện nên dẹp bỏ cá nhân.
Phải tập rèn lòng được đại ân,
Nên chuyên luyện cho thân quảng ái.
Sự tu nhớ đi theo việc phải,
Điều thật cần nên lấy chữ tin.
Nhớ rằng cơ nhơn quả rất linh,
Điều tu tỉnh tháng ngày gìn giữ.
Ai có đến Tây An Cổ Tự,
Cũng lấy làm lạ mắt mọi điều.
Sự phượng thờ hay cách biểu nêu,
Đều có chỗ vô vi huyền bí.
Mong ai có đó để lòng suy nghĩ,
Nhắc người không quên chữ trần điều.
Tuy vật khinh mà giá cao siêu,
Hãy thành kính chớ lời khinh bội.
Đến ngày kia cuộc trần thay đổi,
Có siết bao tà thuật gieo vào.
Người tu hành đạo quả thâm cao,
Nhờ Tiên Phật hộ trì an vững.
Thảm cho kẻ đặng trau bổn phận,
Mãi xua mình theo việc vạy tà.
Đến ngày kia hồn phách ra ma,
Còn thân xác tiêu tan tro bụi.
Trên Đức Phật phép mầu nhuần gội,
Dưới chúng sanh đều phải cúi đầu.
Giữ vẹn lòng được gặp mưa ngâu,
Bền chí sẽ gần nơi đạo lý.
Đây khuyên nhủ phải nên nhắc kỹ,
Lời giáo truyền cần nhớ tu thân.
Đến ngày kia gặp hội Phong Thần,
Sẽ được biết những điều mầu nhiệm.
Sự tu tỉnh nơi tâm phải kiếm,
Điều hiền lương ở chí nên làm.
Đến chừng nào lòng chẳng còn phàm,
Ngày đó mới trở về tiên cảnh.
Nay dân chúng mãi còn tranh cạnh,
Thời trần gian chưa hết não nùng.
Phải tu chơn đến lúc toàn trung,
Cần hành thiện chừng khi trọn nghĩa.
Một khi đã sự lành vẹn vẽ,
Thời ngàn muôn kiếp được thanh nhàn.
Hỡi trần gian ! Nầy hỡi trần gian !
Ở dân chúng ! Nầy trong dân chúng !
Việc đạo lý biết sao là phủng,
Điều nhiệm mầu bay to không cùng.
Mong mỏi người soi rạch tâm trung,
Để được biết mọi điều sâu sắc.
Phật Tiên thánh đáy lòng trong vắt,
Thương hồng trần bụng dạ đục nhơ.
Đem việc mình khám rõ huyền cơ,
Chỉ dạy thế lần đường theo dõi.
Hỡi đồng đạo ! cuộc cờ chống chỏi,
Đến chừng nào toàn thắng được bàn.
Mới hiểu rằng nơi cõi Tây Phang,
Vị Tiên Phật xuống trần đa diệu.
Nay dân chúng phải cần thông hiểu,
Hỡi trần gian ! Nên gắng liệu lường.
Tu để cho đến cõi Thượng nguơn,
Cùng chầu đức Minh Vương mới toại.
Dân không chúa như thuyền không lái,
Trò lạc Thầy như tối chẳng đèn.
Lửa cháy nhà không nước rối ben,
Bụng đói rũ không cơm thê thảm.
Đem trí lực phá màn hắc ám,
Dùng đức mầu hái quả thơm tho.
Cuộc đời này khác thể ngao cò,
Trần gian đấy như cờ sắp bí.
Nay mùng Một tháng Tư năm Tỵ,
Khuyên cùng nhau gắng sức tu hành.
Nghe giảng thời thứ nhứt làm thinh,
Sau kế đó để tâm ghi nhớ.
Nhớ cho kỹ để rồi trau sửa,
Sửa cho mình đều được chánh chơn.
Đến ngày kia mới được tồn thân,
Hầu dưới bệ nghe lời Phật thuyết.
Nay cuộc thế như trời soi tuyết,
Cảnh hãi hùng trước mắt rất gần.
Nỗi buồn cho khắp cả vạn dân,
Theo vật chất xa lần đạo lý.
Xưa Khương Tử nghèo nàn thậm chí,
Lòng vẫn chờ đến lúc phò Châu.
Ai bảo đành chờ đợi chưa lâu,
Nay vội nỡ quên lần tu niệm.
Trễ việc đạo sau này khó kiếm,
Đợi cơ nguy vai Phật muộn rồi.
Hiện bây giờ dân chúng hỡi ôi,
Cần xét nghĩ cuộc đời tạm giả.
Từ tâm phải trau giồi đạo cả,
Chính phận mình mài miệt sự hiền.
Cái chữ tu phải được cần chuyên,
Từ ngày một đến hằng năm tháng.
Cả việc làm phải điều cân đoán,
Lẽ chánh chơn cương quyết thật hành.
Sự vạy tà khuyên chớ lưu tình,
Điều phải nghĩa nên cần sốt sắng.
Đến giờ chót Đức Thầy gặp đặng,
Ấy toại nguyền cho cả đạo đồng.
Hiện bây giờ thuyền nọ giữa dòng,
Sự lui tới nhiều điều khó nghĩ.
Mong tất cả đạo đồng bền chí,
Ước thảy người hãy gắng phân minh.
Giờ phút này đạo lý còn tin,
Người ấy cũng được phần lương thiện.
Có lắm kẻ bạc bài say ghiện,
Cũng nhiều người chè rượu xình xoàng,
Miệng đọc cơ đọc giảng nghe vang,
Lòng chứa dữ chứa hung vô lượng.
Những kẻ ấy khó mong chung hưởng,
Cùng Phật Tiên trong cuộc lập đời.
Đạo đồng ơi ! Kìa đạo đồng ơi !
Lời giảng giải hãy ghi vào dạ.
Khuyên nhủ đó chỉ vì đạo cả,
Nhắc nhở đây tại việc phải làm.
Làm cho đời rõ thánh hay phàm,
Nói những việc của Tiên hoặc tục.
Tu không phải để tâm hì hụt,
Làm chớ nên theo đuổi vạy tà.
Nên nhớ rằng đây cõi Ta bà,
Muôn việc khổ xảy ra khôn kể.
Sự giảng giải chỉ do lời thệ,
Điều biện phân ở tại sự nguyền.
Nguyện cứu đời thoát khỏi phàm duyên,
Thề độ chúng xa miền tục lụy.
Nên mới có nêu tên Thanh Sĩ,
Cùng gọi ra những tiếng lương hiền.
Nhắc chỗ này chỗ nọ liên miên,
Kêu từ nhóm từ chòm không siết.
Nhưng chọn lọc những người hiểu biết,
Thật xem ra thì quá ít oi.
Mong làm sao cho rặc con nòi.
Hầu nêu rõ khí hùng Nam quốc,
Sau đạo Phật bủa tràn quả đất.
Khắp quần sanh nhuần gội dẫy đầy,
Hiện bây giờ trăng nọ bị mây.
Nên bá tánh có mòi lợt lạt.
Hỡi đồng đạo ! Đây lời chơn thật,
Mong cùng nhau chớ có hiểu lầm.
Sĩ Thanh nầy noi lấy từ tâm,
Nên phải gắng khuyên người tu niệm.
Sợ kẻ việc trần gian quá ghiện,
E người đem tục lụy đeo vào.
Thế cho nên đây mới kêu gào,
Lòng mộ đạo đó mau xét lấy.
Giảng chỉ yếu ở lời phải quấy,
Kinh không nài điệu giọng dở hay.
Hỡi đạo đồng ! Cần sửa lòng ngay,
Sau mới được hưởng điều nhàn hạ.
Cảnh tình này thật đà quái lạ,
Tu hú kia gởi quạ gìn con.
Nỗi niềm riêng thật rất héo hon,
Tình chung nghĩ lắm điều thống thiết.
Cơ tạo hóa nhiệm mầu khó biêt,
Lẽ xoay vần kín đáo khôn lường.
Đồng đạo ơi ! Việc thiện rán nương,
Chư môn hỡi ! Lời ngay nên nhớ.
Tuy nay phải Thầy cam xa tớ,
Có ngày kia Tần Sở tương phùng.
Ấy là khi Nam Bắc khốn cùng,
Vô phương giải cầu Trời cứu độ.
Nay những kẻ có tâm giác ngộ,
Thời tìm làm những việc lợi đời.
Dầu cho mình khốn khổ lăm nơi,
Chẳng vì đó không tìm sự phải.
Người đến đây nghe rồi nhớ lấy,
Để thiệt hành sau sẽ lợi mình.
Sự tu thời phải có đức tin,
Dầu lao lý chớ lòng xao xuyến.
Mong nhau được tâm hồn tinh tiến,
Ước có ngày trên dưới thuận hòa.
Để tượng trưng tôn chỉ Thích Ca,
Hầu làm rõ danh từ Phật giáo.
Lời khuyên nhủ khắp trong đồng đạo,
Tiếng kêu gào tất cả chư hiền.
Nên nhớ rằng sự khổ chưa yên,
Cần ghi lấy cõi phàm rất giả.
Nay đây cả muôn màu rườm rã,
Đến phút kia trắng sắc xơ rơ.
Ngày biến thiên dân chúng gật gờ,
Khi tiêu diệt hoàn cầu rúng động.
Lời khuyên nhủ người nên để bụng,
Rồi ngày kia khỏi việc trách than.
Cuộc đời này thật lắm mỏng man,
Đạo lý đó là phương cứu cánh.
Lời giảng giải chung qui chữ tín,
Sự khuyên răn tóm tắt điều lành.
Nếu được rồi đạo quả sẽ thành,
Bằng không trọn tu hành luống uổng.
Đây khuyên nhủ mặc người ghét chuộng,
Chỗ nói ra tùy kẻ thích không.
Lời thánh hiền tự lập nơi lòng,
Đem phổ biến cho người được sửa.
Nhân trong khoản đao binh khói lửa,
Thừa những cơn tai ách khốn nàn.
Gọi từ tâm khắp cả trần gian,
Khêu đuốc huệ kêu cùng thiên hạ.
Người biết đạo nghe rồi để dạ,
Kẻ theo đời cho đó là thường.
Lời khuyên răn đây chỉ lòng thương,
Hỡi đồng đạo chớ đem dạ ghét.
Gọi nhau cho nhau khác nào lửa thét,
Để ngày kia cho được thiệt vàng.
Có những lời đạo lý biện bàn,
Không ý nhụy thì người bỏ gác.
Chỉ yếu chỗ mong người giải thoát,
Nhắm vào nơi gọi kẻ tu hiền.
Hiện bây giờ say bạc say tiền,
Sau phải chịu trách trời trách đất.
Tu thời phải rèn lòng chơn thật,
Hành nên in não óc hiền từ.
Ai để lòng cho được như như,
Thời sau sẽ hưởng phần chói chói.
Đây khuyên đó tâm hồi rắn rỏi,
Lời nhắc kia trí lực bỉ bền.
Lời khuyên nhau chẳng phải lời rên,
Tiếng nhắc nhở không hề quyến rũ.
Đây tóm tắt khuyên người tự chủ,
Đừng để cho vật chất khiến mình.
Có đôi lời đồng đạo hãy tin,
Và nên nhớ thiệt hành cho đúng.
Giảng với kệ tùy thời mà dụng,
Đạo với đời theo thuở mà bày.
Đến Hạ nguơn Phật giáng trần ai,
Đem tiếng giảng gọi là kết cuộc.
Phải gấp rút trau làm việc phước,
Nên cầu âu luyện tánh thương người.
Đến nghe đây giữ vẹn từng lời,
Để nhớ đó trở về tinh tấn.
Lời khuyên nhủ mong nhau giữ phận,
Giảng đến đây lời đã dứt rồi.

Lời giảng đến đây đã dứt xong,
Xin ai ghi lấy ở nơi lòng.
Ra về gắng chí làm cho trọn,
Kỳ tới sang nghe được số đông.
1 tháng Tư Quý Tỵ - tức 13 tháng 5-1953
08- Đêm mùng 8 hồi 23 giờ 20 phút tại Nhà Thờ ông Nguyễn Văn Thới gọi là Ông Ba Thới Nhân dịp lễ giỗ

Đêm mùng 8 hồi 23 giờ 20 phút tại Nhà Thờ ông Nguyễn Văn Thới gọi là Ông Ba Thới Nhân dịp lễ giỗ

Thưa quý đồng đạo,
Đến đây hồi chiều này, lòng tôi lấy làm vui được thấy ngày kỵ cơm của Ông Ba trong năm nay có phần đông đảo hơn năm rồi gấp đôi lần. Như vậy đủ chứng tỏ tấm lòng của đồng đạo không hề quên ơn một bậc vĩ nhân đạo đức đã quá cố. Sở dĩ có được như vậy là do tấm lòng tu hành sốt sắng của anh em đồng đạo mà ra.

Thưa quý đồng đạo,
Tiện đây đồng đạo cùng tôi đem ra bàn xét một “Vài vấn đề đạo đức”, để chúng ta chiêm nghiệm lấy lẽ hư thiệt, hầu giúp cho chúng ta trong một phần nào về mặt tu tiến hiện thời.

Con đường ma chung ta đương đi đây hẳn chung ta đã có chủ định. Cái chủ định ấy là một chữ Đạo, chữ
Đạo ấy vốn ở sự nhân quả, nghĩa là gieo giống chi hưởng trái nấy. Nói một cách rõ hơn, làm lành được
kết quả lành, làm dữ sẽ kết quả dữ, dữ phải sa đọa, lành được siêu thăng. Nên chúng ta phải làm lành.
Rồi đó chúng ta còn phải xử sự cái bổn phận làm người:

Chúng ta có thể liều chết với đất nước để bảo vệ sự Trung.
Chúng ta có thể liều chết với cha mẹ để bảo vệ sự Hiếu.
Chúng ta có thể liều chết với thân danh để bảo vệ sự Tiết.
Chúng ta có thể hy sinh cho mọi người để bảo vệ sự Nghĩa.

“Trung, Hiếu, Tiết, Nghĩa” là mục đích của Đạo làm người mà lúc nào chúng ta cũng cần phải thiệt thi một cách chu đáo. Vì nó có thể làm rạng vẻ đất nước chúng ta, cha mẹ chúng ta, mọi người xung quanh chúng ta và riêng cho đời chúng ta nữa. Đồng thời chúng ta còn phải hành lấy cái đạo Phật
mà chúng ta đương sùng kính.

Chúng ta phải lấy lòng từ bi chế ngự cái khẩu dục đương đòi hỏi nơi chúng ta một cách không chánh
đáng. 
Chúng ta phải lấy lòng công Nghĩa để tiêu trừ cái tánh tham lam mà lúc nào nó cũng chờ chực, xúi biểu chúng ta làm những việc trộm đạo cướp bóc một cách phi pháp.

Chúng ta cần phải lấy lòng trinh chánh chân đứng lại cái tà dâm lăng mạ, nó đương rù quến cám dỗ chúng ta làm những điều thương luân bại lý, có hại đến phong hóa nước nhà.

Chúng ta cần phải lấy lòng chơn thật, để mà gác bỏ tất cả những lời lẽ dối mị láo khoét, làm chia rẽ nghi ngờ lẫn nhau, có hại đến sự thân ái và đoàn kết của giữa chúng ta với mọi người một cách vô bổ.
Chúng ta phải lấy lòng đạo đức, trí sáng suốt để đào bơi tân gốc cai bịnh rượu. Vì nó thường hay lam cho thần trí của chúng ta phải cuồng sảng, thân danh của chúng ta phải tan nát mà từ cổ chí kim không biết bao nhiêu người cũng vì nó mà thành nghêng vách đổ, hân thể nổi trôi.

Thuở xưa có 500 vị La Hán dạo xem nơi cõi địa ngục, khi đi ngang qua cái ngục nọ, trong ngục đương
giam một tội nhân dưới sự hình phạt rất thảm thiết, ngoài cửa ngục có một ché rượu to. Tội nhân thấy 500 vị La Hán đến bèn có lời van cầu: “Làm sao cho hết được ché rượu ấy thì người mới được đầu thai”. Vì cảm lòng từ bi mà 500 vị La Hán cùng chia nhau uống cạn hết ché rượu, tức thời tội nhân đó được đầu thai.

Trái lại, 500 vị La Hán kia phạm tửu giới phải bị đọa xuống phàm hóa 500 con ốc bươu. Sau nhờ ông Bàng Công cư sĩ lấy công đức của mình sám hối cho mới được thoát kiếp.

Lấy đó chúng ta đủ hiểu rằng rượu có hại cho đức mạng của chúng ta là ngần nào. Đối với 500 vị La Hán kia đã dày công tu hành nhiều kiếp, một khi phạm tới tửu giới còn phải đọa vào loài noãn sanh đó thay, huống chi, chúng ta là kẻ phàm phu công đức mỏng manh, tu hành ít ỏi, dám ỷ lại vào đâu mà phạm vào tửu giới.

Thưa quý đồng đạo,
Đồng đạo cũng như tôi đã từng đọc sám giảng của Đức Thầy, đều nhận được lời của Đức Thầy cho biết
rằng cõi Hạ nguơn này sắp đi đến một ngày biến đổi lớn lao gần đây, để lập lại Thượng nguơn và Hội Long Hoa mà cái Hội Long Hoa ấy của Phật lập ra. Theo tôi tưởng thì nó cũng như trường đua, cũng như tòa đại hình và cũng như sự phân kim của anh thợ bạc.

Trường đua ấy để so lấy cái thắng, tòa đại hình ấy để xử kẻ trọng phạm và anh thợ bạc để chọn thứ vàng cao tuổi.

Toàn diện của vấn đề này chỉ có tánh cách đạo đức chơn chánh hiền lương được đem cái ưu điểm tồn tại ấy thôi.

Vì thế, chúng ta muốn đến được Hội Long Hoa và cõi Thượng nguơn đều phải thật hành cho kỳ được cái đạo nghĩa ở chúng ta đến mọi người, như mấy khoản mà tôi đã kể vừa qua đó, thì mới tự cứu được mình được người, và được xứng đáng là một tín đồ của Đức Thầy và đệ tử của nhà Phật.

Nếu làm trái lại, chúng ta sẽ không làm sao cứu được mình và không ích lợi cho ai, lại cũng không tránh khỏi làn sóng tận diệt mà hầu hết nhơn loại trên mặt địa cầu này phải chịu lãnh lấy thê thảm một ngày tới đây:

Đạo như ánh sáng mặt trời,
Chiếu ra khắp chỗ mọi nơi được nhờ.
Ngày nay đến lúc lu mờ,
Bởi lòng đồng đạo còn ngờ hóa công.
Chưa tin sự có mà không,
Sự không mà có nên lòng còn nghi.
Quên lời của đấng từ bi,
Cho nên mới để đạo nghì siển sai.
Phải nên gắng chí giồi mài,
Mới mong đi đến một ngày chung qui.
Con đường lắm chỗ hiểm nguy,
Anh em đồng đạo chạm ghi một lòng.
Xa Thầy ta rất não nồng,
Lệ ngoài đượm ướt lòng trong sụt sùi.
Thấy nhau đạo lý phai mùi,
Nên kêu nhau tỉnh tô bồi được xong.
Hỡi này tất cả đạo đồng,
Hãy nên lặng lẽ để lòng mà nghe.
Cuộc đời mỏng tợ màn the,
Gọi tu nào phải thơ vè xỏ xiên.
Đêm nay nghe thửa lời truyền,
Nhớ lo tỉnh thức tu hiền gắng công.
Có nghe hay lại để không,
Mặc tình nơi kẻ đạo đồng liệu lo.
Vì trên đã có hẹn hò,
Hợp nhau dắt chúng phải lo như vầy,
Nương chơn của Phật của Thầy,
Đem câu đạo lý tỏ bày vạn dân.
Ước sao khắp cả thôn lân,
Từ nam chí nữ tinh thần gắng lên.
Ngày đêm niệm Phật đừng quên,
Dầu trong giấc ngủ cũng bền chơ phai.
Mấy khi Thượng cổ tái lai,
Nếu không sớm sửa ngày mai lỡ làng.
Lời kêu đây rất dịu dàng,
Chỉ lo người hội Nhà Bàng rã thây.
Biết bao nạn ách ngày nay,
Thấy vầy phải rán miệt mài thêm lên.
Phiên bang rồi lại Cao Mên,
Chánh tà xáo trộn đổ lên cuộc đời.
Dân ơi ! Kìa hỡi dân ơi !
Ngày nay phải rán tưởng Trời Phật thêm.
Cuộc đời chưa đến chỗ êm,
Hai bên còn vẫn thù hềm chưa ngưng.
Thấy đời bắt dửng dừng dưng,
Tuy an mà chưa dám mừng bớ ai !
Vắng Thầy thuyền đạo trở day,
Mắc cồn sa bãi khổ thay đạo đồng.
Nhắc lời ít kẻ nhắc lòng,
Cho nên kẻ bưởi người bòng nhiều hơn.
Đêm nay tiếng kệ khuyên lơn,
Khuyên lơn nhau chớ giận hờn mà chi.
Con đường cùng một bước đi,
Phải gìn đến chốn gặp kỳ ứng khoa.
Cả kêu đồng đạo trẻ già,
Phải nên lập chí để mà lo tu.
Ngày kia sẽ được ngao du,
Dạo cùng khắp cõi khỏi ân nợ đời.
Ngày nay sống giữa cõi người,
Thấy ra dân chúng lắm nơi khổ nàn.
Lấy mưu cùng trí cầu an,
Nhưng chưa mấy kẻ được toàn sanh nhai.
Ở đây dân được thảnh thai,
Thương miền Trung, Bắc gái trai khổ nàn.
Có người chạy lạc xa ngàn,
Có người đói khát dở dang địa điền.
Có người gia trạch không yên,
Xa cha mất mẹ thảm phiền xiết bao !
Trong Nam dân được thạnh giàu,
Ngó ra ngoài Bắc, bên Tàu để lo.
Trong khi người đói mình no,
Cái no ấy chẳng khác cò ăn đêm.
Liệu thân cho được trọn niềm,
Việc đời việc đạo phải ghim vào lòng.
Hỡi này tất cả đạo đồng,
Nghe đây rồi phải để lòng từ câu.
Việc nao hợp lẽ đạo mầu,
Ghi trong não óc ngõ hầu sửa răn.
Đạo trường như thể vầng trăng,
Khi tròn khi khuyết lẽ hằng xưa nay.
Sợ nhau chẳng vẹn gái trai,
Sự trung sự hiếu mỉa mai chẳng tròn.
Muốn sao biển cạn núi mòn,
Mà lòng chẳng đổi mới còn dài lâu.
Ngọn đèn trước gió phải âu,
Mạng căn thế giới một bầu lâm ly.
Mau đi ! Kìa hãy mau đi !
Sự tu chớ có diên trì bớ dân !
Ở đây chẳng nói dần lân,
Chỉ vì thương chúng mới phân cạn cùng.
Bắc, Nam súng đổ đùng đùng,
Đâu đâu đều phải ngừa phòng binh đao.
Thấy chăng trận giặc ở Lào?
Đó là tin báo đồng bào hãy lo.
Nay no mai mốt không no,
Nay ăn mai mốt chạy lo tưng bừng.
Nếu toàn dân chúng biết thân,
Trao nhau làm phước khỏi phần túng cơm.
Lại là cũng khỏi thù hờm,
Được yên được thạnh cái mồm được no.
Hỡi này đồng đạo rán lo !
Tại đây dân chúng ngao cò nhiều hơn.
Miệng ngoài tuy nói nghĩa nhơn,
Mà trong tâm ý chác hờn lẫn nhau.
Tuy là lạy Phật ra vào,
Nhưng lòng chẳng được chút nào tưởng tin.
Thừa ngày Giỗ thừa đêm thanh,
Kêu nhau chỉ một tiếng lành mà thôi.
Anh em kẻ đứng người ngồi,
Hãy nên lặng lẽ tĩnh hồi mà nghe.
Đêm trường véo vắt tiếng ve,
Lẫn màu đèn điện lời ra chẳng cùng.
Muốn nhau có một tấm lòng,
Trên nghe Thầy dạy dưới đồng thương nhau.
Để rồi tránh cuộc binh đao,
Cũng là có dịp cứu nhau khỏi nàn.
Nếu như lòng một sắc vàng,
Lửa dầu có đốt không tan được nào.
Ai ôi ! Hãy liệu làm sao,
Đức Thầy trở lại lời nào đáp ra.
Chỉ vì bấn rối việc nhà,
Khiến cho đau ruột ông già xiết chi.
Ngàn năm đã quyết tu trì,
Đạo mầu được đắc đến kỳ cứu dân.
Tái sanh cũng đã nhiều lần,
Mỗi kỳ mỗi dạy cho trần biết tu.
Ngày nay đạo lý vội lu,
Với lòng từ mẫn âu sầu biết bao.
Thâm canh giọt lệ đượm trào,
Nằm không yên gối dạ nào có an.
Bởi thương khắp cả trần gian,
Đức Thầy mới chịu khổ nàn cho dân.
Đến nay có bảy năm gần,
Mà Thầy còn phải dấn thân tít mù.
Hỡi ai có hiểu chi đâu,
Cuộc cờ gay ngạnh lắc đầu hỡi ơi !
Chúng ta phải rán nhớ lời,
Cùng nhau đoàn kết tránh nơi khổ sầu.
Dù cho vận hạn có lâu,
Muôn lòng thắt chặt đạo mầu cũng xuôi.
Sợ cho người vội trở lui,
Sa vào bể thẳm vô hồi truân chuyên.
Đạo đồng khuyên chơ lăm phiền,
Sự tu phải chịu xay nghiền mới nên.
Ngàn xưa các bậc thánh hiền,
Được nên danh rạng khổ phiền xiết bao.
Một khi cay đắng không nao,
Thì là địa vị thanh cao được gần.
Lời khuyên khắp cả thôn lân,
Từ đây gìn vẹn Bốn ân của Thầy.
Để rồi khỏi phụ đất đai,
Không làm những kẻ trơ tay trong đời.
Phải nên trọng Phật tưởng Trời,
Thờ cha kính mẹ một đời hiếu thâm.
Tuy rằng đạo lý khó tầm,
Nhưng tròn chữ hiếu cũng làm Phật Tiên.
Lại thêm nhớ lấy Sám truyền,
Với lời Phật đã dạy khuyên lâu đời.
Luôn luôn giới luật chớ rời,
Có ngày gặp đặng một nơi thanh nhàn.
Lại cần phải gắng lo toan,
Cái ân xã hội lại càng trỉa trau.
Nghĩ vì ta phải nhờ nhau,
Miếng ăn thức uống đổi trao rất nhiều.
Nay đây nỗ lực độ điều,
Khiến nhau được sống hưởng nhiều ấm no.
Cuộc đời càng lắm gay go,
Thì nền đạo lý cần cho phô bày.
Đạo như cây thước rất ngay,
Đo lòng thiên hạ theo rày lẽ công.
Đạo như thể nước rất trong,
Thâm nhuần tất cả chẳng cùng bớ dân !
Đạo là ở một lòng nhân,
Thương người mến vật thi ân cho nhiều.
Muốn sau đến chỗ cao siêu,
Phải cần đức hạnh sớm chiều cho khương.
Đời này giống hịt đời Thương,
Biết bao tà mị nhiểu nhương thế trần.
Xung quanh mọi việc xa gần,
Dễ mà cám dỗ khách trần lắm ôi !
Lại đời nay quá bạc vôi,
Ít ai trau chuốt những lời thanh bai.
Thường hay tham sắc tham tài,
Tham quyền tham tước tham rày riêng thân.
Không còn gìn vẹn chữ ân,
Thế nên cái hội Phong Thần mới ra.
Hỡi này đồng đạo trẻ già,
Việc đời phải rán biết mà nhục vinh.
Chọn điều hợp với nhân sinh,
lánh xa những việc thế tình cười chê.
Sắc, tài, tửu, khí đừng mê,
Hiếu, trung, liêm, chanh mọi bề rán trau.
Cũng như kẻ muốn làm giàu,
Phải cần tích trữ cho nhiều năm qua.
Người tu muốn được cao xa,
Phải rèn từ một ngày là mới nên.
Bầu trời tuy rộng thênh thênh,
Mắt thần soi xét hư nên rõ ràng.
Đêm khuya canh lụn giờ tàn,
Người ngồi đôi mắt lơ làng ngăc nghiêng.
Đây là cùng một cơ duyên,
Cho nhau trau lấy lời khuyên hiểu lòng.
Muốn nhau đến hội Hoa Long,
Cho nên đây phải gắng lòng dỗ khuyên.
Từ rày cuộc thế đảo điên,
Năm châu nổi giặc thảm phiền sanh linh.
Còn e cho cái nước mình,
Họa còn đeo đẳng muôn nghìn chưa an.
Tiền Giang lại với Hậu Giang,
Ai ôi ! Gần Phật hãy toan lấy mình.
Tuy trong nhà cũng phải gìn,
Kẻo rơi ngoài ngõ thế tình mỉa mai.
Tuy là kẻ ở Đông Tây,
Mà lòng biết giữ thẳng ngay hiền lành.
Ngày sau gần được Nam thành,
Con người tại chỗ phải đành đi xa.
Tại mình lòng dạ tinh tà,
Không gìn chánh đạo mới là khổ thân.
Lấy ân mà đáp lại ân,
Lấy điều lương thiện đổi hờn bớ ai !
Những người nói việc gắt gay,
Ấy là có chỗ phạm sai việc mầu.
Từ bi ta cứ đeo vào,
Để làm gương mẫu cho nhau buổi này.
Trong cơn vắng mặt Đức Thầy,
Tình thương ta phải miệt mài thêm hơn.
Làm sao cho được bền chơn,
Để đi đến chốn Thất Sơn mới là.
Đêm khuya điệu giọng ngâm nga,
Tựa hồ chuông đánh cho ta tỉnh hồn.
Bởi dân như nõ đóng dồn,
Như thuyền giữa bể hãi hùng sóng to.
Phải cần vững chí toan lo,
Tìm phương để giúp nhau cho phỉ tình.
Mới rằng trước cứu được mình,
Sau là độ thoát muôn nghìn kẻ xa.
Lời khuyên đồng đạo trẻ già,
Giảng cơ hãy nhớ để mà trong tâm.
Giờ này cũng đã canh thâm,
Giảng cơ xin dứt chúc cầm hoa sen.
Giảng kệ đến đây đã dứt rồi,
Đạo đồng ghi nhớ chớ buông trôi.
Sớm hơn lấy nó mà trau trỉa,
Để khỏi lâm cơn sóng bủa nhồi.
Bủa nhồi thảm thiết kể từ đây,
Cầu chúc cho nhau được gặp Thầy.
Ngày Hội Long Hoa ra chiếm bảng,
Mới rằng toại nguyện gái cùng trai.
8 tháng Tư Quý Tỵ (tức ngay 20 tháng 5-1953)
09- Ngày Rằm tại Tây An Cổ Tự: Tai Hại của Điều Ác

09- Ngày Rằm tại Tây An Cổ Tự: Tai Hại của Điều Ác


Thưa quý đồng đạo,

Đáng lẽ phiên giảng bữa nay phải đình lại, vì tôi đã nhơm bịnh hơn hai hôm rồi, hiện giờ trong người vẫn còn yếu. Song vì ngày giảng lệ nửa tháng mới có một kỳ, nếu đình kỳ này thì phải chờ đến kỳ tới, nghĩa là phải chờ đến nửa tháng nữa mới có giảng lại. Như vậy lòng tôi không nỡ để cho kỳ giảng phải trôi qua một cách lạnh lùng, làm cho anh em đồng đạo phải một lần thất vọng.
Bởi đó nên tôi phải cưỡng lại với bịnh, để gặp gỡ đồng đạo trong kỳ giảng hôm nay.
Thưa quý đồng đạo, Hôm nay tôi xin giảng về: “Tai Hại của Điều Ác”.

Ác là kẻ gần gũi nhứt của tư thần.
Ác là một luồng gió làm tắt ngọn đèn trí huệ của kẻ hành đạo.

Và không còn ai mà chẳng hiểu nghĩa nôm của chữ ác là “dữ và xấu” mà cái dữ cái xấu này không có bờ bên nhứt định.

- Nếu cái ác nó đến con mắt của người thì sẽ làm cho con mắt ấy phải bị mù lòa.
- Nếu cái ác nó đến lỗ tai của người thì sẽ làm cho lỗ tai ấy phải bị điếc lằng.
- Nếu cái ác nó đến lỗ miệng của người thì sẽ làm cho lỗ miệng ấy phải bị câm ngọng.
- Nếu cái ác nó đến chơn tay của người thì sẽ làm cho chơn tay ấy phải bị cùi cụt.
- Nếu cái ác nói đến châu thân của người thì sẽ làm cho châu thân ấy phải bị hoạn nạn.
- Nếu cái ác nó đến đầu óc của người thì sẽ làm cho đầu óc ấy phải bị điên cuồng.
- Nếu cái ác nó đến tâm tánh của người thì sẽ làm cho tâm tánh ấy phải bị ngu độn.

Nói tóm lại, cái ác nó đến chỗ nào của con người cũng đều phải tai họa cả.
Và nếu một khi cái ác nó đến gia đình nào thì gia đình ấy phải tan nát, nó đến quốc gia nào thì quốc gia
ấy phải chịu tang tóc điêu linh. Thật cái ác nó không thua gì dịch khí, hễ mỗi lần đi đến đâu là vang tiếng kêu khóc của thiên hạ tới đó. Vì nó hay giết hại người rất thảm thê tức tối.

Và cái ác nó cũng như một con quỉ chín đầu thường giết hại người, moi móc gan ruột người và nó còn có mãnh lực xúi giục kẻ làm vua chúa mất công minh, kẻ làm cha mẹ mất nhân từ, kẻ làm tôi tớ mất trung tín, kẻ làm con cháu mất hiếu thảo, kẻ làm chồng vợ mất ân tình, kẻ làm anh em mất hòa thuận, kẻ làm bằng hữu mất thành thật và người giữa người này với người nọ mất hẳn thân cảm quyến luyến, gây ra lắm tấn kịch rất tồi tàn khắc nghiệt, chết chóc thê lương.

Đối vơi cái ác này nó còn nguy hiểm hơn bịnh ung thư gấp ngàn muôn lần. Vì bịnh ung thư chỉ giết hại
người ta được một đời thôi, còn cái ác nó sẽ giết hại con người muôn triệu đời, là bởi nó làm cho con người phải chìm đắm lặn hụp trong biển mê này, chịu mọi sự đau khổ chết chóc thê thảm đặng đền trả lại cái nghiệp ác mà nó đã gây ra trước đó không số đếm lường được.

Cho nên đối với kẻ tu hành tuyệt nhiên phải chừa bỏ tất cả việc ác, không hề lúc nào dám bàn, dám nói, dám nghĩ tưởng tới nó, phải coi nó như là kẻ thù độc nhứt, có đủ cách ngăn đón chống choi để mà tránh hoặc thắng được nó một cách vững mạnh.

Thưa đồng đạo,
Và cũng vì cái ác này mà Đức Thầy của chúng ta và biết bao nhiêu vị Tiên Phật khác mới rập nhau xuống thế, vừa kêu gọi vừa khuyến tấn cho chúng ta sớm tỉnh tâm tìm đạo tu hành, cải ác tùng thiện, hầu thoát được nỗi thảm khổ của quả ác đưa lại và mới có đủ đức hạnh giúp chúng ta đến cõi Thượng nguơn. Vì cái ác nó nặng như đá treo không làm cho ta tới bờ sông bên kia của Thượng nguơn được, chúng ta phải vứt cục đá ấy đi mới khiến cho thân của chúng ta được nhẹ nhàng, để tiện bề đi đến chỗ.

Vả lại, có sự tu của chúng ta hiện nay là vì chúng ta nhận nơi chúng ta đã có những điều ác hoặc lớn nhỏ, hoặc nhiều ít sợ nó kết quả không lành cho đời của chúng ta hiện giờ hay mai hậu mà chúng ta phải tu để chừa bỏ nó.

Thì việc bỏ ác đó là một lẽ cố nhiên của người tu chớ không có chi khác lạ, mà chúng ta phải nghĩ hoặc dần dà.
Và các tiên nhân của chúng ta xưa kia cũng nhờ chừa được các việc ác mà tạo nên địa vị cao qúi gọi la
ngôi Thánh, Hiền, Tiên, Phật di ân lại cho chúng ta sùng kính tới bây giờ. Ngày nay chúng ta đã được hiểu rõ chỗ đó, há lại không biết học lấy, không biết thùa thẹn hay sao.

Cho nên chúng ta hãy rán noi gương trước của tiền nhân ta, chịu khó nhọc làm được lẽ hiền đức và không hề để cho các thị dục xúi biểu vào những việc ác. Phải sống một cách đơn giản thanh kiệm, không cầu kỳ, không xa xí và cũng không quá tưng tiu cưng dưỡng xác thân một cách phi nghĩa hèn nhát. Nếu vì sự lợi ích cho mọi người mà tuyệt thân cũng không lấy làm tiếc, vẫn đủ đức hy sinh theo lẽ phải của công lợi.

Có được như thế, bảo sao ta chẳng làm nên Phật, nên Tiên, nên Thánh hiền như tiên nhân của ta được.
Thưa đồng đạo, Đức Thầy đối với chúng ta còn hơn tình mẹ với con không nỡ rời nhau, khi buộc phải rời nhau là lòng Đức Thầy lấy làm đau đớn và trông mau đến ngày hội hiệp.

Lẽ phải thì chúng ta cũng phải có sự đau đớn như vậy, trái lại chúng ta cho đó là thường sự, không lấy gì làm kích động, thì hẳn ra chúng ta là kẻ vong nghĩa và sự hội hiệp khó được như ý. Vì đôi đàng kẻ cút người bắt, kẻ nhớ người không, chẳng cùng trông nhau, tìm nhau thì sao gặp nhau được.

Mà sở dĩ có những sự lạnh lùng bội bạc này vì các ác tập, ác duyên làm chướng ngại cho ta nhiều hơn, bởi nó hay ghen lấy sự phải, sự tốt của mọi người cho rằng đó là khó khăn bất lợi.

Thưa đồng đạo,
Chúng ta có tin chăng? Đức Thầy đã thương chúng ta nhiều hơn gấp mấy lần của người mẹ thương con, vì lòng Đức Thầy là lòng của chư Phật, lúc nào cũng muốn cứu độ chúng ta chóng thoát khỏi nạn tàn sát của tử thần của vật dục. Song sự cứu độ này cũng phải nhờ ở chúng ta cố gắng một phần mới được. Nghĩa là chúng ta phải làm cho được những cái mà Đức Thầy đã dạy cho, rồi chúng ta sẽ được Đức Thầy cứu độ viên mãn. Chúng ta không nên không làm theo, hoặc giả có làm theo bằng cách lưng chừng, “thỉ cần chung đãi”, mà muốn có được sự cứu độ tròn vẹn của ức Thầy thì nhứt định không hề có được, bơi theo

Đức Thầy vốn là vô tư.
Hơn nữa, chúng ta như kẻ đã bị chìm lĩm dưới đáy sông, phải tự trồi lên mặt nước, rồi sẽ được người trên mạn thuyền cứu cho, chớ chúng ta không thể nằm đó chờ người trên mạn thuyền lặn xuống đáy nước mò vớt ta được. Nếu làm thế, chúng ta sẽ ngất đi vì sự cảm ứng không được mau lẹ tương xứng.

 Vả lại cái siêu, cái đọa là do mình tạo lấy, nếu hành thiện thì siêu mà hành ác thì đọa, chớ không ai làm thế cho mình được mà chỉ thường có được một vị khác như Tiên, Phật, Thánh thần chẳng hạn, đem dạy bảo chúng ta phương pháp để làm được đến chỗ an lạc mỹ mãn thì được, cũng như mình không biết đường sẽ nhờ đến người khác chỉ cho. Song đi hay không là do mình nhứt định lấy.

Xin nói tóm lại là, hiện giờ chúng ta phải diệt sạch những điều ác ở nơi chúng ta, rồi một ngày kia chúng ta mới kiến diện được Đức Thầy và Phật, Tiên, Thánh mà nhờ sự cứu độ của các Ngài và cũng là phương pháp giải thoát cho chúng ta vậy. Bằng trái lại, thì sự tu hành của chúng ta luống uổng, chẳng hề được hái lấy cái quả tốt đẹp nào cả.

Ngày qua là mất một ngày,
Đợi sa vào lưới mới quày kịp đâu.
Đất trời rộng lớn một bầu,
Không tìm chỗ trống lại vào chỗ gai.
Thương ôi ! chim mới học bay.
Ra ngoài mưa gió không tài đỡ ngăn.
Thương ôi ! kẻ đến cửa đằng,
Người sao bia phước vội vàng bể manh.
Thương ôi ! vận xấu vận lành,
Trời ông đã có sẵn dành từ ngăn.
Thương ôi ! sư đệ đường tăng,
Bốn ông vẫn được siêu đằng bốn ông.
Thương ôi ! cuộc thế mông lung,
Trần gian giấc ngủ vô cùng mê ly.
Thương ôi ! gặp đấng từ bi,
Mà không mấy kẻ trí tri được gần.
Thương ôi ! gặp hội Phong Thần,
Phải nên vùng vẫy khổ trần được qua.
Thương ôi ! cảnh huống quỉ ma,
Dập dồn bốn cõi người ta nhộn nhàng.
Thương ôi ! Thầy cách xa ngàn,
Tín đồ ngơ ngác như thoàn bị giông.
Thương ôi ! đông tựa bầy ong,
Khéo nên đúc ổ để phòng gió mưa.
Thương ôi ! sự thế dây dưa,
E không tránh khỏi giày bừa tội tai.
Thương ôi ! thế cuộc kéo dài,
Lòng người như thể tro ngoài bếp kia.
Thương ôi ! tình thế đê mê,
Lòng dân tan nát như dề bèo trôi.
Thương ôi ! sóng bủa dập dồi,
Lòng nào lại nỡ tung bồi hư ghe.
Thương ôi ! cửa đạo vắng hoe,
Trường đời đông nức người hè đua chen.
Thương ôi ! gặp phải vận hèn,
Nếu người sớm biết tâm rèn quang huy.
Thương ôi ! muốn chống tai nguy,
Phải nên hợp nhứt tu trì chánh chơn.
Không riêng ngồi dưỡng một thân,
Phải ra sức để Bốn Ân lo đền.
Đất đai kìa hỡi đừng quên,
Phải cần nỗ lực mà đền chút công.
Ơn cha mẹ tợ biển Đông,
Phải nên bảo vệ trọn lòng hiếu nhi.
Kia ngôi Tam bảo Liên trì,
Hãy nên sùng kính mỗi kỳ đừng quên.
Kìa đồng bào kế một bên,
Làm sao bù đắp được nên con người.
Thấy đời nạn ách chín mười,
Giảm đôi ba chút vội cười được sao.
Ngoài hiên gió thổi ồ ào,
Trong chùa tiếng giảng ngọt ngào veo lên.
Nói chung liệu lấy thì nên,
Mỗi người tự cất chân lên sen vàng.
Buồn thôi ! non nước mơ màng,
Giữa khi mưu mẹo dân càng khổ hung.
Buồn thôi ! ít kẻ lòng trung,
Xoi hang mạch nước tứ tung ngũ hoành.
Buồn thôi ! cho kẻ tu hành,
Một ngày niệm Phật không rành nữa câu
Nam mô Di Đà ở đâu,
Trong tâm rối loạn theo câu danh tình.
Buồn thôi ! tất cả sanh linh,
Đau mà chẳng chịu cứu mình khỏi đau.
Vì ai quá bẩn hơi dao,
Đứt tay rồi lại đổ nhào cho ai.
Buồn thôi ! đồng đạo gái trai,
Ngày kia ít kẻ Bồng lai được gần.
Buồn thôi ! Thầy tớ Sở Tần,
Dựa vào cớ ấy người lần vội quên.
Đạo đồng ơi hỡi muốn nên,
Nghe đây khuyên nhủ hãy bền chí tu.
Thú hùm ở giữa rừng sâu,
Tuy hung mà biết quay đầu tu thân.
Huống người mang lớp loại nhân,
Linh hơn vạn vật sao thân không giồi.
Buồn thôi ! kia hỡi buồn thôi !
Giảng ra từng tiếng gọi lời từng câu.
Thương nhau như rắn không đầu,
Như thuyền không lái trong bầu tối tăm.
Lắm người có miệng dường câm,
Sống trong khổ thảm âm thầm thở than.
Lời khuyên đây rất dịu dàng,
Mỏi mong đồng đạo một đàng mà đi.
Muốn sao cho được trọn nghì,
Với lòng nhứt nguyện hành y sám truyền.
Mấy khi mà gặp Phật Tiên,
Bỏ qua rồi phải khổ truyền ngàn thu.
Tu hành phải rán công phu,
Mỏi lao chịu được ngao du non thần.
Biết đâu xưa các thánh nhân,
Nhờ công rèn tập được phần thanh cao.
Nay ta kịp bước theo sau,
Hẳn là sẽ được chớ nào khác chi.
Đạo đồng chớ có mê ly,
Đường truông thăm thẳm bước đi nhẹ nhàng.
Mong sao tạo lấy chiếc thoàn,
Gọi thoàn Đức hạnh để sang qua bờ.
Từ đây đồng đạo chớ ngờ,
Lời xưa còn để sờ sờ mỗi câu.
Việc đời xét lại không lâu,
Như trời muốn nổ gẫm nào khó chi.
Dân ôi ! nguy thấy rằng nguy,
Sao chưa tỉnh thức tránh đi khổ nàn.
Nhìn Cà Mau đến Nam Quan,
Việt Nam gặp phải bao tràng đau thương.
E thân họa gởi tai vương,
Còn chi mà vội phấn hương đua kình.
Đa mang cái lốt phù sinh,
Tựa hồ bọt nước đầu gành khác chi.
Nay đời vô kế khả thi,
Gà đang trong vỉa khó khi ngoái đầu.
Từ đây khuyên hãy gắng cầu,
Bên nam bên nữ ngõ hầu chùi lau.
Còn chi hơn một sắc màu,
Để nên thế giới khen vào nước Nam.
Cuộc đời biết xử sao kham,
Kẻ ham liêm khiết người ham bạc tiền.
Nêu ra hai tiếng làm hiền,
Người cho là dại nỡ phiền không tu.
Ai ơi ! Báo ứng rất mầu,
Làm lành được phước dữ hầu mang tai.
Gió day cành lá lung lay,
Giặc nhà chưa dẹp có tài chưa an.
Lời van đây thật lời van,
Nghĩ nhau cũng một Hồng Bàng giống xưa.
Kêu nhau sớm thức kẻo trưa,
Nào đâu có giọng đẩy đưa ru người.
Dẫu cho ai có chê cười,
Lòng này cũng chỉ một đời yêu dân.
Tuy là phải bịnh riêng thân,
Chớ thân đã giả đâu cần nó chi.
Tinh thần siêu suất huyền vi,
Kịp xem thế giới có gì hiện ra.
Buồn cho bá tánh trẻ già,
Ít người ăn ở thật thà với nhau.
Đến chùa khẩn vái cho cao,
Về nhà bẩn việc quơ quào rối ren.
Từ đây đồng đạo gắng chen,
Kịp nơi Long Hội mới khen rằng hiền.
Lời khuyên thảm thiết lời khuyên,
Nghĩ đây cũng có lương duyên với người.
Ngàn xưa đã kết liên rồi,
Nên nay mới được cùng ngồi luận chung.
Ung dung lời lẽ ung dung,
Dầu ai có giận cũng không nỡ buồn.
Ai ơi ! Cây cội nước nguồn,
Phải nên nhớ lấy kẻo buồn Tổ tiên.
Sự tu cốt yếu chỗ hiền,
Giữ thân cho khỏi lụy phiền đến ai.
Vì thân còn bịnh chưa ngoai,
Dứt lời cầu chúc ai ai đắc thành.
Vì bịnh cho nên khó nói nhiều,
Đây xin vắn tắt luận vài điều.
Mong chờ kỳ tới bàn thêm nữa,
Cầu chúc chư hiền đạo được siêu.
15 tháng Tư Quý Tỵ -Tức 27 tháng 5-1953.

THÁNG NĂM:
10- Ngày mùng 1 tại Tây An Cổ Tự: Điều Thiện

10- Ngày mùng 1 tại Tây An Cổ Tự: Điều Thiện


Thưa quý đồng đạo,
Hôm nay Mùng 1 tháng 5 năm Quý Tỵ, phiên giảng này là lần thứ 7 của phiên giảng thường lệ tại ngôi Tây An Cổ Tự, đã mấy lần giảng vừa qua lòng tôi không siết hoan hỉ và cảm động được thấy chư đồng đạo càng lúc càng đến tham thính đông đảo nồng nhiệt.

Như vậy đủ tỏ tấm lòng sốt sắng tu hành của anh em trong lúc Đức Thầy vắng mặt vẫn được còn nhiều.
Sở dĩ giữa tôi và đồng đạo cần phải gặp nhau nhiều lần tại ngôi chùa này là bởi chúng ta phải cần nhắc nhở và trao đổi sự hiểu biết cho nhau. Vì rằng trong đời, không một ai sống riêng biệt mà có sự hiểu biết đầy đủ được, mà là phải cần sự hỗ trợ của nhiều người, mới khiến cho cuộc tiến hóa của mình được đi đến chỗ hoàn mỹ.

Huống chi, trên đường Đạo đức lúc đầu rất cần đến sự tương trợ của người khác nhiều hơn, nghĩa là kẻ
tỉnh dắt người mê, kẻ ngu nhờ người trí, kẻ tối cậy người sáng và tất cả vấn đề của đời hoặc đạo trong
phạm vi nhơn sanh hay vũ trụ nếu không biết rõ đều phải nhờ đến người khác chỉ cho.

Có thế mới khiến cho cái biết của mình rộng ra và việc làm của mình không đến đỗi chênh lệch tội ác, sẽ đi đến kết quả như ý.

Thưa đồng đạo,
Hôm nay tôi xin “Giảng về Điều Thiện”.
Có thể định nghĩa chữ Thiện là tốt lành, mà cái tốt lành ấy không có hạn chế, nó phải ở trong phạm vi
quảng đại của toàn khắp nhơn loại chúng sanh, chớ không riêng của một người hay một việc mới là đầy đủ ý nghĩa cao siêu của nó vậy.

Thiện là một vị thần y chữa được cái ác bịnh của chiến tranh.
Thiện là cái chìa khóa mở được cánh cửa đau khổ ở địa ngục và nhân gian.

Và cái thiện nó sanh trong gia đình nào thì gia đình đó trên dưới được “Hiếu Từ Hòa Mục", nó sanh trong đất đai nào thì đất đai ấy được trị an phong phú và nó sanh ở một người nào thì người đó:

Cái thân khỏi ba điều tội:
  • 1- Giết Hại;
  • 2- Trộm Cướp;
  • 3- Tà Dâm.
Cái miệng khỏi bốn điều tội:
  • 1- Nói Láo Xược;
  • 2- Nói Đâm Thọc;
  • 3- Rủa Xả;
  • 4- Mắng Nhiếc.
Cái ý khỏi ba điều tội:
  • 1- Tham Rít;
  • 2- Giận Hờn;
  • 3- Lầm Lẫn.
Và sẽ còn tăng thêm nhiều cái tốt đẹp như là: Tư cách phong nhã, ngôn ngữ nhu hòa và hành động
chơn thật đáng yêu đáng kính của mọi người vậy.

Ngoài ra nếu việc chi họ muốn làm, sẽ được nhiều người tán trợ, khiến cho dễ bề thành đạt đến mức
thành công.

Chẳng phải vậy thôi, cái thiện nó còn có giá trị tuyệt đích, không những của thời xưa trọng dụng mà đối với thế giới ngày nay họ cũng vẫn kinh nể hẳn hòi mặc dầu họ đã tiến xa trên bước đường khoa học.

Bằng chứng là hiện giờ các cường quốc trên thế giới, họ đang hô hào kêu gọi và tìm đủ cách để đem lại hòa bình chung cho nhơn loại. Vì lẽ, nếu không chủ trì lẽ thiện, dĩ nhiên là phải chủ trì lẽ ác, mà cái lẽ ác là mầm mống dẫn đến sự giặc giã chém giết, làm cho nhơn loại phải chết chóc, tai hại một cách thê thảm. Điều này hầu hết nhơn loại không một ai muốn cả.

Và cũng vì những điều đau khổ nói trên mà Đức Thầy của chúng ta mới viết ra giảng kệ, để kêu gọi nhơn sanh:

- Một là tránh điều hung hăng táo bạo, để khiến cho mọi người cùng sống trên sự an vui hạnh phúc.
- Hai là cuộc thế sắp biến diệt, chỉ có những kẻ biết hướng thiện mới được tồn tại.

Nên chi Đức Thầy mới không nài sự khó nhọc nguy hiểm trong lúc cần phải thực hiện hai cái mục đích ấy.

Thưa đồng đạo,
Nhưng lòng của tôi cảm thấy, mặc dầu trong lúc Đức Thầy vắng mặt, chúng ta không đến đỗi bi quan thái quá, vì bên cạnh chúng ta còn có kinh giảng luật lệ, sẽ thay lời cho Đức Thầy như trong lúc có mặt, chúng ta sẽ lấy đó học và làm theo cũng tiến đến mục đích được vậy.

Song ngược lại, tôi lấy làm không vui nhận thấy sự tu hành của anh em trước năm 1945 đến năm 1953 này, trong hai khoảng thời gian ấy có sự thối chuyển quá nhiều, nghĩa là: trước năm 1945 việc tu hành đạo đức của anh em rất mực hăng hái bấy nhiêu, thì trái lại từ đó dẫn đến năm 1953 này càng lúc càng trở nên xao lảng bấy nhiêu.

Nhứt là từ năm 1948 trở lại đây, hình như không còn đầy đủ đức tin như trước nữa.

Chỉ thấy anh em đồng đạo trở lại xa hoa, phung phí, chè rượu, lả lơi, biết bao hành động nhơ nhuốc xấu xa, có tai hại cho tôn giáo, cho luân lý của nước nhà và của Đức Thầy đã chỉ dạy. Song dường như anh em không lấy đó làm buồn mà chỉ thấy cứ lầm lũi đi tới mãi.

Thưa đồng đạo,
Chắc đồng đạo cũng như tôi, mỗi khi nghĩ đến vấn đề này chi cho khỏi buồn tủi cho số nhưng người chẳng hiểu bổn phận thiêng liêng của mình nỡ làm những điều tội lỗi, mà hết sức tìm kiếm cách này cách nọ để đanh thức cho họ sơm được cải hối, đặng trơ nên người có sự tốt đẹp như xưa.

Ngay như phiên giảng hôm nay cũng như bao nhiêu lần giảng vừa qua của tôi, cũng chỉ vì mục đích nói trên mà gắng sức kêu gọi từ lời một, trong mọi việc xấu tốt, lành dữ để làm cho anh em đồng đạo có cơ hội nhớ lại điều tội phước, sự dạy dỗ của Đức Thầy mà trau trỉa một phần nào, hầu có thù đáp lại công ơn hoằng hóa của Đức Thầy trong muôn một.

Thưa đồng đạo,
Tóm tắt  điều thiện là một lẽ cần yêu nhứt của kẻ tu hành, vừa lợi mình vừa lợi cho kẻ khác, nên chúng ta phải nỗ lực thực hành từ việc một của nó, cho đến khi được kết quả viên mãn.
Như vậy chúng ta mới có thể kỳ ngộ Đức Thầy trong ngày trở lại.

Bữa giảng hôm nay tiếng nhủ khuyên,
Đạo đồng nam nữ hãy ngồi yên.
Để nghe tiếng giảng và lời gọi,
Hầu nhớ trau tâm được trọn hiền.
Sanh ra ở giữa cõi đời,
Gặp đường đạo đức gặp người Thượng nguơn.
Gẩm xưa cũng đã hữu duơn,
Nay đây mới được nghe đờn không dây.
Đờn kêu Nam Bắc Đông Tây,
Mất còn chỉ một hội nầy mà thôi.
Đờn kêu gốc mụt đâm chồi,
Lạ nhơn, lạ vật, lạ đời bớ ai !
Đờn kêu thế giới ngày nay,
Khác nào trái chín trên cây bớ người !
Đờn kêu giặc bủa khắp nơi,
Con xa cha mẹ, vợ thôi mất chồng.
Đờn kêu con Lạc cháu Hồng,
Hiệp nhau để được ngăn dòng máu rơi.
Đờn kêu cuộc thế tả tơi,
Để mà lập lại cõi đời Thượng nguơn.
Đờn kêu tu tỉnh chớ sờn,
Hãy nên hăng hái gặp cơn thái bình.
Đờn kêu người hãy làm lành,
Để mà sống được như Bành Tổ xưa.
Đờn kêu lồng lộng lưới thưa,
Mảy lông không lọt hãy chừa tội gian.
Đờn kêu đồng đạo sửa sang,
Con đường chánh giáo phải toan một bề.
Đờn kêu thế cuộc đừng mê,
Hãy nên quay gót trở về cảnh xưa.
Sống đây là cái sống thừa,
Một ngày sắp đến không vừa nạn tai.
Đờn kêu đồng đạo gái trai,
Nhớ chăng gánh khổ một vai Đức Thầy?
Hiện giờ dong ruổi gốc gai,
Quyết đem cuộc thế đến ngày an cư.
Đờn kêu người phải thương người,
Kẻ lầm mình chớ nên cười nên khuyên.
Đờn kêu Châu Đốc, Long Xuyên,
Hữu duơn có Phật tại tiền rán tu.
Đờn kêu những kẻ say gù,
Hãy nên cương quyết ném bầu rượu đi.
Đờn kêu những kẻ mê si,
Hãy dùng trí huệ phá đi cho rồi.
Đờn kêu hãy tỉnh dân ôi !
Mấy khi gặp được cuộc đời đổi thay.
Muôn năm mới có một ngày,
Trễ qua rồi dẫu kiếm hoài không ra.
Ngày nay kẻ gần đến xa,
Tới đây nghe giảng thiết tha trăm chiều.
Chính đây không phải nói liều,
Chỉ lòng nguyện chúng được siêu kiếp này.
Để chơn theo dõi Đức Thầy,
Cũng đà xét gẫm xưa nay nhiều lần.
Hỡi dân khuyên hãy tỉnh thần,
Đừng cho lay chuyển nguồn ân của Thầy.
Đạo đồng giữ vẹn đường ngay,
Dầu cho lao lý chớ phai tấc lòng.
Bởi đời còn quá long đong,
Nên chi nhiều cuộc gai chông đến mình.
Tâm kia khuyên hãy lặng gìn,
Để ngày kết cuộc phỉ tình ước ao.
Thương ôi ! những kẻ sang giàu,
Nay quên đạo đức sau nào kiếm ra.
Thương ôi ! kẻ quyền ó la,
Làm điều bất chánh ra ma sau này.
Thương ôi ! tớ phải xa Thầy,
Những đem nhiều cuộc bừa giày lâm ly.
Nhưng lòng không quá kham bi,
Tin rằng cũng có một kỳ giải oan.
Ai ôi ! cuộc thế mỏng màn,
Dầu rằng có lắm bạc vàng chẳng vui,
Sợ e như mít sút cùi,
Đời kia không thể cùng vui Phật đài.
Rán lo trau trỉa giồi mài,
Mỗi lần nghe giảng thêm say mỗi lần.
Dầu cho ai đẩy xô thân,
Trơ trơ như đá trân trân như đồng.
Nguyện sao cho đến non Tòng,
Gần như Tiên tử thỏa lòng ước mơ.
Ai ôi ! hãy rán chớ ngơ,
Được cành dương liễu Phật Bà rải cho.
Đời này nhiều nỗi gay go,
Nếm vào cho đủ đặng dò chua cay.
Ở trong cái dở có hay,
Gặp khi nạn ách biết nay lòng người.
Buồn xem cho khắp kẻ đời,
Buổi đầu sốt sắng sau rồi ngó ngang.
Sự tu không được vững vàng.
Khó mà đi đến Niết bàn bớ ai !
Vì đâu tu tỉnh ngày nay,
Bởi đời sắp rốt cận ngày Thượng nguơn.
Ai ôi ! hãy rán sửa thân,
Ngày Thầy trở lại mới gần một bên.
Luật xưa thật rất là nghiêm,
Không tư không vị mãi tìm lẽ công.
Ngày nay những kẻ bần nông,
Mà tâm chánh trực sau không mất phần.
E người oai thế cuộc trần,
Lòng không chơn chánh ắt thân chẳng rồi.
Dân ôi ! kìa hỡi dân ôi !
Ngày nay khuyên nhủ hãy ngồi lặng nghe.
Sắt kia nếu chẳng gặp đe,
Sao nên món dụng đâu ra hình hài.
Muốn nên được lúa phải cày,
Gia công khó mới có ngày được no.
Muốn thân hưởng được thơm tho,
Đường chơn lẽ chánh hãy dò mà đi.
Cuộc đời vinh nhục thạnh suy,
Hãy nên chọn lấy kẻo khi lỡ làng.
Vui chi với cái hoa tàn,
Đời này còn có một đàng phải tu.
Tuy là không thấy chi đâu,
Chớ ngày kết cuộc nhiệm mầu ai đương.
Ngày kia biến đổi âm dương,
Những người sùng phụng khói hương được còn.
Nam Vang lại với Sài Gòn,
Tuy đông nhưng rốt không còn mấy ai.
Đổi về Bảy Núi mới hay,
Để cho vạn quốc biết tay Việt Thường.
Ngày nay dân chúng thê lương,
Vì là vận hội Thánh Vương còn mờ.
Chẳng qua vì lá Thiên thơ,
Thời kỳ chưa đến ngó tờ giấy không.
Chừng khi lộ chữ sắc hồng,
Là người mới rõ tấm lòng Thần Tiên.
Đây là một lẽ cơ huyền,
Nhìn ngay bàn Phật hiểu liền bớ ai !
Khuyên nhau hãy rán siết tay,
Cùng đi một nhịp đến ngày hoàn chung.
Có khi ngư thủy tương phùng,
Là ngày dân chúng thỏa lòng ước ao.
Cá kia nay mãi trông sao,
Bị mây che án khó lao được mình.
Chờ cho lộ được Long Đình,
Hội nhà đã đậu thì mình mới ưng.
Dửng dưng trước Mặc Cần Dưng,
Lao lung Vàm thuận muôn phần ngẩn ngơ.
Ai ôi ! tâm tánh quá mờ,
Hãy nên chùi rửa mà nhờ thân sau.
Đây vang tiếng kệ kêu gào,
Muốn người được có một màu với đây.
Cũng đồng tôn kính Đức Thầy,
Cũng đồng vẹn vẽ tháng ngày lo tu.
Mặc ai gây oán kết thù,
Nếu nhân không có quả đâu có nào.
Ai ôi ! muốn được làm giàu,
Phải nên tích trữ đã lâu mới thành.
Cũng như muốn được nên mình,
Phải cần trau sửa giữ gìn nhiều năm.
Ngày nay Phật để vào tâm,
Ngày mai ma quỉ đâu xâm được nào.
Dân ôi ! thấy cảnh bên Tàu,
Lớp thời giặc giã lớp nào đói cơm.
Thấy người mình phải giữ thân,
Kẻo ngày kia cũng đến gần như ai.
Nhớ chăng Triều Tiên hôm nay?
Nước ta e cũng có ngày giống in.
Nếu như không biết giữ gìn,
Để lầm chỗ quấy xác hình nát tan.
Trên đời xác thịt đã mang,
Dầu ai cũng phải chịu đàng tử sinh.
Nhưng hồn chết được hiển linh,
Để đời còn chút tưởng tin với nào.
Chớ như chết cảnh hoạt đầu,
Để đời có chỗ biếm bao vô cùng.
Đùng đùng tiếng nổ đùng đùng,
Bao tròn Đông Á vô cùng thảm thê.
Ai ghê tôi cũng đồng ghê,
Ai không tôi cũng chẳng hề ngơ tai.
Phận mình rán uốn cho ngay,
Có khi thong thả trở tay cứu người.
Ngày nay thế cuộc gần rồi,
Để chờ lóng được thì đời mới xinh.
Gọi kêu ai phải rán tin,
Tin lời chơn chánh mà gìn tâm tu.
Kêu nhau cho rõ đạo mầu,
Gọi nhau được biết cao sâu đạo đời.
Như tôi cũng thể mọi người,
Theo Thầy học đạo lánh đời dối gian.
Nhờ đâu được có điễn quang,
Bởi duyên kiếp trước, cũng toan buổi này.
Chờ khi tớ gặp được Thầy,
Mới tường thiệt giả rõ tay anh hào.
Hỡi này đồng đạo, đồng bào !
Rán tu nhờ lấy không nài ép ai.
Người tu thì của người xài,
Chớ đây không có ép nài hoặc thêm.
Người thành người quán cổ kim,
Không thành người chịu những điềm hung tai.
Như đây thương xót gái trai,
Cũng đồng nhơn loại trong ngày điêu linh.
Với là đồng đạo đồng trình,
Nên đây phải rán lời lành nhủ khuyên.
Biết sao cho toại trần duyên,
Kẻ nghe thời thích người phiền biết sao.
Nhưng ôi ! người có thấp cao,
Thì tâm kia cũng nhiều màu hiển nhiên.
Hơi đâu chát nỗi ưu phiền,
Đời còn mê muội Phật Tiên rộng tình.
Chê người tức thị chê mình,
Thương người đó lại trở thành thương thân.
Mong nhau gìn vẹn Bốn ân,
Với Mười điều thiện một lần nầy đi.
Chừng sau không cánh không vi,
Trên không bay được rõ khi nhiệm mầu.
Nay còn chờ cuộc đáo đầu,
Muốn mau không được kéo lâu chẳng rồi.
Dân ôi ! kìa hỡi dân ôi !
Lời khuyên đây đã cạn lời hãy nghe,
Trở về lóng tánh trong ve.
Để soi được mặt để khoe được hình.
Gọi rằng định huệ viên minh,
Nay còn xao xuyến chưa sinh chỗ mầu.
Lời khuyên ai hãy nhớ lâu,
Khi ra về cũng cần âu sửa mình.
Đến đây đã dứt lời lành,
Chúc cầu cô bác chị anh được thiền(g).
Giảng kệ đến đây đã dứt rồi,
Hình như đồng đạo chưa đành thôi.
Nhưng mà giảng lệ còn kỳ khác,
Xin hãy vui lòng để bước lui.

Mùng 1 tháng 5 Quý Tỵ -Tức 11 tháng 6-1953.
11- Ngày Rằm tại Tây An Cổ Tự: Sự Ham Muốn và Niệm tưởng chơn chánh

Ngày Rằm tại Tây An Cổ Tự: Sự Ham Muốn và Niệm tưởng chơn chánh

Thưa quý đồng đạo,
Hôm nay ngày Rằm tháng 5 năm Quý Tỵ, lần giảng này là phiên thứ 8 của ngày giảng thường lệ tại ngôi Tây An Cổ Tự.

Lần này cũng như bao nhiêu lần khác, tôi không xiết vui mừng được thấy sự tu hành, lòng đạo đức sốt sắng của chư đồng đạo biểu lộ bằng cách đông đúc ở mỗi phiên giảng.

Thấy thế, tôi không sao quên được sở hướng của chúng ta mà có những lời khích lệ cho nhau được
phấn tấn thêm lên, được đến khi hoàn thành mục đích cứu cánh duy nhứt trên đường tu học Phật Pháp.
Thưa quý đồng đạo, Hôm nay tôi xin giảng về “Sự Ham Muốn và Niệm tưởng chơn chánh” phải được như ý.

Người tu không phải tuyệt nhiên chẳng có sự ham muốn mà sự ham muốn vẫn luôn có và có nhiều.
Song cái ham muốn ấy nó từ thiện chơn chánh, nghĩa là trên con đường lành kẻ tu hành đầy khát vọng
cho sự từ thiện chơn chánh của mình chóng đến kết quả. Nên đem hết nghị lực để đương ngăn và ruồng bỏ tất cả việc xấu xa đã qua và sẽ tới.

Có nhiều khi xóa bỏ cả gia đình, tài sản và tánh mạng của mình để cung phụng cho ý nguyện cao cả của đạo mà không hề nghĩ đến sự gian lao nghèo ngặc. Cái ý nguyện ấy giá như phải đổi bằng mọi sự đau đớn cùng kiệt cả đời mình, cũng vẫn vui vẻ hăng hái để theo dõi đến ngày kết quả như ý.

Đấy không khác nào kẻ tập bắn cung, muốn cho mình trở nên người thiện xạ thì phải nhắm ngay hồng
tim để thao luyện, lúc đầu còn sai chạy, Song nhờ kiên chi lâu ngày, đến sau chắc được trăm phần trúng đích.

Đối lại việc chế ngự cái ý muốn của người cũng thế, ban sơ nó còn xen tạp nhiều việc, một khi rèn luyện cho nó được thuần rồi thì chỉ tồn lại có một cái muốn chơn chánh thôi.

Đến đây ta mới thấy bao nhiêu điều tốt lành sáng sủa nó hiện bày nơi ta và mỗi kẻ chung quanh, bằng cách tội lỗi ngu độn ác khí nặng nề nó không còn lai vãng đến ta nữa, vì trong người ta không có cơ cảm mọi việc đó.

Vả lại cái ý muốn nó có quan hệ cho hiện hữu và tương lai của người rất nhiều, nó có thể giúp cho
người được đầy đủ về tinh thần cũng như vật chất.

Song nó cũng dễ hại người không khéo sử dụng nó vào việc chánh đáng và nó dễ bị cảm nhiễm, song nó thuộc hạ của bản tâm, nếu tâm được chủ trì thì cái ý nó không sao có những cái muốn xằng bậy được.

Như thế là ta đã nắm được cái yếu điểm của ý muốn rồi vậy. Đồng thời, chúng ta còn phải đào luyện cái
niệm tưởng cho được thanh khiết.

Niệm tưởng có thể coi nó hơn một kẻ trộm nghề, rong một tít tắc đồng hồ, nó có thể vào ra nhà này nhà
nọ và khắp cả thế giới một cách nhanh chóng quỉ quyệt mà con người khó tìm thấy tung tích hoặc ngăn
chân trước được.

Từ chỗ niệm tưởng sái quấy dẫn đến hành động tội lỗi dễ dàng, như người chơi dao dễ bị đứt tay.

Chúng ta trong lúc cúng lạy, như khi ngồi niệm Phật đều phải có sự niệm tưởng tha thiết cố kéo cho tinh  thần giữa mình với chư Phật được gần nhau.

Ngoài ra, không thể có cái niệm tưởng nào khác chen vào, cũng như Quan Công quá ngũ quan, trảm lục
tướng để tìm Lưu Bị thì mới có hiệu quả trọn vẹn.

Một khi cái niệm tưởng đã được duy nhứt cùng Đức Phật, ta sẽ cảm thấy giữa ta và Đức Phật được cảm
thông trực tiếp, không bị một “Hoặc Trần” nào làm chướng ngại.

Đến đây ta sẽ được tự do đi lại khắp chỗ “Sắc Không” mà chẳng hề bị cảm nhiễm, vì ta đã trở về một
lẽ chánh niệm như của chư Phật.

Nhân đó bao nhiêu đức tánh Từ, Bi, Hỷ, Xả, ta sẽ đem ra thực hiện cho chúng sanh mà không bị núi
nhơn ngã cản trở, lửa sân hận thiêu đốt hoặc nọc phiền não giết hại lòng bi nguyện thâm thiết của ta
được.

Như thế là ta nắm được phương tiện vi diệu, để quyền thiệt hóa độ chúng sanh do theo cái “Chánh
niệm” của chúng ta và ta sẽ không còn e ngại mãnh lực của tử thần quấy nhiểu nữa vậy.

Thưa quý đồng đạo,
Sở dĩ chúng ta phải luôn luôn khắc nghiệt với mọi ham muốn và niệm tưởng xấu xa nơi ta, là bởi chúng
ta đã xác nhận có nhân quả, địa ngục và có luân hồi.

Vì rằng nếu ta gieo hột giống “Ham muốn niệm tưởng xấu xa” sẽ không tránh khỏi ngày kia hái lấy
Bông trái xấu xa”, nghĩa là khi ta có làm việc chẳng lành thì sẽ bị việc chẳng lành trả lại mà vào khám đường thế gian, hay địa ngục u minh, hoặc bào thai cõi trần cũng là một cái phản ứng của luật nhân quả ấy mới có.

Ngoài điều này, chúng ta còn dư biết con người của ta sẽ già, sẽ bịnh va không tránh khỏi cái chết, nên
chúng ta không chậm lại lúc nào mà chẳng quan thiết sự tiến đến mức giải thoát cho khỏi nỗi thống khổ của vô thường trong kiếp này và kiếp tới.

Vì thấy ngày giờ không lúc nào nó theo ý muốn của ta mà dừng lại, mà là nó đi là cứ đi, cho đến ngày này ngày khác cũng vẫn như thế mãi, mà hễ một phút qua là mất của ta một phút sống, mà càng nhiều phút qua là càng mất của ta thêm nhiều phút sống nữa vậy.

Đành rằng kiếp này đã lỡ mang xác chất tứ đại, hẳn không thể tránh được ngày tan rã của nó, song ta cứ
dự bị, cứ tranh thắng với tử thần trong muôn ngàn kiếp sẽ tới, bằng hiện giờ ta không gây tạo một nhân
nghiệp oan nghiệt, luyến ái nào ở cõi này thì không do đâu mà ta sanh lại cõi này được.

Nếu không vào cõi Ta bà này, thì mọi sự đau khổ chết chóc đối với ta chẳng khác nào sương đối với mặt trời. Ta sẽ sống một cách tự tại nơi cõi vô biên cõi Cực Lạc của chư Phật và sẽ có đủ công đức cứu khổ chúng sanh khỏi biển mê đồ trở về đồng hưởng tự tại như ta.

Tóm lại, những điều trên đây là việc đáng cho kẻ tu hành “niệm tưởng và ham muốn” mà lúc nào nơi lòng chúng ta cũng mong mỏi thiết tha cho được như ý nguyện.

Đã sanh ra giữa cõi trần,
Ít người thoát khỏi nợ nần đã gây.
Gỡ ra thì có mấy ai,
Buộc vào xem thấy đời nay nhiều người.
Muốn sao ra khỏi bể vơi,
Một phen tu tỉnh lánh đời mê si.
Cõi trần giấc mộng lâm ly,
Một cơn thức tỉnh việc chi không còn.
Nhớ đây cuộc tạm thon von,
Mọi điều vẫn có hao mòn mãi thôi.
Cõi trần khổ lắm ai ơi,
Con đường đạo đức trau giồi chớ quên.
Làm sao cõi Phật được lên,
Thoát đường sanh tử mới bền bớ ai !
Mấy khi người cổ tái lai,
Nếu không trở gót uổng thay muôn đời.
Kệ cơ giảng giải hết lời,
Mà lòng sanh chúng ít nơi tín thành.
Mỗi khi nhìn mối đạo lành,
Tâm hồn dường thể ai đành xé tan.
Thương dân xào héo tim gan,
Mến người cảnh khổ mới toan khuyên người.
Nhưng ôi ! mấy kẻ nhớ lời,
Tưởng đây là quyến rũ người mê man.
Biết đâu cuộc thế sắp tàn,
Cho nên Tiên Phật hiệp đàng tái lâm.
Một phen đạo lý ca ngâm,
Khiến người sớm biết để tầm đức ân.
Ngày kia được lánh mê tân,
Kẻo mà hối tiếc muôn phần bớ ai !
Đạo đồng già trẻ gái trai,
Đi nghe lời giảng bấy nay cũng nhiều.
Hỏi ra nhớ được mấy điều,
Phần nhiều kia lại vắng hiu có nào.
Lời khuyên thật rất ngọt ngào,
Chỉ vì muốn kẻ được mau đắc thành.
Nhiều khi tâm trí Sĩ Thanh,
Tủi buồn thương xót chị anh sau này.
Tuy rằng bổn đạo Đức Thầy,
Không làm chơn chánh sau này cũng tiêu.
Khác phe mà giữ luật điều,
Ngày kia cũng được sống nhiều hơn ai.
Công bằng lẽ ấy không sai,
Hỡi người đồng đạo hôm mai rán gìn.
Khuyến ca đây cũng hết tình,
Ngặt lòng kia chẳng biết gìn làm sao.
Tưởng cho nơi cõi trần lao,
Được còn mãi mãi nên xao lảng lòng.
Ai ôi ! hãy rán làm xong,
Một là có đức, hai công với đời.
Ngày kia mới được chói ngời,
Sống còn trong phút lập đời bớ dân !
Nhìn nhau mà luống buồn bâng,
Thương nhau không thể ngại ngần lời chi.
Khóc đời gặp đấng từ bi,
Mà tâm kia lại ngảnh đi không tìm.
Khóc đời mê luyến đời kim,
Không noi người cổ thoát miền lao lung.
Khóc đời sao quá đỗi hung,
Ngày kia tan tác như bùn gặp mưa.
Khóc đời hẹn sớm quên trưa,
Với lòng sao lại không ưa Phật Trời.
Khóc đời gặp lúc chuyển dời,
Thân kia có thể yên nơi bớ trần.
Khóc nhau khó đến non thần,
Bởi mình còn nặng nợ trần quá ư.
Khóc nhau khó gặp Tôn sư,
Bởi lòng xao lảng không như buổi đầu.
Khóc nhau chia áo rẻ bâu,
Chẳng đem dạ mến cứu nhau buổi này.
Khóc nhau miệng nhắc Đức Thầy,
Mà lòng kia lại tà tây không rời.
Khóc nhau lời chẳng nhớ lời,
Đua theo hiện hữu quên đời Thượng lai.
Khóc nhau khó đến ngày mai,
Bốn phương giặc giã xâu tay giật giành.
Khóc nhau như sợi chỉ mảnh,
Chẳng toan kết lại cho thành xấp tơ.
Khóc nhau như đứa con thơ,
Một khi vắng sữa ngẩn ngơ khóc oà.
Khóc cho quả đất chúng ta,
Một khi thay vỏ thiết tha muôn vàn.
Hỡi này tất cả xóm làng,
Đường tu khuyên hãy kiên gan một màu.
Dù cho gian khổ thiên lao,
Cũng là vững bước chớ xao lảng lòng.
Còn chi ray bưởi mai bòng,
Đời này hãy rán một lòng lo tu.
Tránh sao khỏi vướng ngục tù,.
Thoát ra cảnh ngoại vân du vui cười.
Đây là thế kỷ hai mươi,
Đổi thay phút chốc cuộc đời khác xa.
Muốn dân lớn nhỏ trẻ già,
Được đi đến chốn xem mà hội Tiên.
Hưởng đầy thú vị thiêng liêng,
Khỏi cam thống khổ nơi miền phàm gian.
Nhưng nay phải rán lo toan,
Trên đường đạo hạnh sửa sang một bề.
Trong nhà ngoài ngõ chỉnh tề,
Xử thân cho vẹn không hề lao đao.
Việc đời chớ hỏi chừng nào,
Hãy nên lượng xét trước sau thời tường.
Chiến tranh nổi dậy khắp đường,
Cuộc đời lay lắc như dường lá rung.
Biết sao khắp cả cõi hồng,
Cùng nhau được có một lòng mà thôi.
Nay đây thế cuộc hỡi ôi,
Bởi tâm dân chúng vô hồi rẻ chia.
Càng suy giọt lụy đầm đìa,
Thế mà trông Đức Thầy về làm sao.
Lời khuyên tiếng dạy không trau,
Mãi lo các cuộc mận đào lợi danh.
Làm dân còn chẳng vẹn mình,
Mong gì sau được đắc thành Phật Tiên.
Hỡi này đồng đạo đồng thuyền,
Hãy nên ghi nhớ đeo liền chánh chơn.
Khuyên nhau nay được gặp cơn,
Có vì Tiên, Phật, Thánh, Thần giáo răn.
Nên ghi nhớ Phật, Pháp, Tăng,
Với lòng hôm trước vẫn năng kỉnh thiền(g).(*)
Làm xong được mọi việc hiền,
Cũng như được có chiếc thuyền qua sông.
Tiện bề đến Hội Hoa Long,
Vững vàng tới được cõi Bồng bớ dân !
Có thân hãy liệu lấy thân,
Trễ chơn ắt phải lâm cơn tai nàn.
Mỗi người đều có gia cang,
Hãy khuyên nhau được bền gan tu hành.
Ông tu ông đắc đã đành,
Nhưng lòng phải rán giữ gìn vẹn hai.
Chớ cho cuộc thế dằng dai,
Sợ khi biến đổi không hay bớ người !
Khác chi nơi giữa lừng trời,
Bỗng nhiên mây nổi rồi thời mưa sa.
Huyền vi khó lượng thay là,
Không toan trước đến sau mà khó toan.
Làm sao giờ chót trẩy sang,
Qua nơi Văn Giáo khỏi mang thương nghèo.
Hai bên đầy dẫy hùm beo,
Giữa thời dân chúng cùng reo tiến hành.
Chừng khi nước đến Nam Thành,

(*) Kỉnh thiền hay kỉnh thiềng: nghĩa là kỉnh thanh. Như trong
trang kế tiếp: “Sớm hôm thành kỉnh mới hầu được nên”

Nhìn ra mới thấy nơi mình máu không.
Ngày nay tu niệm coi đông,
Đến khi thành tựu gẫm không mấy người.
Thấy vui mà chẳng dám cười,
Thấy buồn lại gắng khuyên đời nhớ ghi.
Làm sao khi đến trường thi,
Tay rinh nhành quế thiệt ni anh tài.
Bây giờ tập viết học bài,
Để lòng cho thuộc đến ngày ứng khoa.
Đạo đồng hãy nhớ kỹ ra,
Thi đây thi chỗ lòng ta hiền lành.
Ngày kia các đấng thần minh,
Tùy theo mỗi xác hiền lành mượn tay.
Để hầu cứu độ muôn loài,
Chuyển xoay đất nước thoát tay hung tàn.
Bây giờ tâm chẳng sửa sang,
Ngày kia ma quỉ chúng mang đến vào.
Chừng ni cờ sắc đủ màu,
Hãy tùy theo ngọn cờ nào chánh chơn.
Nhớ ghi cho rõ nguồn cơn,
Lá “Cờ Dà” gẫm là hơn mọi cờ.
Nhưng không có chữ bao giờ,
Mới là của quí để chờ mai sau.
Hỡi này đồng đạo sửa trau,
Trên đời quả thiệt hai màu trộn pha.
Có thật thì có giả ra,
Nhưng ôi ! tồn tại gẫm ra lẽ mầu.
Sự tu cần phải gắng cầu,
Sớm hôm thành kỉnh mới hầu được nên.
Ngoài ra việc thiện cứ bền,
Lo làm tất cả lẽ hiền chớ xa.
Như xưa Đức Phật Di đà,
Làm vua ngôi vị hơn mà nhơn dân.
Một khi gặp Phật ứng thân,
Hy sinh tất cả không cần món chi.
Bốn mươi tám nguyện còn ghi,
Đầy lòng bác ái từ bi với đời.
Chẳng ham danh vọng của người,
Không tham phú qúi gặp nơi nhiệm mầu.
Đạo đồng dẫu phải chờ lâu,
Với tâm kia chớ nghĩ đâu xa vời.
Xung quanh đều có đất trời,
Xét soi mỗi lúc xin người chớ quên.
Chẳng qua Thiên định chưa yên,
Vẫn còn hì hụt để đền quả căn.
Một khi huyền trướng phá băng,
Ơn trên Phật định thời an mọi bề.
Đạo đồng rán dứt tâm mê,
Ngày kia sẽ được quay về Cõi Không.
Nhắc đi nhắc lại Hoa Long,
Hoa Long chưa tới người hòng chưa tin.
Cũng như cái kiếp phù sinh,
Dù ai cũng chết lòng mình chưa ghê.
Nói rằng cõi Phật xang xuê,
Nhưng người chưa thấy chưa mê chút gì.
Chừng nào hiện trước mặt thì,
Giựt mình ắt cũng chạy đi rộ rần.
Nói xa rồi lại nói gần,
Giác lui giác tới mọi phần giả chơn.
Tùy thời tùy cảnh tùy duơn,
Tùy tâm ham mộ để phân cho rành.
Sự tu thì phải nhớ hành,
Được lòng chơn chánh công thành khỏi đâu.
Ngày giờ mau tợ bóng câu,
Dân ôi ! phải biết nơi đâu mà hành.
Con đường chơn chánh phải lành,
Là nơi siêu việt hãy tin một lòng.
Ngày nay muôn việc cõi hồng,
Rán chiều một thứ hẳn không được bền.
Mong người cứ bước mãi lên,
Đến Lư Bồng hội đáng nên tu hành.
Giảng cơ đã chỉ đành rành,
Từ phương xử thế đến mình tu thân.
Dạy cho Mười Thiện, Bốn Ân,
Diệu Đề, Bát Chánh đã phân quá rành.
Chỉ còn nay phải thật hành,
Thì là được thấy huệ linh chớ gì.
Đạo đồng diệt sạch lưới nghi,
Hãy nên tin quyết thoát ly tai nàn.
Đây là cõi mộng trần gian,
Hiệp tan tan hiệp muôn ngàn chưa xuôi.
Nhìn nhau mà luống ngậm ngùi,
Sợ nhau như trái chín mùi trên cây.
Nhìn nhau mà nhớ Đức Thầy,
Vắng nhà để lại một bầy con thơ.
Nhìn nhau mà luống ngẩn ngơ,
Không Thầy bổn đạo như tơ rối cuồng.
Nhìn nhau buồn chưa hết buồn,
Bởi còn trong cảnh quay cuồng chiến tranh.
Nhìn nhau xào úa năm canh,
Muốn sao được một tâm thành như nhau.
Nhìn nhau thống thiết kêu gào,
Để đi đến chỗ khỏi vào thiết lung.
Nhìn nhau xào héo tim trung,
Kêu nhau hãy rán vẫy vùng kiên gan.
Nhìn nhau như ngọn đèn tàn,
Nhán lên thật sáng để toan tắt lỳ.
Cuộc đời này có ra chi,
Hãy nên gác bỏ nó đi cho rồi.
Cũng ăn cũng mặc như người,
Mà tâm đã lánh khỏi đời phàm nhân.
Hỡi này đồng đạo xét phân,
Giảng cơ đâu có lựa lần với ai.
Nói thời chỉ dụng lời ngay,
Vì tình bác ái phô bày đấy thôi.
Nghe không thì cũng mặc người,
Với lời đáng nói hẳn thời phải phân.
Khuyên nhau hãy nối gót chân,
Đừng cho rời rạc khỏi cơn nguy nghèo.
Một khi qua khỏi suối đèo.
Đến nơi trống trải nạn nghèo hết mang.
Vắng Thầy ta phải gian nan,
Gặp Thầy như được nhàn an lắm rồi.
Giả chơn nay mới rõ đời,
Vạy ngay chỉ ở khi người thiếu cơm.
Có khi nghèo giữ tiếng thơm,
Đến chừng có của, rạ rơm không cần.
Khuyên nhau vững bước một lần,
Đến ngày lập hội Non Tần mới yên.
Lời khuyên đây thật lời khuyên,
Khuyên nhau hãy rán làm hiền đấy thôi.
Đến đây bài giảng hết rồi,
Xin chào đồng đạo sớm hồi bình yên.
Giảng kệ khuyên nhau tiếng dịu dàng,
Chỉ vì muốn đến hội Nhà Bàng.
Không phân để kẻ lâm sầu mộng,
Nên phải đôi lời gọi réo vang.
15 tháng 5 Quý Tỵ - Tức 25 tháng 6-1953.
12- Đêm 17 tại Tây An Cổ Tự nhân dịp Lễ kỷ niệm

Đêm 17 tại Tây An Cổ Tự nhân dịp Lễ kỷ niệm

Đệ Thập Tứ Châu Niên ngày Đức Thầy khai sáng
nền đạo Phật Giáo Hòa Hảo: Giảng về Sự Tu
Thanh Sĩ tôi cúi đầu chào tất cả đồng đạo nam nữ,
Muôn kiếp siêu không một kiếp này,
Cam lồ một giọt giã cơn say.
Thắm mùi thiền tịnh phai mùi tục,
Hẹn với Long Hoa có một ngày.

Thưa quý đồng đạo,
Còn nhớ 14 năm trở về trước ở Nam Việt có hơn 2 triệu linh hồn đương ngủ vùi trong màn danh lợi. Bỗng có tiếng chuông từ làng Hòa Hảo, quận Tân Châu hạt Châu Đốc ngân lên, khiến cho mấy triệu linh hồn ấy bắt đầu rung cảm tỉnh dậy.
Tiếng chuông ấy của Đức Huỳnh Giáo Chủ đánh lên, hơn 2 triệu linh hồn ấy của khối tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo và hôm ấy chính là ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão.

Thưa quý đồng đạo,
Mai này đến lễ kỷ niệm năm thứ 14 ngày Đức Huỳnh Giáo Chủ, là Đức Thầy của chúng ta, khai sáng mối đạo Phật Giáo Hòa Hảo.

Để tâm hồn sống lại 14 năm qua khi giữa nhau còn thắt chặt mối tình yêu đương đạo đức một cách tuyệt luân, không chỉ hơn là hiện thời giờ chúng ta cần nhắc đến công lao và giáo lý của Đức Thầy đã từng dạy dỗ cho toàn cả bổn đạo, khiến cho nhau từ nhỏ chí lớn được nhớ lại, hầu có hăng hái thêm lên, để trau giồi đức hạnh cho tới ngày trọn lành trọn sáng.

Nhân đây tôi xin “Giảng về Sự Tu”.
Tại sao ta phải tu? Xin trả lời:
Sở dĩ ta phải tu là vì có ba nguyên nhân khẩn yếu như sau:

1- Nhân Quả Sâu Nhiệm.
2- Thời Kỳ Độc Nhứt.
3- Chơn lý Bất Diệt

- Cái sâu nhiệm của nhân quả đã được giữ vững giá trị của nó từ vô thỉ dĩ lai, trên khắp cả nhơn loại chúng sanh, là hễ làm lành thì sẽ gặp lành, làm dữ thì sẽ gặp dữ. Chí đến một mảy nhỏ của người tạo ra đều có báo ứng hẳn hòi.

- Cái thời kỳ độc nhứt là Thượng cổ trở lại, buổi hạ nguơn sắp tàn, bao nhiêu oan gia nghiệp báo của
chúng sanh đã gây tạo từ trước đến nay đều phải đền trả gấp rút, để kịp thời kỳ của Tam Hoàng mở hội định phân tội phước cho chúng sanh các giới, được có thưởng phạt lần chót trước khi đổi mới thế gian.
- Cái chơn lý bât diệt là một sự thật duy nhứt của vũ trụ vạn hữu, không có một đối tượng nào chẳng lấy nó làm bản thể độc nhứt, được đem ra đối chứng cho tất cả việc này việc khác, để thấy được cái hư cái thực một cách rõ ràng chắc chắn.

Chơn lý đối với lẽ thành, trụ, hoại, không của muôn đời, nó không bị ảnh hưởng vào đâu khiến thêm hoặc bớt, mà là nó vẫn được thường trụ bất biến cũng do một thể với bản tâm vậy.

Cho nên khi trở về với chơn lý thì không hề bị một cảnh giới sắc không nào làm chướng ngại và cũng
không thấy sự chênh lệch giữa cái này cùng cái khác mà vẫn được bình đẳng rỗng sáng như hư không.
Bởi thế mà kẻ học Phật lúc nào cũng vui vẻ để làm những việc khó khăn, bỏ những việc khó bỏ, chí đến
những việc chết chóc cũng coi bằng thừa, là vì ta đã nhận rõ cái nguyên lai của chơn lý và chính ta đang trở về với chơn lý.

Và ta cũng hằng tránh cho được mọi việc làm tội lỗi.

Vì tội lỗi sẽ không tránh khỏi phản ứng của nhân quả để thọ báo, mà hễ thọ báo của tội lỗi thì toàn là những những việc đau khổ hoạn ách, chẳng những cho riêng mình mà còn lây hưởng đến kẻ quyến thuộc nữa.

Đã thế ngày biến diệt của cõi ngũ trược ác thế sắp đến gần đây, mà xét lại lỗi lầm trước kia của ta còn
nhiều, thì lý đương nhiên là ta phải gấp rút chừa bỏ và ngăn ngừa đừng cho tái phạm. Có vậy mới cứu ta khỏi tội và được phước qua khỏi ngày biến diệt vậy.

Vả chăng ngày giờ chẳng hề đợi ta, cũng như cái già, cái bịnh, cái chết nó không chừa ta, thì bây giờ ta cũng nhanh nhẹn mượn gậy kim cang, nương thuyền bát nhã để có chống chế cho thoát khỏi cánh tay ác nghiệt của bọn chúng. Chớ ta không thể vì công danh phú quý giả tạm của cõi này mà làm trở ngăn ngu độn con đường giác ngộ và giải thoát của ta được.

Những lẽ trên đây làm nguyên nhân khẩn yếu cho sự tu của ta ngày nay, mà chứng minh ở các việc này
chính là Đức Thầy của ta đã mách dạy cho ta vậy.

Thưa quý đồng đạo,
Cũng vì mấy nguyên nhân đã kể trên mà Đức Thầy của chúng ta không quản đến khổ lao tai ách, ngót năm trường dìu dắt chúng ta, cho đến ngày giờ này vẫn còn ở chốn ngàn xa vắng dạng.

Lòng của Đức Thầy hẳn không phút nào quên chúng ta, vẫn muốn cho chúng ta đối với nước nhà cũng như đạo lý đều được có công nghiệp công đức lớn lao, nên rất vui vẻ mà lãnh lấy bao nhiêu nỗi gian truân thảm khổ, để bảo tồn sinh mạng tín ngưỡng cho chúng ta được đến ngày thành đạt mục đích.

Trái lại, trong lúc vắng mặt Đức Thầy, việc làm của ta không khéo cẩn thận để cho anh em tín đồ phải đau khổ, hoặc đâm ra nghi ngờ sự vắng mặt của Đức Thầy, hay lời dạy dỗ trong sám giảng mà gây ra những việc làm tội lỗi xấu xa, có hại cho gia đình cho xã hội cho Đạo giáo, thì con người của chúng ta sẽ trở thành kẻ bội nghĩa.

Và đến ngày kia mạng chung không những phải đọa vào địa ngục chịu khổ mà cũng không còn phương tiện tỉnh giác như bấy giờ, để cứu vớt tổ tiên cha mẹ khỏi bể trầm luân và chúng sanh thoát vòng khổ não. Còn nói gì ngày Hội Long Hoa đến đây hẳn không bao giờ ta thấy được nếu ta không gấp rút hối cải việc quấy.

Vì thế cho nên nhân lễ kỷ niệm ngày Đức Thầy khai Đạo, tôi có lời nhắc nhở cho toàn cả đồng đạo hãy nhớ Thầy, tưởng đạo và nghĩ đến sự cứu vớt tổ tông cha mẹ và chúng sanh, mà hăng hái theo dõi tư tưởng thanh cao, tinh thần hỷ xả của Đức Thầy của Phật thánh cho đến khi được thành tựu viên mãn. Nhứt là được đầy đủ đức tin và đạo hạnh cho đến ngày Đức Thầy trở lại.

Muôn Thu mới có một kỳ,
Hãy nên nắm lấy đạo nghì chớ buông.
Gặp khi thế giới quay cuồng,
Dây oan bổn đạo gỡ suông mới mầu.
Con đường Phật Pháp cao sâu,
Phải nên trì niệm mới hầu thành công.
Vang lên một tiếng chuông đồng,
Con người trong mộng sớm hòng tỉnh tâm.
Lời đây cũng không phải ca ngâm,
Tùy theo sở thích mà tầm cứu nhau.
Muốn người nghe lấy từ câu,
Ra về cũng nhớ như hầu ở đây.
Bốn phương khói lửa dẫy đầy,
Giữa mình đâu chắc an bày viễn miên.
Những ngày tai họa điên liên,
Năm châu thế giới đâu yên chỗ nào.
Trải qua Nga, Đức, Nhật, Tàu,
Kéo luôn thế giới hô hào chiến tranh.
Tiểu bang, Đại quốc xúm giành,
Kẻ thì lo cướp người tranh lợi nhà.
Thiết tha ôi ! Rất thiết tha,
Chỉ cầu cho khắp người ta tu hành.
Nhớ rằng lợi kẻ lợi mình,
Ấy là hợp lý nên hành bớ ai !
Lợi mình mà kẻ mang tai,
Là điều trái ngược đừng gây bớ người.
Mấy khi Nguơn Thượng phản hồi,
Ấy là duyên trước của người đã gieo.
Bây giờ khuyên hãy gắng đeo,
Khỏi ngày nạn ách đưa theo bên mình.
Sự tu cần yếu tâm thành,
Nhớ lời qui kỉnh thiệt hành cho y.
Cuộc trần thay đổi mấy khi,
Ngày nay gặp được hãy ghì bớ ai !
Lành thay ! Lành thay ! Lành thay !
Vạn dân có thể gần Ngài Phật Tiên.
Phải nên gắng chí khẩn nguyền,
Thành lòng niệm Phật thoát miền lao lung.
Có ai biết được Sơn trung,
Ít người thấy rõ non Tòng lịch chăng.
Nay ghê thiết giáp, xa tăng,
Sau còn gặp lũ tinh chằn ghê không.
Đi cùng chợ búa ruộng đồng,
Để mà xử phạt ai lòng gian manh.
Nay đây khuyên nhủ tu hành,
Để nhờ ơn đức Trời xanh hộ trì.
Mấy khi gặp được khoa kỳ,
Tay rinh khoa giáp hẳn thì được vinh.
Thôn quê cho đến thị thành,
Đua nhau tu niệm nhọc nhành đừng than.
Xác thân khổ hải chứa chan,
Nay tu sau được thanh nhàn hiển nhiên.
Đồng đạo đã có tâm hiền,
Đến đây nghe giảng thì yên chỗ ngồi.
Làm gì kẻ tới người lui,
Hình như tâm họ chưa vui chăng nào?
Đây là những tiếng kêu rào,
Vừa là tha thiết ngọt ngào xiết chi.
Muốn người gặp đấng từ bi,
Sống còn gặp được Bửu Kỳ Hương Sơn.
Ơn Thầy gẫm thiệt trọng ơn,
Chúng ta đã thọ rán thân cho tròn.
Dầu cho biển cạn núi mòn,
Với mình cũng giữ lòng son một bề.
Dầu cho ai có nhún trề,
Nơi mình việc đạo chớ hề bước lui.
Sá chi tiếng nói ngoài môi,
Của lòng nhân ngã của người dối tu.
Chỉ vì một đám sương mù,
Che lòng của chúng mờ lu quá rồi.
Nay đây chưa biết tỉnh hồi,
Sau dầu hối tiếc việc rồi kịp đâu.
Thương nhau nhắc nhở từng câu,
Chỗ này chỗ khác ngõ hầu khuyên nhau.
Nghe không đây chẳng ép nào,
Chỉ thương cho đó ngày sau khổ nàn.
Khi Thầy vắng mặt An Giang,
Bởi vì số hệ Thiên hoàng đã phân.
Lại là mang xác thịt trần,
Phải đành nhồi quả cho phần thêm cao.
Ngày kia sống bủa ba đào,
Thuyền từ trở lại rước nhau đem về.
Nhà Tiên cửa Phật xang xuê,
Chỗ ni là cảnh đáng kề bớ ai !
Cỏi trần này thiệt chông gai,
Dầu cho vương đế đâu ngoài khổ lao.
Khi suy khi thịnh biết bao,
Dinh hư tiêu trưởng việc nào khỏi qua.
Mấy khi gặp hội rừng già,
Để xin nhắc lại gần xa gắng tầm.
Phép mầu của Phật thậm thâm,
Đừng ngờ không tới mà lầm bớ ai !
Khác chi mặt nhựt buổi mai,
Đêm nay thấy tối mai rày sáng trưng.
Đổi thay cơ tạo đâu chừng,
Việc đời khuất khúc muôn phần éo le.
Ai ơi ! Đây chẳng bày khoe,
Chỉ thương Đây mới nhắc nghe đôi lời.
Cũng không có tiếng rủ mời,
Chỉ vì lẽ chánh cạn lời để phân.
Ai ơi ! nên vững tinh thần,
Sau chưa yên lặng tâm trần để nghe.
Cuộc đời thiệt quá khắt khe,
Đạo mầu ta phải rán nghe cho thường.
Khuyên nhau trong ngõ ngoài đường,
Hãy nên giữ dạ cho thường lặng yên.
Đó, Đây gẫm thật hữu duyên,
Cho nên được gặp phổ truyền kệ cơ.
Rán nghe sau được hưởng nhờ,
Không thời đừng nói không ngờ bớ ai !
Lành thay ! Dân chúng lành thay !
Tuy trong cảnh khổ được bài giảng cơ.
Mỗi người Tam bảo có thờ,
Giảng kinh đã sẵn mỗi tờ hãy xem.
Xét mình còn chỗ luốt lem,
Hãy nên rửa sạch được xem hội hàng.
Gọi kêu từ xóm cuối làng,
Ai người biết sợ cuộc nàn hãy tu.
Đây không có phải lời ru,
Chỉ vì muốn kẻ ngao du non thần.
Chuyển xoay máy tạo lần lần,
Từ đây đến rốt cân phân xa nào.
Hãy nên khuya sớm giồi trau,
Từ nơi cúng lạy đến vào sửa tâm.
Nói ra lừa lọc kẻo lầm,
Việc làm phải chọn hợp tâm người đời.
Ấy là được hợp lòng trời,
Ngày kia mới được sống đời bớ ai !
Huyền cơ đưa lại chẳng sai,
Bởi lòng đã nghiệm bấy nay rất rành.
Tuy là mang xác cha sanh,
Kim cang tâm nọ như thành vững yên.
Đấy là cùng một cơ duyên,
Để trau đạo đức sơn xuyên sau này.
Vì thương đồng đạo gái trai,
Nên thân gầy ốm bao nài nệ chi.
Muốn người được biết tu trì,
Việc đời việc đạo trọn thì đôi vai.
Nước nhà công nghĩa mó tay,
Với ngôi Tam bảo hôm mai chuyên cần.
Hỡi ai có sợ họa Tần,
Có e cuộc thế Phong Thần tái lai.
Thì nên giữ lấy lòng ngay,
Trong nhà cũng thể đối nay ngoài đường.
Với ai cũng một tình thương,
Tùy cơ giáo hóa những đường hiền nhơn.
Giúp người không đợi trả ân,
Miễn tròn bổn phận quý hơn hết rồi.
Sợ e cuộc thế dập dồi,
Vạn dân bá tánh vô hồi thiết tha.
Cảnh tình con phải lạc cha,
Vợ chồng chia cách chan hòa hạt châu.
Gặp cơn nắng hạn còn lâu,
Ngửa trong đến giọt mưa ngâu chẳng cùng.
Bây giờ trời chưa nổ đùng,
Người còn dãi đãi không lòng trỉa trau.
Để khi khói lửa cháy ào,
Mới là tìm nước tìm gàu muộn thay.
Hỡi ai ! kìa hỡi bớ ai !
Đến đây nghe giảng nghiêng tai rót vào.
Để mà biện rõ vàng thau,
Tách mình qua khỏi lưới rào yêu ma.
Có chi bằng nỗi can qua,
Khổ thay chết chóc người ta vô cùng.
Bắc, Nam tiếng súng đùng đùng,
Con người sống cảnh phập phồng sợ lo.
Biết đâu mai đói nay no,
Nếu không giữ trước khó cho sau này.
Đồng đạo ơi ! Nhớ Đức Thầy,
Đã nhiều công khó dạy rày chúng ta.
Thừa vưng sắc lịnh Thích Ca,
Với nơi Ngọc đế xuống mà phàm gian.
Lìa nhà lại phải xa làng,
Chỉ vì khuyến giáo trần gian tu hành.
Nay đây có dịp vào thành,
Trễ chơn ăt lọt xuống gành bớ ai.
Quý thay ! Đồng đạo quý thay,
Đến đây đông đảo chú tai nghe vào.
Lời khuyên thật rất ngọt ngào,
Niệm tình đồng đạo để trau cho nhuần.
Chớ đâu nỡ có ớt gừng,
Làm cho tình nghĩa xẻ phân đôi đường.
Mặc người có bụng ghét thương,
Với đây thì chẳng muốn vương mối sầu.
Với ai đây cũng cúi đầu,
Để mà khuyên đó ngõ hầu nhớ tu.
Sửa mình cho hết mờ lu,
Trau thân được vẹn trời thu được gần.
Có chi bằng một chữ cần,
Dầu rằng việc khó mãi lần cũng nên.
Như là Phật Thánh Thần Tiên,
Trước kia cũng đã khổ phiền xiết bao.
Đã dày công cán chùi lau,
Thế nên mới được quả cao cực đời.
Nay đây khắp cả mọi người,
Lòng thành ắt cũng được Trời độ cho.
Khuyên người hãy rán cần lo,
Mấy khi gặp được Trời cho nhiệm mầu.
Một lạy bù mười lạy vào,
Niệm Phật một tiếng Phật trao mười lời.
Đời ơi ! kìa hỡi đời ơi !
Được Trên ân xá sao thời chẳng tu.
Ngồi đây chớ nói lu bu,
Nhứt là ngoài ngõ phải âu giữ mình.
Nghe đây tâm chánh phải gìn,
Chớ đừng quấy rối đức tin của người.
Đây là thế kỷ hai mươi,
Tận tiêu việc cuối làm người phải lo.
Tu sau được hưởng thơm tho,
Của ngày lập thế đáng lo làm người.
Trái là phải tội theo đời,
Hóa làm cây đá khổ thời muôn năm.
Nhớ ghi đạo rất huyền thâm,
Phải nên trì chí nhiều năm mới tường.
Chỉ trừ thời trước Thượng nguơn,
Người căn trí rộng khỏi cần phải trau.
Còn nay đã phải trần lao,
Mà căn chúng hẹp sợ trau chưa thành.
Huống chi là chẳng thật hành,
Bao giờ được hưởng phúc lành bớ ai !
Lành thay ! Lành thay ! Lành thay !
Trăng kia đã tỏ lời nay cũng tường.
Ai ơi ! chỉ một Nhạn đường,
Nơi lòng hôm sớm khói hương chớ rời.
Nhớ Thầy bớ đồng đạo ơi !
Ngày nay vắng mặt coi Người vì ai.
Bởi thương đồng đạo gái trai,
Cho nên Thầy chịu nạn tai lắm hồi.
Chỉ còn ta phải trau giồi,
Để chờ gặp được nước xuôi Thầy về.
Bây giờ còn phải ủ ê,
Chỉ vì cuộc thế rộn rề chưa xong.
Đến đây chào hết đạo đồng,
Giảng cơ đã dứt mà lòng chưa nguôi.
Kệ giảng đến đây đã dứt rồi,
Chào trong đồng đạo khắp người người.
Ra về cũng phải lòng thương nhớ,
Để được ngày kia quả tốt tươi.
17 tháng 5 Quý Tỵ - tức 27 tháng 6-1953.
13- Đêm 18 tại Tây An Cổ Tự Nhân dịp lễ kỷ niệm ngày Đức Thầy khai sáng nền đạo Phật Giáo Hòa Hảo.

Đêm 18 tại Tây An Cổ Tự Nhân dịp lễ kỷ niệm ngày Đức Thầy khai sáng nền đạo Phật Giáo Hòa Hảo.

Một đoàn người lạc giữa rừng hoang,
Gặp vị Chơn Nhơn chỉ nẻo đàng.
Ngày ấy chính nay là kỷ niệm,
Tỏ lòng kính cẩn cả muôn vàn.
Thanh Sĩ tôi cúi đầu chào quý đồng đạo nam nữ,

Thưa quý đồng đạo,
Hôm nay chính thức kỷ niệm Đệ Thập Tứ chu niên ngày Đức Huỳnh Giáo Chủ, là Đức Thầy của chúng ta khai sáng mối đạo Phật Giáo Hòa Hảo.

Để tỏ lòng thành kính đối với ngày lễ này chúng ta nên ôn lại vấn đề đạo đức mà chính Đức Thầy đã dạy chúng ta nhiều lần trong sám giảng.

Sự tu không thể lấy một ít việc ăn chay, cúng lạy, niệm Phật suôn sẻ mà gọi là trọn nghĩa của sự tu
được.

Mà trong sự tu cần phải kèm thêm sự hành luôn cả hai mặt của “Việc Người lẫn Việc Phật” mới được.
Đối với người phải đem Tam cang Ngũ thường ra mà đối xử. Đối với Phật cần lấy Tam quy Ngũ giới ra mà tôn thuận.

Và bên ngoài của mỗi cảnh, cũng như bên trong của lòng mình đều giữ lặng lẽ trong trắng làm gốc. Nghĩa là ngoài chẳng vọng các trần, trong không loạn bổn tâm, luôn luôn dùng trí huệ để phương tiện hành xử cho mọi việc được ổn đáng và ích lợi giữa người với ta mà không một mảy háo danh.
Với việc làm này ta không chút nào rời bỏ.

Theo lời Mạnh tử có nói: “Tuy thế gian hữu dị sanh chi vật, nhứt nhựt bộc chi, thập nhựt hàn chi, vị hữu
năng sanh giả dã”, Nghĩa là: “Tuy trong thế gian có thứ cây dễ trồng, song một ngày phơi nắng, mười ngày tưới nước nó chưa được sống nói chi có trái”.

Đúng vậy, nếu việc đạo của ta trước cần sau biếng, nay chăm mai lảng, thì cái tội trước của ta đã gây còn chưa rửa sạch, đâu có dư được phước mà hái lấy cái quả tốt lành và cũng không do đâu để mở mang trí tuệ cho được.

Vả lại, muốn cho trí tuệ được mở mang, lúc nào ta cũng cần trừ sạch “vọng hoặc”(*), giữ lòng tịch tinh như khoảng không, như gương sáng, tự tánh hay hàm dung và soi ứng vạn vật mà không bị dính mắc suy giảm.
Và đối với cái đạo nó chẳng phải xa, chẳng phải gần, không màu sắc, cũng lớn cũng nhỏ, chẳng lấy mắt mà thấy được, không lấy tay mà rờ được, trong 12 giờ đều xoay ở quanh ta, ta phải tự trở lại với lòng ta để mà gặp đạo, thấy đạo. Vì nó rất tương tự và mật thiết với bản tâm của ta vậy.
Nếu ta rời bản tâm của ta tức là ta rời cái đạo, mà hễ rời cái đạo thì chẳng khác nào cá rời khỏi nước không thể sống được.

(*) Vọng: là sai sự thật, như vọng ngữ: nói sai sự thật, hoặc là mê lầm, như “Trí giả bất hoặc” (người trí không mê lầm). Người tu học phải dứt trừ tạo nhân vọng hoặc nơi tâm mới chuyển được trí thế gian thành trí huệ giải thoát cũng gọi là giác ngộ.

Thưa quý đồng đạo,
Đã gặp được ngay Đại đạo của Đức Thầy truyền giáo cho, chúng ta đâu còn “ngờ hoặc”. Bởi việc nào của đời hoặc đạo hay lẽ huyền bí, mỗi mỗi việc chi Đức Thầy đều có chỉ bảo phân tách rành rẽ mà kết quả của mỗi việc ấy chỉ còn do ở chúng ta thật hành sẽ được, Và cách tu nhân xử thế chúng ta hẳn không nên ngờ hoặc, dãi đãi, trở lại ngày càng nên phấn phát tin tưởng hơn nhiều. Vì rằng từ hạng vua chúa đến dân dã đều cần lấy sự tu thân làm gốc. Nếu không tu thì nhà không yên, nước không trị và thế giới không hòa. 

Chẳng phải thế thôi, kẻ không biết tu thân là kẻ tự giết mòn khoái lạc của nhơn loại, của gia đình bằng
mọi kết quả đau khổ hiện hữu và sau khi bào thai lên thế gian. Nghĩa là họ sẽ phải tàn nhẫn, bịnh tật, xấu xí, chết chóc non yểu, khiến ai để mắt nhìn vào cũng phải châu mày tắc lưỡi, không còn muốn gần họ hoặc sống chung với họ nữa. Và nếu hầu hết mọi người cứ lây nhau làm ác thì ngày kia thế giới này sẽ hóa thành một nhà ma, rừng bịnh.

Việc này sẽ có thật ! Vì hiện giờ trong số 100 người, có thể nói hầu hết đều có bịnh nhiều hoặc ít chớ ít ai được không ngơ.

Cũng vì lẽ con người ngày một đi đến chỗ yểu vong, quả đất dần dần biến xấu. Nên các đấng huyền linh đã nhứt định, tùy theo căn cơ khi số của nhân sanh mà thành lập ngôi chánh thống cả hai phương diện “Đạo lẫn Trị” một cách ổn thuận công bằng, trên dưới vua quan dân thứ đều sống trong sự xếp đặt của chánh đạo Như Lai.

Ngày Thượng nguơn tức là những ngày này, cảnh này với một màu sắc đầy đủ trang nghiêm tú lịch, nhà
không đóng cửa, của rơi không người lượm, trên bờ dưới sông xe cộ thuyền tàu đều thuận theo tả hữu mà đi rất êm ái thứ tự.

Thưa quý đồng đạo,
Kẻ đa mang nợ nhiều nhứt là chúng ta, mà đặng mùa nhứt cũng là kiếp này của chúng ta vậy. Chúng ta phải nỗ lực tạo tác công đức phước huệ cho ta được có nhiều, để đến một ngày kia oan trần đã rảnh, công quả được to, hầu dưới chơn Đức Thầy, Đức Phật nghe lẽ diệu mầu, thấy việc kỳ bí còn chi qúi hóa cho bằng.

Than ôi ! Cuộc thế điêu tàn,
Người người đời sao lại mơ màng chưa tin.
Đợi cho tiếng nổ vang thinh,
Rồi kia mới biết giật mình hay sao.
Thế là đã lọt vực sâu,
Ăn năn việc ấy gẫm âu muộn màng.
Ngày nay từ xóm cùng làng,
Hãy nên sốt sắng lo đàng hiền lương.
Nghèo nàn thời tạm rau tương,
Dầu cho đội nguyệt mang sương không nài.
Chữ tu qúi hóa lắm thay,
Ngàn xưa các bậc anh tài cũng chăm.
Huống nay dân kém hạnh tâm.
Sao không gắng gổ lo tầm kệ cơ.
Sự tu khuyên chớ bơ hờ,
Vừa nên cúng bái vừa nên trau lòng.
Tổ tiên cũng giống Lạc Hồng,
Vẫn là ham mộ ở trong Phật đường.
Biết bao dân thứ đế vương,
Đã từng tiến đến Nhạn đường bạch minh.
Nay ta gắng sức tưởng tin,
Ngày kia ắt được cứu mình khỏi tai.
Bữa nay rồi kế đến mai,
Âm dương thắm thoát mỗi ngày vậy thôi.
Nếu ta không sớm trau giồi,
Để chừng gia bịnh tỉnh hồi muộn thay.
Bây giờ nhơn có một ngày,
Trước khi tiêu diệt rán mài chơn tâm.,
Nếu kia có phải nam châm
Hẳn là hút sắt ngàn năm vẫn còn.
Dầu rằng phải có chìu lòn,
Tâm hồn kia chớ mõi mòn lẳng lơ.
Với mình đã hiểu huyền cơ,
Dầu ai phá rối chớ ngơ lảng lòng.
Miễn sao thấy được Non Bồng,
Gặp vì Thánh chúa thoả lòng ước ao.
Bây giờ xáo trộn vàng thau,
Chừng phân kim mới rõ màu thấp cao.
Cuộc đời tráo trở làm sao,
Nay mai việc thế xiết bao điên cuồng.
Hễ người tu phải chìu luồn,
Để cho mình đủ phép khuôn với đời.
Luyện lòng cho được tốt tươi,
Hẳn là khỏi được những nơi âu sầu.
Chuyển xoay nhơn loại đâu đâu,
Rung rinh trái đất một bầu gớm ghê.
Người tu nay kẻ cho mê,
Tuy mê mà giác đừng chê bớ người.
Kẻ kia nay chíp miệng cười,
Sau rồi hối hận cho đời dở dang.
Đường dài phải gắng tim gan,
Mới là nắm được Niết bàn bớ ai.
Đến đây đồng đạo gái trai,
Trong sân cho đến chí ngoài lộ kia.
Quên chơn mỏi, quên đêm khuya,
Lắng nghe được có ra về sửa trau.
Bởi thương chẳng quản khổ lao,
Để đem tiếng kệ ngọt ngào nhủ khuyên.
Thầy còn mượn tiếng khùng điên,
Chịu bao tai ách kết duyên với đời.
Huống ta đâu dám tiếc lời,
Đem lòng chua xót réo thôi muôn ngàn.
Nhìn nhau mà hột lệ tràn,
Thấy nhau đông đảo lại càng đơn hơn.
Bởi vì ít kẻ nhớ ơn,
Nên không vui sửa xác thân của mình.
Quên rằng Thầy đã hy sinh,
Đem thân cứu thế chịu nghìn gian lao.
Với thân Sư phụ chẳng nao,
Huống ta nỡ để lảng xao nỗi tình.
Miễn là cho cả nhơn sanh,
Dưới trên đều cũng như mình biết tu.
Chẳng hay gây oán kết thù,
Để lo phá sạch mờ lu tánh mình.
Ai ơi ! cuộc thế linh đinh,
Đến đây chưa mấy an ninh bớ người.
Chừng nào có chúa có tôi,
Thầy trò sum họp đứng ngồi mới yên.
Ngày nay trăm thảm ngàn phiền,
Bởi đời nhiều bụng đảo điên còn nhiều.
Ngẩn ngơ ngày chúng quỉ tiêu,
Một phen vùng vẫy trăm chiều thiết tha.
Nay đây đồng đạo trẻ già,
Chỉ thường niệm Phật Di Đà chớ quên.
Khỏi ngày quà quạ kênh kênh,
Khỏi ngày rắn độc yêu tinh hại người.
Nay như hoa nở còn tươi,
Một phen gió cuộn rũ rời từ manh.
Nào đâu lừa dối nhân sanh,
Chị em lời kẻ khiết thanh nhủ lòng,
Muốn tu thời phải gắng công,
Đừng quên làm việc non sông bớ người.
Có duyên ta mới an nơi,
Rán lo trau sửa đạo đời cho xong.
Cuộc đời còn lắm gai chông,
Thì ta cũng phải có công với đời.
Chớ lo ham việc lỗ lời,
Mà vong đạo đức bớ người đời nay.
Khổ lao nhơn loại còn gay,
Vì chưng nghiệp chướng chưa phai bớ người.
Khổ kia giảm bốn trong mười,
Sáu phần còn phải chịu thời lao lung.
Muốn sao cho được thung dung,
Phải cần trau trỉa cho xong việc lành.
Chừng ni thấy được Nam Thành,
Mới là toại chí của mình bấy nay.
Đạo đồng lớn nhỏ gái trai,
Cuộc đời như thể vừng mây nửa lừng.
Thấy vui mà chẳng dám mừng,
Bởi đời tráo trở muôn phần éo le.
Muốn sao được uống Tào Khê,
Rửa tanh phàm tục xang xuê muôn đời.
Chớ nay oan khổ khắp nơi,
Thân người trôi dạt lệ rơi từng hồi.
Ai ơi ! kìa thấy cuộc đời,
Một ngày một thúc khắp nơi điêu tàn.
Giặc nhà nay dẹp chưa an,
Cớ sao dân chúng không toan sửa mình.
Kết liên nhau lại một tình,
Vừa lo đạo đức vừa tranh lợi nhà.
Dẫu rằng bách chiết thiên ma,
Với lòng kia vẫn thiết tha thái bình.
Con người vì nghĩa quyên sinh,
Khác rồi cũng được lưu tình người thương.
Ai ôi ! đốt nén tâm hương,
Thành tâm cầu khẩn mười phương Phật Trời.
Hộ Thầy nạn ách được rời,
Thân kia đặng mạch cứu đời mai sau.
Có Thầy ta khỏi núng nao,
Không Thầy như lá gió rào rạt kia.
Thương thay khi Đức Thầy về,
Khi hung ắt bị thảm thê muôn nghìn.
Vì lo ba thước gươm linh,
Trừng loài phản nghịch ẩn tình lâu nay.
Chỉ đeo theo rượu với bài,
Lòng kia vội bỏ những ngày quy y.
Ai ôi ! sớm dứt mê si,
Đổi tâm giác ngộ để đi đến cùng.
Ngày kia đến tận Sơn trung,
Được xem cho rõ hình dung Phật Trời.
Nay đây khuyên nhủ người đời,
Phải nên tự liệu cho nơi được rồi.
Thân mình không khéo tu bồi,
Ngày kia ma quỉ cuốn lôi khổ mình.
Nay đi khuyên nhủ chẳng gìn,
Để sau lao lý trở mình khó thay.
Nỗi sầu cho cuộc trần ai,
Sau này nhiều nỗi cấn gay nặng nề.
Dân ôi ! Chưa hẳn no nê,
Đói lòng sắp phải ủ ê có ngày.
Sợ e chẳng có bắp khoai,
Lựa là lúa nếp như nay dư bồ.
Thân ôi ! phải sợ héo khô,
Lựa là son phấn điểm tô bớ người.
Than ơi ! bèo nước giữa vời,
Một khi sóng gió rã rời từ manh.
Nhìn nhau kìa có chim xanh,
Dẫn đường cho thấy được hình Tây Vương.
Chớ nên để tánh lương khương,
Con người sống cảnh oan ương khó lòng.
Lựa đi hai chữ đục trong,
Phải tìm lấy một mới xong bớ người.
Đến đây đồng đạo yên ngồi,
Ngồi nghe cho rốt những lời nhủ khuyên.
Muốn sao đó có lòng thiền(g),
Biết thờ kỉnh Phật Thánh Tiên chẳng rời.
Dẫu cho lở đất sập trời,
Lòng mình cũng vẫn không rời sự tu.
Ngày kia bảy bữa ám u,
Ơn nhờ Tiên Phật vân du cứu mình.
Rừng xanh hội yến linh đình,
Vui chi hơn được dựa mình hùm lang.
Tuy loài thú ở rừng hoang,
Ngày sau còn được một đoàn hiền lương.
Lạ thay thú vật chọn đường,
Người không lựa nẻo thảm thương muôn nghìn.
Ai ôi ! phải rán sửa mình,
Đừng nên bỏ dở khổ sinh vạn đời.
Hồng quang Đức Phật chói ngời,
Ba trường thuyết pháp độ người ngàn muôn.
Một khi có giọt mưa tuôn,
Qua rồi bông trái tươi nhuần sởn sơ.
Nay đây đợi đến thời cơ,
Cửa Trời mở rộng ngút mờ phá tan.
Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Nhơn Hoàng,
Hội đồng thưởng phạt thế gian thử nào.
Nay còn kẻ thấp người cao,
Kẻ lành người dữ cùng nhau rộn ràng.
Mấy ai lấy đá đổi vàng,
Lấy vàng đổi đá người càng thêm chê.
Tuy quê mà lại không quê,
Bởi lòng đã nhận có bề Thiên công.
Có mà sao trở lại không,
Còn không mà có bởi lòng thẳng ngay.
Cuộc đời như thể vầng mây,
Một khi gặp gió thì nay không còn.
Sợ e thay biển đổi hòn,
Lập thời Thượng cổ không còn mấy ai.
Kẻ hiền tồn tại ngày mai,
Cuộc đời mới được khỏi lay chuyển nhiều.
Nay khuyên vững bước Lam Kiều,
Để hầu thoát khỏi mọi điều khổ lao.
Đạo đồng thương lẫn cùng nhau,
Ấy là đáp lại ơn cao của Thầy.
Ghét nhau gẫm có chi hay,
Vô tình làm lợi kẻ ngoài đấy thôi.
Hợp tâm để có vun bồi,
Học theo con mối để rồi bảo thân.
Gọi kêu kẻ cựu người tân,
Tu mau tu chậm chớ phân chi nhiều.
Một ngày liễu nghĩa cao siêu,
Đạo kia cũng được tiêu diêu đấy rồi.
Đạo đồng, đồng đạo hỡi ơi !
Nhớ Thầy thì phải trau giồi lương tâm.
Đừng cho kẻ khác oán thầm,
Phải lam quỉ phục thần khâm bơ người.
Lời khuyên đây đã hết lời,
Chào trong đồng đạo đứng ngồi lui chơn.
18 tháng 5 năm Quý Tỵ - tức 28 tháng 6-1953.
14- Ngày 30 tại Tây An Cổ Tự: Sự Hăng hái và Suy nghĩ chơn chánh

Ngày 30 tại Tây An Cổ Tự: Sự Hăng hái và Suy nghĩ chơn chánh

Nhiều kiếp tu thân mới thoát phàm, 
Tâm hồn mai tối ẩn già lam.
Lòng trong tợ tuyết không hề đổi,
Lấy lẽ từ bi khuyên nữ nam.

Chào chư đồng đạo,
Sau ngày ngôi Tây An Cổ Tự khánh thành tới nay, mỗi ngày sóc vọng tại đây có sự giảng giải đạo lý.
Tuy không được thập phần tấn triển, chớ từ đó nhẫn nay mỗi phiên giảng nào cũng được chư đồng đạo
nam nữ đến nghe càng lúc càng nhiều.

Điều này dù ai cũng nhận cho lòng đạo đức của đồng đạo có phần sốt sắng, mới có sự đi lại được đông như thế. Và riêng tôi cũng lấy làm vui, mà được thấy giờ phút này cũng có lắm kẻ còn hoài vọng đến lời khuyên nhủ đạo đức, khiến cho cửa đạo không đến lạnh lùng vắng vẻ.

Hôm nay tôi xin giảng giải về: “Sự Hăng hái và Suy nghĩ chơn chánh” được như ý của mình.

Hăng hái không để cho hoàn cảnh gia đình hay thế sự, nhứt là vật chất trói buộc thân tâm của mình, lam
cho phút tu hành đâm ra ngờ vực chểnh mảng. Phải hăng hái tiến sát mục đích cao siêu của đạo Phật mà
mình đang sùng phụng.

Muốn cho sự hăng hái không bị lạc lầm tội lỗi vô ích, chúng ta cần phải đặt những điều sau để làm tiêu
chuẩn:

1- Đặt tình thương trên khắp chúng sanh.
2- Đặt việc làm lợi ích cho khắp mọi người mọi vật.
3- Tin có thiên đàng địa ngục.
4- Tin có nhân quả luân hồi.

Ngoài ra còn tin cái đạo đức sẽ giải hòa được cuộc chiến tranh đẫm máu của nhơn loại rất có hiệu lực nếu đi đúng đặc tánh chơn thật và bác ái của nó.

Vì rằng nếu con người không đạo đức là phải hung bạo mà nếu hung bạo là mầm mống đao binh chém
giết không ngằn.

Nghĩ thế chúng ta rất hăng hái làm những việc đạo đức, cho đến khi nào mọi vấn đề tốt lành của ta muốn đó đều được thực hiện đầy đủ.

Thảng như, lúc tu tiến gặp phải lắm điều bất trắc không những ta chẳng nao núng, trái lại còn tăng gia
tiềm lực để tiến tới mạnh hơn.

Tuy nhiên lòng hăng hái suông e còn lầm, chúng ta phải luôn luôn kèm theo cái suy nghĩ nữa mới được
chắc chắn.

Suy nghĩ như sợi dây để thắng lại con ngựa ý của ta khi đi sai đường hay quá mức.

Suy nghĩ như vị quân sư để đoán xét các việc lợi hại cho mặt trận chống “Sáu Giặc” của tâm ta được toàn thắng.

Suy nghĩ để giúp cho người hiểu thấu vạn tượng thế gian là giả dối, không bị nó ám ảnh tỏa chiết, vẫn xa lìa dứt bỏ nó lúc nào cũng được dễ dàng.

Và con người có suy nghĩ mới hơn được loài vật, mới tránh được mọi sự nhục nhã xấu xa do lòng tham sân mê muội gây lấy.

Vả lại, nhờ có suy nghĩ mà con người mới nhận làm mọi việc luân thường đạo lý như: Vua tôi, cha con,
chồng vợ, anh em, bậu bạn và mọi người, mỗi mỗi đều có sự tôn ti thứ bậc rất phong quang nề nếp mà cái giá trị lịch sử của loài người được đặt lên kể từ ngày có cái luân thường này vậy.

Song giữa cái hăng hái và suy nghĩ, ban sơ ta cần phải đặt cái suy nghĩ ra trước, nghĩa là trước khi ta
muốn làm việc chi, thì phải nên suy nghĩ cho ra lẽ, coi việc ấy lợi hại cho người hay cho mình thế nào. Nếu việc ấy lợi cho mình mà rất hại cho người thì tốt hơn là ngồi không, bởi nó trái việc nhân từ đạo đức.

Ngược lại, xét thấy việc đó lợi ích cho người thì ta sẽ hăng hái để làm, dầu khó khăn tai nạn cũng không thối chí.

Cũng như chúng ta trước khi quy y theo Thầy thì đã xem qua sám giảng của Đức Thầy nhiều lần và nhận lời trong đó là sự thật của đạo lý rồi mới tin chịu, chớ không phải do sự xúi biểu của ai mà sợ là lầm lạc, thì bây giờ chúng ta chỉ còn hăng hái thật hành, chớ không còn phải nghi ngờ chi nữa.
Nếu chúng ta thật hành đúng theo lời của Đức Thầy đã dạy trong sám giảng thì sẽ được thụ hưởng mọi lẽ vi diệu do bổn tánh hiện ra hoặc do ơn trên chư vị siêu hình ban bố.

Tóm lại đứng trước một vấn đề nào, ta cũng phải suy nghĩ trước rồi sau sẽ hăng hái để làm, hầu tránh mọi sự lầm lạc tội lỗi có hại cho mình hay kẻ khác.

Thưa quý đồng đạo,
Các điều vật chất ở cõi Hạ nguơn này chẳng khác nào cái cùi bắp trơ trẻn, không có chi gọi là tốt đẹp lâu dài, ta chớ luyến ái lấy nó vô ích vì nó sắp vất đi.

Điều cần hơn hết là chúng ta phải gấp rút dọn mình cho trong sạch nhẹ nhàng, để đón rước ơn trên chư vị siêu phàm của thời kỳ Thượng nguơn đến đây cứu chúng ta thoát ngày biến diệt.

Và kỳ này là kỳ chót, Cửu Huyền thất tổ đang chờ chúng ta sớm biết tu hành chưởng phước, để một ngày kia hưởng lấy công đức của chúng ta mà siêu rỗi, không nên lãng quên việc này vì nó là một dịp độc nhứt cho chúng ta đáp ơn tổ tiên cha mẹ, quốc thủy, chúng sanh và cứu chúng ta khỏi ngày trầm luân thống khổ.

Nếu chúng ta chẳng làm tròn bổn phận của mình trong lúc này thì sẽ đắc tội với bề trên và sẽ mang tội
bất hiếu với tổ phụ của chúng ta vậy.

Nếu không gấp rút tu hành,
Ngày kia thân xác tan tành bớ ai !
Cuộc đời biến chuyển ngộ thay,
Bữa nay yên tịnh ngày mai thảm sầu.
Nên tin thiện ác đáo đầu,
Làm lành được phước dữ đâu yên mình.
Sớm hôm nhớ sửa tánh tình,
Đừng cho vọng hoặc lợi danh của đời.
Hồng trần có mấy lăm hơi,
Ngũ hành thay đổi đôi nơi chan hòa.
Bền gan đi tới trẻ già,
Ơn trên Trời Phật độ qua tai nàn.
Di Đà ngự chốn tòa vàng,
Trông cho kẻ đến Tây Phang được nhiều.
Nhưng ôi ! thưa thớt quạnh hiu,
Ít người đi tới, có nhiều kẻ lui.
Lòng kia không vẹn tốt tươi,
Sau này khổ thảm chín mười bớ ai !
Con đường đạo lý rộng dài,
Phải cần nghiệm xét nhiều ngày mới thông.
Khi tu phải sửa tấc lòng,
Để cho nó được sạch trong nõn nà.
Đời cùng đầy dẫy quỉ ma,
Mai tìm xô xệp người ta vương sầu.
Tuy rằng Phật Pháp nhiệm mầu,
Chỉ dành cho kẻ thật cầu mà thôi.
Nhưng ai khi lơ khi bồi,
Lòng hay tráo trở bồi hồi khó trông.
Tưởng tin có cuộc trời long,
Nhớ rằng quả đất này không được bền.
Kìa nơi bửu đảnh mau lên,
Nọ là hố thẳm chớ nên lại gần.
Trần ôi ! kìa hỡi bớ trần,
Tại sao chưa quyết một lần để tu.
Bể mê chôn xác từ lâu,
Đem chồng chất lại núi cao cũng vừa.
Vui chi quá đỗi mến ưa,
Đeo mang nghiệp tội dây dưa thảm phiền.
Muốn sao người đến non Tiên,
Bể mê xa lánh lưới phiền cắt đi.
Sớm chiều niệm tưởng A Di,
Ngày kia vàng ngọc khó bì được đâu.
Đường còn đây đó không lâu,
Bường qua khỏi lối khổ sầu bớ dân !
Phải lo gạn rửa cho thân,
Đừng cho nhơ bợn mới gần Thánh Tiên.
Chớ nên quí trọng bạc tiền,
Hãy nên yêu lấy việc hiền mà thôi.
Được hiền sau được cao ngôi,
Theo tiền bạc ấy sau rồi héo hon.
Người tu phải vẹn tim son,
Dầu lăn lóc mấy chớ mòn chút nao.
Lọc lừa kiếm chỗ thanh cao,
Để mà dò tới Nguyên Đào của Tiên.
Hỡi này tất cả chư hiền,
Hễ là đạo lý phải chuyên sớm chiều.
A Di Đà Phật nâng niu,
Lỗi lầm sai quấy mọi điều tránh xa.
Ngày kia mới gặp Long Hoa,
Mới xem Chúa Thánh trên tòa thẩm cao.
Bây giờ cần phải chùi lau,
Làm cho hết trược mới vào cõi thanh.
Màng chi cái bã lợi danh,
Của này như mộng cạnh tranh ích gì.
Phải theo dõi Bửu Sơn Kỳ,
Sau này được thấy chuyện gì quí hơn.
Nay đây tu niệm đừng sờn,
Mới là có dịp nắm chơn Phật Ngài
Nay xem vật của trần ai,
Khác nào như một đám mây giữa lừng.
Để chờ Phật dụng phép thần,
Chuyển xoay trái đất mườl phần tốt xinh.
Ai ôi ! phải khá giữ mình,
Tránh sao khỏi cuộc âm binh sau này.
Chừng xem đồng nội chật thây,
Con thời khóc mẹ vợ nay kêu chồng.
Thoảng qua gió lạnh như đồng,
Người đều sưng dưng vô cùng sợ lo.
Nay đây cơm đủ dùng no,
Người còn lười biếng chẳng lo tu hành.
Cứ lo đeo bã lợi danh,
Ngoài thêm trau chuốt trong sanh tham tàn.
Đến khi gặp việc tân toan,
Của này trôi dạt theo làn sóng nhô.
Tang điền thương hải bất đồ,
Ai ơi ! chẳng có cơm khô mà dùng.
Đạo mầu hôm sớm lo chung,
Để mà thoát khỏi phút cùng nạn tai.
Mỗi người ăn ở thẳng ngay,
Thì đâu có cuộc xéo giày rối nhăng.
Mỗi người đốt ngọn tâm đăng,
Thì đâu lầm lạc vào đàng ma vương.
Mỗi người hướng cõi Tây Phương,
Thì đâu còn mến trần dương chút nào.
Mỗi người trông cảnh bên Tàu,
Thì tay nắm siết đồng bào chặt thêm.
Mỗi người tưởng việc Cao Mên,
Thì tâm cương quyết sấn lên tu hành.
Mỗi người chán kiếp phù sinh,
Thì đâu có muốn giựt giành lẫn nhau.
Mỗi người tưởng việc tới mau,
Thì lòng gấp rút khẩn cầu Phật Tiên.
Từ đây cuộc thế chưa yên,
Chỗ này chỗ khác đảo điên còn nhiều.
Giặc nhà manh mối chưa tiêu,
Thì dân chưa được hưởng điều an cư.
Thương người có sách có sư,
Lòng không theo đúng sau như mất hồn.
Biết bao thống khổ dập dồn,
Thân người như cá trong bồn khó tung.
Hiếu không được phải được trung,
Chớ đừng hai việc trống không việc nào.
Đã sanh giữa cõi trần lao,
Phải làm được việc đồng bào nhớ ơn.
Đâu đành riêng sống một thân,
Trong khi non nước bâng khuâng mai chiều.
Kia là đạo đức cao siêu,
Phải cần theo dõi chớ siêu ngã lòng.
Nay người tu niệm tuy đông,
Mà ngày thành đạo gẫm Không mấy người.
Bởi vì thay ý đổi lời,
Nay vầy mai khác lòng người khó đo.
Ai ôi ! cần phải âu lo,
Cứu mình cứu kẻ được cho hai về.
Tu thân thì phải gia tề,
Rồi ra trị nước đem về yên ninh.
Nếu không sửa được thân mình,
Nói ra không được kẻ tin người dùng.
Phật là bi mẫn vô cùng,
Thương người mến vật lòng không hề rời.
Cho nên lui tới khắp nơi,
Nhiều phen kêu gọi lắm lời dạy khuyên.
Muốn cho người khỏi trần duyên,
Được về cảnh Phật nhà Tiên an nhàn.
Nhưng ôi sáu nẻo ba đàng,
Thân người vùi dập nhộn nhàng chưa thôi.
Nay đây có dịp phản hồi,
Về nơi cảnh cũ thoát rồi bể mê.
Nhà Tiên bát ngát hương huê,
Cõi trần quá đỗi ủ ê bớ người.
Thân này sống được mấy mươi,
Mà lo những việc như đời ngàn năm.
Ngoại trần ám ảnh bổn tâm,
Đến ngày bỏ xác cõi âm phải về.
Khảo tra giam cấm nhiều bề,
Biết bao thuở được dựa kề đài sen.
Ngày nay cửa Phật không chen,
Để sau mắc phải nhiều phen khổ nàn.
Chữ tu sau đổi muôn vàng,
Muôn vàng dễ kiếm đạo tràng khó mong.
Ngày nay tuy có mà không,
Sau không mà có rút trong phép mầu.
Ai ơi ! nay ở cao lầu,
Gặp cơn giông bão trốn đâu hỡi người.
Những ai hiền đức tốt tươi,
Sau Thần Phật cứu khỏi nơi tai nàn.
Vì đâu bận kiếp trần gian,
Ấy là do cái nghiệp oan của người.
Tại gây tội lỗi nhiều đời,
Mới là dồn lại cho người buổi nay.
Bây giờ chợt tỉnh giấc say,
Khiến cho cái kiếp sau này đăng Tiên.
Đường tu đây chịu truân chuyên,
Bởi đời quây phá đảo điên vô cùng.
Nhưng tâm kia phải thủy chung,
Dầu cho lăn lóc trịn bùn cũng cam.
Hỡi này tất cả nữ nam !
Từ đây phải rán việc làm tốt tươi.
Giảng cơ khi đọc nhớ lời,
Dạy người lánh dữ tìm nơi sự lành.
Bền gan đạo mới được thành,
Để lòng xao xuyến cội lành phải xa.
Khổ sầu còn lắm bá gia,
Đường đi gay gạnh bước đà khó khăn.
Tâm kia cho được thẳng bằng,
Dầu thân lao lý cũng cần chữ tu.
Dẹp cho sạch ngút mây mù,
Thấy nơi bổn tánh trăng thu khó bì.
Hãy nên gỡ lớp mê si,
Để tâm giác ngộ mà đi thẳng đàng.
Gọi kêu từ xóm cuối làng,
Mọi người đều phải sửa sang thân mình.
Kẻo khi người cổ tái sanh,
Kẻ nay thẹn mặt hổ tình con dân.
Nói đây không phải dần lân,
Từ đây đến rốt đã cân rõ ràng.
Người lành tợ ngọc tợ vàng,
Kẻ hung như giũa như đàn chớ nao.
Khuyên người đức hạnh giồi trau,
Đối dân với nước liệu sao cho tròn.
Ai ôi ! nhìn lại nước non,
Ngày nay còn lắm thon von khổ nàn.
Bởi lòng dân chúng nhiều đàng,
Ít oi hiền hậu đa đoan hung sùng.
Cho nên quốc nội lung tung,
Ngoại nhân giày xéo khôn cùng lâm ly.
Có thoàn của đấng từ bi,
Nghêu ngao rước khách mau đi bớ người.
Chớ ham chi cái hoạn đời,
Hoạn đời mỏng mảnh của người buổi nay.
Muốn tầm đến đức Như Lai,
Quày chơn day mặt ngó ngay thấy liền.
Người tu sao ít được thiền(g)?
Bởi tu mà chẳng lòng chuyên để hành.
Nay cần phải dọn lấy mình,
Rửa từ ngày một trắng tinh bụi đời.
Khổ đời, đời khổ ai ơi !
Qua cơn này mới thấy đời Thượng nguơn.
Chỉ phiền những kẻ vong ơn,
Sống mà xử việc quân thân không rồi.
Theo loài ăn ở bạc vôi,
Thì ngày sau phải thây trôi như bèo.
Từ đây đạo chánh trì đeo,
Trai lành gái tín đua nhau một đường.
Tây An công phủ đến thường,
Để nghe giảng dạy trong trường từ bi.
Những lời chơn chánh nhu mì,
Lọc lừa cho kỹ gắng ghi vào lòng.
Muốn sao trên dưới giữ đồng,
Ích cho non nước lợi trong gia đình.
Không hề họa dữ nảy sanh,
Bởi ta khuya sớm việc lành chăm nom.
Ai ôi ! sự khổ chưa nhom,
Nay bồ mai lại một om không đầy.
Chừng nào chạy rấn gốc gai,
Quần tơi áo tả mới hay cùng đường.
Bây giờ có chút an khương,
Tưởng đâu là được thạnh cường lắm ư.
Vĩnh miên chỉ yếu việc từ,
Noi theo Đức Phật hậu cư cõi nhàn.
Lắm người lòng thú dạ lang,
Âm mưu giành giựt rối rang trong trần.
Nói ra có kẻ phiền hờn,
Làm thinh sao biết giả chơn mà làm.
Cũng vì đạo chánh muốn kham,
Cho nên mới lắm lần đam chút tình.
Chỉ dùng những lẽ hiền lành,
Để kêu nhau gắng tu hành sớm khuya.
Để ngày Thầy trở lộn về,
Mới là gần gũi hả hê tớ Thầy.
Còn ai lòng dạ tà tây,
Nếu còn sống cũng đứng ngoài ngó vô.
Lại còn lơ việc Nam Mô,
Giang sơn không trọn phù đồ chẳng xuôi.
Đường lành khuyên chớ buông trôi,
Hãy nên gìn chặt săm soi cho thường.
Mặc ai tánh bạo tâm cường,
Lo mình hướng thiện hồi lương cho rành.
Học chi việc của chúng sanh,
Đua nhau mê muội cạnh tranh đủ điều.
Với mình hiểu Phật đã nhiều,
Biết đời là giả còn chìu nó chi.
Lại còn hiểu được huyền vi,
Tin rằng cuộc thế sắp kỳ biến thiên.
Chuyển luân u ám khắp miền,
Kẻ nào theo Phật làm hiền khỏi ngay.
Thường chuyên niệm chữ A Di,
A Di có pháp cứu thì bá gia.
Mấy khi lập Hội Long Hoa,
Mấy khi Thượng cổ trở mà lại đây.
Việc đời còn chẳng có bao dai,
Mạnh chơn gấp bước điện đài đến nơi.
Chớ nên tưởng chẳng đổi đời,
Đổi đời việc ấy người ôi có tường !
Khuyên nhau chỉ một lòng thương,
Đừng nên có việc nhiểu nhương âu sầu.
Tiền tài là món độc sâu,
Thường hay giết hại biết bao nhiêu người.
Quanh mình đầy lũ ma trơi,
Hở ra bọn chúng dắt nơi khổ sầu.
Hỡi ai xét cạn dò sâu,
Bao nhiêu việc quấy khá âu ngừa phòng.
Lời lành khuyên nhủ đạo đồng,
Nghe rồi phải nghiệm nơi lòng thử coi.
Nếu như còn chút tanh hôi,
Hãy nên chùi rửa sạch rồi thân tâm.
Kìa xem nơi chốn rừng thâm,
Phật Tiên dành để kẻ làm tròn ân.
Khói hương khuya tối chuyên cần,
Lòng gìn một mực chớ phân nhiều đàng.
Hãy nên làm phước làm doan,
Đem tiền của có rải ban cho đời.
Sự tu là việc tốt tươi,
Khiến cho tất cả mọi người sống yên.
Không còn chát việc thảm phiền,
Lại là thường giúp thường khuyên nhau cùng.
Đời này ít kẻ hiếu trung,
Bởi vì tam giáo các môn suy đồi.
Tự do, lạm nghĩa quá rồi,
Thành ra phong hóa đến hồi phá băng.
Bây giờ hãy sớm ăn năn,
Để cho luân lý có ngằn thử coi.
Tinh tà dù lắm bươi xoi,
Người tu thấy vậy có mòi gìn hơn.
Hãy năng làm phước làm nhơn,
Thường đem của cải ban ơn cho người.
Ngoài ra còn giúp bằng lời,
Hiền lành chơn chánh cho người học theo.
Ngày kia dù lắm hùm beo,
Cũng không nhiễu hại kẻ theo đường lành.
Một khi tâm nọ chí thành,
Thì là cõi Phật được sanh tới liền.
Thấy người kiếp trước có duyên,
Kiếp này mới gặp Phật Tiên giáng phàm.
Nếu không đạo đức mến ham,
Ngày kia ắt phải chuốc đam khổ nàn.
Cuộc đời như giấc mộng tràng,
Thức rồi cảnh mộng lơ lỡ lang có chi.
Con đường đạo đức hãy đi,
Đi cho đến chốn Liên Trì bớ ai !
Đạo đồng tâm chớ chuyển lay,
Giữ gìn một mực đừng sai chỗ lành.
Lời khuyên người nhớ tu hành,
Để mà cứu rỗi cho mình mai sau.
Nghĩ vì lắm cuộc bể dâu,
Rày đây mai đó gẫm âu quá gần.
Thấy người đạo lý ít cần,
Nên đây phải rán lắm lần nhủ khuyên.
Cũng không tốn bạc tốn tiền,
Lại là được một chữ hiền thơm tho.
Con đường trắc trở gay go,
Phải đi cho kịp chuyến đò Bồng Lai.
Bây giờ khuyên hãy miệt mài,
Dẫu cho sấm sét lòng đây chớ sờn.
Lam lanh la qui bau hơn,
Vị danh quyền tước của trần dối thay.
Chỉ vì người quá nhiễm say,
Mà quên ngày trước đã gây phước lành.
Có dư cứ hưởng một mình,
Hết rồi thì cứ lâm tình đói đau.
Chi bằng chia chác cho nhau,
Gặp khi tai nạn người vào giúp cho.
Đạo mầu thiệt rất thơm tho,
Thậm thâm mấy kẻ xét dò tới nơi.
Ai ơi ! kìa hỡi ai ơi !
Sống trong cảnh khổ lắm hồi truân chuyên.
Nay đây có các Thần Tiên,
Có trên Phật Thánh tùy duyên cứu đời.
Trước khi đem dạy hết lời,
Để cho người biết tìm nơi hiền lành.
Nếu không chịu nhớ tu hành,
Sau rồi tận diệt chớ tình thở than.
Cuộc đời nay hiệp mai tan,
Hiệp tan tan hiệp chưa an bớ người !
Từ đây khuyên chớ biếng lười,
Sớm chiều bái sám Phật Trời cho siêng.
Đâu nhàn bằng cảnh thần tiên,
Chỗ nào báu quí bằng Liên Hoa Trì.
Rán mà dứt tánh mê si,
Mê si đã khỏi huyền vi mới vào.
Ai ôi ! cuộc thế ba đào,
Thân người thiệt rất dạt dào nổi trôi.
Miền Tây nước Việt có ngôi,
Cũng vì Thánh chúa phản hồi quang huy.
Nhờ trên có đấng Từ Bi,
Dưới chư Quan Cựu xiết chi phú cường.
Kể từ thất thủ Tây Dương,
Tìm nơi non núi tuyết sương tu hành.
Đến khi quả đắc công thành,
Tái lai phò chúa chuyển sang cứu đời.
Để làm chúng khiếp luật trời,
Khiến cho kẻ biết rõ đời thần tiên.
Nay đây dân chúng hữu duyên,
Cho nên cuộc ấy diễn liền từ đây.
Mịt mù Nam, Bắc, Đông, Tây,
Nổ tan một tiếng điếc tai chát đầu.
Đến đây biết Phật là mầu,
Đường đi đến đó xét âu cũng gần.
Chỉ còn sau chót họa Tần,
Là nơi đẫm máu muôn phần đấy thôi.
Trải qua rồi mới yên ngồi,
Người người khỏi việc nổi trôi ưu sầu.
Còn khi nổi giặc điên đầu,
Phật Trời đã sẵn phép thâu người hiền.
Có đài bát quái ở yên,
Có thuyền bát nhã chở chuyên người lành.
Ai ơi ! khuyên hãy tu hành,
Tưởng Thầy nhớ đạo tâm tình chớ phai.
Muốn sao cho khắp gái trai,
Đến đây nghe giảng để ngay vào lòng.
Ngày kia đi tới non Bồng,
Mới hay lòng Phật thiệt không dối mình.
Bây giờ còn quá u minh,
Nên chi có kẻ nửa tin nửa ngờ.
Tuy rằng xem giảng kệ cơ,
Xem nhiều làm sái ngẩn ngơ lại nhiều.
Từ đây Giới Cấm Tám Điều,
Hãy gìn cho trọn mai chiều tồn sanh.
Lời khuyên tóm tắt sự lành,
Rằng đời tận gấp đem tình nhớ ghi.
Đến đây đã dứt sám thi,
Chào trong đồng đạo tâm trì chớ quên.
Lời giảng tuy là đã dứt xong,
Nhưng xem tất cả cả môn đồng.
Ít người ghi rõ lời khuyên nhủ,
Cũng khiến cho đây quá mũi lòng.
30 tháng 5 Quý Tỵ - tức ngày 10 tháng 7-1953.

THÁNG SÁU:
15- Ngày Rằm tại Tây An Cổ Tự: Năm Điều Cội Rễ

Ngày Rằm tại Tây An Cổ Tự: Năm Điều Cội Rễ

Thưa quý đồng đạo,
Ví như có kẻ mắc trong đề lao chẳng những họ không trốn ra, lại cũng không lấy đó làm đớn đau buồn
thảm cho thân phận bị đọa đày khổ sở, phải cách biệt quê quán mẹ cha quyến thuộc. Trở lại họ còn nhận cho cái nhà lao đó là quê quán, kẻ tội nhân trong ấy là mẹ cha quyến thuộc của họ, với kẻ này có phải đã điên cuồng mê muội rồi chăng?

Đối với chúng sanh cũng vậy.
Quê quán của chúng sanh là cõi bất sanh, cha mẹ của chúng sanh là các hàng Bồ Tát.

Song vì vọng niệm sai lầm khởi tâm điên đảo mà chúng sanh phải đọa vào cõi Ta bà, mang lấy xác thân
tứ đại, cảm chịu cái sanh, già, bịnh, chết và mọi sự ân ái phiền não nó chi phối. Chẳng khác nào bị giam cầm trong đề lao. Thế mà chúng sanh chẳng lấy đó làm đau khổ xốn xang để tìm cách giải thoát. Trái lại, cứ nhận cho nơi đây là trường tồn là tuyệt mỹ, mặc sức ngày này chí ngày nọ tha hồ say sưa vật dục, đắm nhiễm lợi danh, đeo níu muôn triệu oan gia trái chủ, nào tiền của, nào vợ con mà quên mất căn xưa cội cũ của mình, để cho số kiếp phải lạc luân, chìm nổi từ vô thỉ dĩ lai biết bao nhiêu số kể.

Vả lại, cũng vì mọi thống khổ của chúng sanh mà chư vị Như Lai, Bồ Tát thường hay hóa hiện ra đời tùy phương giáo độ, khiến cho chúng sanh có cơ thức tỉnh. Song kẻ hồi tâm thì ít còn người mê muội quá nhiều, nên các Ngài đành phải ngậm ngùi trở lại chờ đợi thời cơ.

Đến kỳ này là kỳ chót của cõi Hạ nguơn biến hoại, các chư vị siêu hình đã có dịp ra đời phổ độ chúng
sanh, trong số đó Đức Thầy của chúng ta là một. Nếu kỳ này có chúng sanh nào hướng thiện thì được tồn tại, kỳ dư những kẻ hung ác đều phải ra tro mạt do sự đào thải của lúc biến di.

Thưa đồng đạo,
Hôm nay tôi xin giảng về sự “Cần Lấy Năm điều làm cội rễ” cho sự tiến triển trên lẽ đạo đức:

1- Lấy “Chánh Tín” làm cội rễ để tránh sự tin tưởng dị đoan, đánh đổ mọi tà giáo có tánh cách mê hoặc và mọi lý thuyết cố ý xuyên tạc công kích sự tôn ngưỡng chánh đáng của mình.

2- Lấy ‘Dũng Mãnh” làm cội rễ để lướt qua mọi nỗi gian nguy hiểm ngại của hoàn cảnh bên ngoài và đủ chống ngăn mọi sự rù quến ô trược bên trong, hầu làm cho thần trí của mình được trong sạch vững vàng, để tiến gần mục đích.

3- Lấy “Ký Chú” làm cội rễ để ghi nhớ các lẽ trong sạch tốt lành, gạn bỏ mọi điều xấu xa nhơ nhớp cho trí não của mình không bị tà kiến ám ảnh, hầu được thuần một ý tưởng chánh chơn.

4- Lấy “Chủ Định” làm cội rễ để thâu nhiếp vọng tưởng, hàng phục tà tâm cho trở về một màu trong
sạch lặng lẽ của bổn tánh chơn như. 

5- Lấy “Trí Huệ” làm cội rễ, hễ khi lóng lặng vọng tâm tức thì hiện ra trí huệ mà đối trước các pháp hữu
vi, vô vi đều được quán thông vô ngại.

Vả lại:

Nhờ có trí huệ, mà chúng sanh tránh khỏi nỗi ngu si.
Nhờ có trí huệ, chúng sanh mới được giải thoát,
Nhờ có trí huệ, chúng sanh mới khám phá được nẻo luân hồi,
Nhờ có trí huệ, chúng sanh mới thoát vòng tội lỗi,
Nhờ có trí huệ, chúng sanh mới lập nên công đức,
Nhờ có trí huệ, chúng sanh mới hiển tánh từ bi,
Nhờ có trí huệ, chúng sanh mới biết đường hồi vị,
Nhờ có trí huệ, chúng sanh mới rõ nẻo chánh tà.
Nhờ có trí huệ, chúng sanh mới khỏi vòng phiền não,
Nhờ có trí huệ, chúng sanh mới hết mê lầm,
Nhờ có trí huệ, chúng sanh mới đến chỗ bất sanh,
Nhờ có trí huệ, chúng sanh mới vào hàng Tiên Phật,
Nhờ có trí huệ, Tiên Phật mới nhiều phương tiện độ thoát chúng sanh,
Nhờ có trí huệ mà các bậc huyền linh mới hiểu đời sắp ngày biến diệt,

Và:

Nhờ có trí huệ mà vô biên chư Phật, Bồ Tát, Duyên giác, Thinh văn đã thành tựu vô lượng công đức rộng bủa khắp cả mười phương.


Thưa đồng đạo,
Đối với trí huệ của chư Phật Như Lai không thể so lường được, ngày giờ này chúng ta phải gắng chí tu
hành, bền tâm tác phước, để nhờ ơn lượng từ bi của các Ngài gia hộ cho ta khỏi nỗi ngu đần, được khai trí huệ hầu làm việc Phật cứu độ chúng sanh.

Vả chăng chúng ta đã có hồng phúc nên mới gặp Đức Thầy hoặc đã được nghe lời của Đức Thầy giảng
giáo.

Nếu chúng ta không thật tâm thành ý thi hành theo lời dạy đó thì đến ngày kia gặp cơn biến đổi hãi hùng, chẳng bao giờ ta tránh khỏi và cũng không sao cứu được cha mẹ tổ tiên mà lỗi ấy tại ta không thành tâm tu niệm.

Vẫn biết sau ngày Đức Thầy vắng mặt toàn thể tín đồ phải sống trong cảnh huống loạn lạc đao binh. Song những kẻ có tiền duyên và mộ đạo, mặc dù chịu lăn lóc cách mấy họ cũng vẫn đầy đủ đức tin; mà hy sinh cả tài sản tánh mạng; mà cung phụng vào việc tu hành.

Với kẻ này chắc chắn đến ngày Long Hoa sẽ có mặt và họ còn được lãnh lấy một phần thưởng nhiệm mầu của chư vị Phật Tiên.

Để nhắc lại một lần nữa, kiếp này là kiếp chót của vạn vật. Trong cõi Hạ nguơn, nhơn loại sẽ đổi mới, quả đất sẽ biến hình, chúng ta không nên chần chờ dãi đãi, phải sớm chiều hai buổi cầu nguyện cúng lạy cho thường.

Và năng niệm Di Đà lục tự một cách chí thành, đến ngày kia được Phật Ngài cùng chư Bồ Tát hiện thân
đến trước mặt, tiếp dẫn chúng ta thoát khỏi nẻo luân hồi vãng sanh Cực Lạc.

Vả lại, cuộc diện chiến tranh của thế giới ngày nay quá khắt khe, mạng sống của nhơn loại trên quả địa
cầu rất mỏng mảnh mà sức con người hiện kim không phương giải cứu, huống chi việc nắng lửa mưa dầu của cuộc thiên tai sẽ làm cho cả muôn loài, dù cho mình đồng xương sắt, cũng không dễ thoát khỏi hình ảnh thiêu đốt gớm ghê.

Thưa đồng đạo,
Tuy rằng vạn sự “Tùng Ư Thiên Mạng” vẫn biết loài người không tránh khỏi công lệ biến thiên, song những kẻ chơn tu dĩ nhiên phải được thừa ân cứu độ của chư vị siêu hình và trong luật trả vay kẻ này không do đâu mà chịu tai biến vì họ không hề tạo việc bất lành.

Như vậy thì chúng ta còn có một con đường tu hành đạo đức chơn chánh, sẽ là một phương vi diệu cứu
thoát chúng ta khỏi ngày thống khổ.

Tóm tắt, chúng ta hãy làm những việc mà Đức Thầy dạy chúng ta làm, chúng ta hãy bỏ những việc mà Đức Thầy dạy chúng ta bỏ và chúng ta hãy thiệt thi những hành động chánh đáng của Đức Thầy đã làm hoặc dạy chúng ta từ mấy lúc nay.

Hơn nữa, chúng ta là một chúng sanh biết giác ngộ không thể ngơ lảng trước cái thảm kịch sắp đến cho
mình mà không tìm cách chống ngăn xa lánh.

Vậy chúng ta phải hăng hái lên, mạnh mẽ lên để trau tâm trỉa tánh, giồi mài đức hạnh trong lúc sớm chiều, hầu làm cho trở nên trọn lành trọn sáng khỏi nẻo tội mê.

Rừng mê khổ ngó coi thăm thẳm,
Biển trầm luân xem thấy vơi vơi.
Khắp chúng sanh xiêu lạc lắm đời,
Cả nhơn loại nổi trôi nhiều kiếp.
Lẽ đạo chánh người đành bỏ liếp,
Chữ Phật tâm kẻ vội lảng quên.
Mang xác thân giả tạm không bền,
Ở cõi khổ đổi thay chẳng ngớt.
Việc tai nạn ngày nay chưa bớt,
Chuyện hãi hùng sắp tới còn nhiều.
Sợ dân gian gặp cảnh đìu hiu,
Lo bá tánh chịu điều thống thiết.
Thầy vắng mặt an nguy nào biết,
Trò ở nhà giới luật muốn ngơ.
Mặc dù rằng đủ cả kệ cơ,
Nhưng ít kẻ nghiệm xem tường tận.
Mãi gây lấy những điều khốc hận,
Làm mọi người nước mắt chứa chan.
Kẻ đời nay chết bởi bạc vàng,
người Thượng cổ vui vì tánh đạo.
Nay như được nhiều tiền nhiều gạo,
Sợ một mai cơm cháo chẳng còn.
Cuộc thế gian chi xiết hao mòn,
Cõi Tiên Phật lắm điều báu quí.
Ai là kẻ thật tâm chánh kỷ,
Ai là người quyết ý tu thân.
Rán phen nầy gìn vẹn Bốn Ân,
Sau mới khỏi hổ phận thập nghĩa.
Mong đồng đạo hòa nhau bốn phía,
Cầu dưới trên giữ vẹn một lòng.
Trau cho thân như cội bá tòng,
Lọc cho tánh thể màu ngọc bích.
Sau mới toại con nhà Phật Thích,
Được vững vàng chầu đức Minh Vương.
Khổ ngày nay chẳng khác đời Thương,
Sầu hiện tại như thời Trụ, Kiệt.
Ai là kẻ tu hành tinh khiết,
A là người đạo đức sạch trong.
Một phen này hãy rán gia không,
Sau rồi sẽ được nhiều vinh hạnh.
Tu cho khỏi những ngày đói lạnh,
Tu gặp cơn thế giới qui đầu.
Tu làm sao được đến Nam lầu,
Tu cho rõ nhiệm mầu Tiên Phật.
Ai là kẻ ăn ngay ở thật,
Ai là người hễ nói thì làm.
Phải gắng công cho được siêu phàm,
Nên trì chí đợi ngày nhập thánh.
Phải trau trỉa cho nhiều đức hạnh,
Nên giồi mài được lắm công phu.
Để một phen thoát khỏi ngục tù,
Hầu trọn kiếp dứt nơi lao lý.
Bởi cuộc thế lắm điều tà mị,
Nên dương trần chi xiết khổ nàn.
Đấng Từ Bi lìa bỏ tòa vàng,
Hiệp Bồ Tát xuống trần giảng giáo.
Cốt dạy chỉ cho người hiểu đạo,
Để thoát ngày cầy cáo giựt giành.
Hỡi dân gian khuyên hãy làm lành,
Nay bá tánh nên cần niệm Phật.
Đây ngu dốt đôi lời chơn thật,
Mong ai người thánh trí đừng chê.
Phải làm sao Ngọc bệ dựa kề,
Nên liệu lấy khổ trần vượt khỏi.
Phải được có tinh thần rắn rỏi,
Để đưa mình đến cõi thanh nhàn.
Trước cùng sau giữ vững một đàng,
Ngày với tháng tấm lòng không đổi.
Cậy giọt nước từ bi để gội,
Mượn kim cang của Phật đặng cầm.
Diệt trừ cho sạch cái vọng tâm,
Để được có xem tường bổn tánh.
Hỡi đồng đạo ! cần âu đức hạnh,
Ớ chư môn ! hãy rán trung lương.
Cả đôi đàng giữ một niềm thương,
Thầy trở lại khỏi đường lao lý.
Nay chúng ta phải nên kim chỉ,
Từ tiếng lời đến việc phải làm.
Nên lọc lừa sự chánh cho cam,
Điều trái ngược gắng công ngừa bỏ.
Cũng mặc kẻ đời này xiên xỏ,
Sá chi người mạt thế nhún trề.
Miễn cho mình thoát khỏi sông mê,
Sau sẽ có tìm phương cứu chúng.
Nay cuộc thế ngày nào đèn lụn,
Nhìn tuồng đời như thể mây bay.
Chỉ nhờ ơn Đức Phật, Đức Thầy,
Mới cứu được muôn loài vạn vật.
Ngoài ra kẻ ỷ vào nhơn lực,
Có phương nào thoát lưới cho tuần huờn.
Hễ như người tạo lấy ác nhơn,
Đâu tránh khỏi được điều khổ quả.
Chuyện ấy thật rõ ràng khắp cả,
Hỡi ai người nên nhớ khi lòng.
Hầu tránh xa những nghiệp bất công,
Để tìm đến cảnh vui tột hạng.
Tu lợi kẻ lợi mình đảng đảng,
Đâu tốn tiền tốn bạc chi chi.
Thương mới đem các việc từ bi,
Không hề ép những gì tốn kém.
Sợ đó chữ tu hành vội ném,
Nên đây khuyên người hãy bền lòng.
Phải một phen chịu chữ cay nồng,
Sau ngàn thuở hưởng điều thơm lạ.
Có chi rộng cho bằng đạo cả,
Chân bước vào mới rõ nhiệm mầu.
Bể hồng trần lăn lóc từ lâu,
Cõi Tiên Phật kíp mau đi tới.
Việc khổ thảm còn nhiều nhiều nỗi,
Cõi nhơn gian ai hỡi hỡi tu.
Để làm cho sấu nọ hóa cù,
Được đi đến người già đổi trẻ.
Nay cũng mặc cho đời mạnh mẽ,
Người tu thân nên chịu yếu mềm.
Đến ngày kia mới thấy động êm,
Nay chập chững chưa tường hư thiệt.
Đợi đến lúc hoàn cầu tiêu diệt,
Mới biết ai hữu phước sống đời.
Để ngày kia hội Phật, hội Trời,
Đặng hiểu rõ ai còn ai mất.
Nay khuyên nhủ là lời chơn thật,
Mặc ý người nghe chánh thì làm.
Phải gìn xong Giới ngũ, Quy tam,
Nên giữ trọn Bốn ân, Mười thiện.
Nhờ đó mới thoát ngày biến chuyển,
Bằng không đâu khỏi lúc tai nan.
Hỡi đạo đồng tâm tánh sửa sang,
Bớ nam nữ ý tình trau trỉa.
Để nghe sấm được còn hồn vía,
Đến khi nguy thân có vững vàng.
Nay cuộc đời thiệt rất mỏng màn,
Đâu bền bỉ người toan ngó lảng.
Sự tu tấn khuyên người hãy rán,
Nẻo huyền cơ ớ chúng gắng chờ.
Chữ từ bi hai việc nên thờ,
Điều trung hiếu đôi đàng phải gắng.
Tuy học Phật tu nhân chắc chắn,
Gồm cả hai đời đạo một lần.
Để được xem lập hội Phong Thần,
Hầu thấy rõ nơi đài Long Hội.
Khuyên ai rán lánh chừa tội lỗi,
Gọi người nên làm việc phước lành.
Nếu biết tu thời phải biết hành,
Có học đạo phải cho thành đạo.
Vậy mới gọi con nhà Phật giáo,
Vậy mới là xứng kẻ theo Thầy.
Lời tôi khuyên những lẽ thẳng ngay,
Tâm đồng đạo mặc tình chọn lọc.
Tuy rằng vẫn còn đang tu học,
Nhưng thương đời phải bảo nhiều điều.
Để mong người đạo chánh nâng niu,
Hầu nhắc kẻ nhớ câu huyền bí.
Tu thì phải kiếm tầm chơn lý,
Hành thì nên gạn rõ lẽ mầu.
Cuộc tuần huờn xét thấy không lâu,
Ngày biến đổi đến đây gần lắm.
Hỡi đồng đạo máy linh hãy gẫm,
Ớ nữ nam việc thiện nên ghi.
Sớm với chiều niệm chữ A Di,
Ngày cùng tháng lòng trau đạo đức.
Việc xảo trá hãy nên đoạn dứt,
Điều thật thà cố gắng giữ gìn.
Để làm cho thoát cuộc tử sinh,
Hầu đi đến ngày kia giải thoát.
Đây khuyên nhủ chị anh cô bác,
Cùng nữ nam đồng đạo hãy nghe.
Bởi cuộc đời biến chuyển không dè,
Vì tình thế chuyển day quá gắt.
Nên khuyên đó từ tâm giữ chặt,
Hành đạo mầu chớ vội buông lơi.
Phải gắng công tưởng Phật tưởng Trời,
Nên trì chí nghe Thần nghe Thánh.
Dầu lao lý cũng không đổi tánh,
Có nhọc nhằn chớ vội thay lòng.
Rán tu chơn gặp hội Hoa Long,
Nên hành thiện chờ câu báo ứng.
Lời khuyên nhủ cho người trau phận,
Lẽ nhắn nhe khiến kẻ sửa mình.
Để thoát qua ngày có tam thinh,
Hầu khỏi cuộc chuyển day tứ hướng.
Đây chẳng phải là lời nói bướng,
Vì yêu đời nên mới phô bày.
Lời giảng khuyên đồng đạo gái trai,
Xin tạm dứt ai ai về nghỉ.
Dứt giảng xong rồi hỡi bá gia,
Hãy nên tuần tự để đi ra.
Khi đi hãy nhớ từng câu một,
Hầu có trao cho kẻ ở nhà.
15 tháng 6 Quý Tỵ - tức 25 tháng 7-1953.

THÁNG BẢY:
16- Tai Tây An Cổ Tự, Ngày 1 tháng 7 năm Quý Tỵ: Năm sức mạnh mẽ của người

Tai Tây An Cổ Tự, Ngày 1 tháng 7 năm Quý Tỵ: Năm sức mạnh mẽ của người

Thưa quý đồng đạo,
Có khó mới rõ được đạo và cũng nhờ gặp việc khó mới biết rõ lòng người.
Vì sớm mai này tôi mắc đi dự lễ thượng hương của phủ thờ ông Ba Thới nên buổi giảng hôm nay để quá trễ hơn mọi kỳ.

Tuy vậy anh em đồng đạo mặc dù giờ này có người chưa dùng cơm, lòng tuy thấy đói, nhưng cũng vẫn
sẵn sàng chờ đợi để được nghe những lời giảng giải đạo lý.

Có điều khiến tôi phải hết sức cảm động, là thấy có những đồng đạo ở xa chẳng nài sự mệt nhọc khó
khăn, len lỏi đến đây một vài ngày trước để chờ đến bữa nay đặng nghe giảng. 

Đó chẳng qua vì lòng quá ngưỡng mộ đạo đức khao khát lời lành, thành thử khiến cho đồng đạo quên đi sự nguy hiểm, đói khát và mệt nhọc miễn sao được nghe những lời đạo lý dầu có thác cũng vui.

Để tạm đáp lại cái tinh thần đạo đức cao thượng của đồng đạo đã biểu dương từ phiên giảng này đến phiên giảng khác, bằng cách nhẫn nại, chịu gian lao khó mỏi, để tìm cho được yếng sáng của đạo Phật, tôi chỉ còn có một tấm lòng chơn thành đạo đức duy nhứt, mà Đức Thầy đã dạy cho từ lâu, nay đem ra trao đổi cùng chư đồng đạo, để làm cho nhau càng ngày càng được có niềm thương yêu khắn khít, sự hiểu biết đồng nhau và đến chỗ thật hành thuần chánh, không trái ngược tôn chỉ của chúng ta đang sùng phụng.

Thưa đồng đạo,
Đạo vốn rộng lớn vô cùng, vi diệu cực điểm, dù ai cũng phải bước trong đó mới cứu mình, cứu người
được thoát khỏi chỗ thống khổ tai hại.

Đạo làm một con đường quang minh chánh đại, dắt người từ bên này bờ mê của chúng sanh đi thẳng đến bên kia bến giác của chư Phật, được toại hưởng mọi sự an vui ngoài vòng luân hồi sanh tử.

Vả lại trong khoảng Hạ nguơn này, vì đi xa lẽ đạo, nên cả thảy chúng sanh đều chịu lấy biết bao cuộc
tranh giành giết hại những người này với người khác, mong đoạt lấy lợi ích cho mình. Nhân đó, biết bao nghiệp mê, nhân ác. Đồng thời dấy lên xô đẩy con người vào hố sâu tội lỗi, để rồi muôn vạn kiếp đời cứ xoay lăn theo bánh xe luân hồi, đáp trả lại việc làm đen tối của mình từ trước kia một cách đau khổ.

Bởi vậy kẻ đã tự giác lẽ thăng trầm siêu đọa, cần nhờ đến cái đạo để mình gội rửa những điều tham
lam, sân nộ, mê si đổi làm Giới, Định, Huệ trước đoạn trừ xong hoặc nghiệp đã gieo, sau tu chưởng thiện căn cho ngày sẽ tới, khiến mình không còn bị sự ràng buộc trói trăn của các ác duyên ma oán nữa.
Và cũng thế vì muốn đạt chỗ rộng lớn sáng sâu của đạo mà kẻ tu hành thường làm những việc khó làm, bỏ những việc khó bỏ, cho đến thân mạng của họ cũng thế.

Huống chi vào cõi thời hạ nguơn các đấng huyền linh đành lìa cõi an vui vào cõi ngũ trược, dùng biết bao nhiêu diệu thuật để giác tỉnh lòng người, hầu khiến cho kẻ mê muội có cơ thấy rõ nơi đời tạm giả mà rứt bỏ các việc tội lỗi sai lầm, được sống còn đến ngày lập đời thượng cổ hoặc có mạng chung cũng được siêu sanh về Cực Lạc.

Các đấng huyền linh đó sau khi lâm trần, chọn các xác phàm phù hợp cơ duyên, mượn tay hoặc ứng
mộng, mật truyền diệu pháp để cứu độ chúng sanh.

Dù không nói ra, chúng ta cũng đoán biết các vị ấy hễ có xác thân, dĩ nhiên là phải ăn uống, nói cười như người thường. Song bên trong của họ, chứa chan lòng từ bi, trí sáng suốt, hằng yêu thương chúng sanh mà lúc nào cũng tùy nghi dạy dỗ. Ai mới trông thoáng qua cơ hồ như khó mà hiểu được thâm ý của các Ngài vì phần nhiều các Ngài đều có đức tánh khiêm nhượng và rất mực kín đáo.

Ngoài các vị này, Đức Di Đà Ngài cũng thường phóng ánh từ quang khắp cõi Ta bà, ủng hộ và tiếp
rước những chúng sanh thành tâm tưởng niệm danh hiệu của Ngài mà cầu sanh về cõi tịnh độ.

Song vì chúng sanh bị màn vô minh từ vô thỉ đến nay đã che mờ đạo huệ, nên ít kẻ được trông thấy ánh từ quang ấy, mơi đâm ra nghi ngờ rồi dẫn đên chỗ dãi đãi lui sụt đức tin.

Thương hại thay ! Những kẻ đó chẳng khác nào người đã mù từ hồi còn trong bụng mẹ, chưa từng thấy được yếng sáng của mặt trời, có sức soi chiếu khắp mười phương, nên khi nghe có người nói đến điều đó thì sanh lòng nghi hoặc mà cho rằng không có.

Thưa quý đồng đạo,
Để tránh cho chúng ta khỏi trở thành những hạng người mù đã nói trên đó, hôm nay tôi xin giảng về:
“Năm sức mạnh mẽ của người” trong lúc hành đạo:

1- Sức tin tưởng mạnh mẽ rằng: Ngoài cõi Ta bà ác trược này, còn có vô lượng cõi khác trang nghiêm
thanh tịnh hơn. Các cõi ấy chỉ dùng hào quang của chư Phật, chớ không chịu ảnh hưởng ánh sáng của
mặt trời và những chúng sanh ở đó không già, không bịnh, không chết và hưởng mọi khoái lạc.

2- Sức phấn tấn mạnh mẽ để vượt khỏi cõi ngũ trược ác thế, đặng đưa mình đến các cõi trang nghiêm ấy.

3- Sức trì niệm mạnh mẽ danh hiệu của Đức Di Đà cho đến nhứt tâm bất loạn, để nhờ cảm lấy cái nhân
ấy, mà được Đức Phật tiếp dẫn cho mình vãng sanh về nước của Ngài.

4- Sức tự chủ mạnh mẽ lúc nào cũng đi theo tôn chỉ cao siêu, bổn nguyện chánh đáng của mình, không hề bị ngoại cảnh cám dỗ, thị dục sai khiến làm những điều trái ngược cho thân tội khổ.

5- Sức quan sát mạnh mẽ đối trước thiên hình vạn trạng, đều lấy trí phân tích rõ ràng tỉ mỉ từ việc một, để tránh khỏi sự lỗi lầm sái quấy có hại cho mình hay kẻ khác ở hiện tại hoặc sau này.

Năm điều này người học đạo trong bước đầu tiên cần phải nhờ nó, để tránh những sự nhiễm ô thất thố và được dũng mãnh tiến trên đường đạo đức một cách như ý.

Vì rằng sự tu của chúng ta là cốt diệt bỏ những lỗi lầm từ trước đến nay, mà chúng ta đã kết tập nó nhiều đời thành một thói quen. Nếu không nhờ sức tin tưởng, lòng phấn tấn mạnh mẽ thì không dễ nào tiến đến mục đích cao siêu được.

Vả lại, cũng bởi thiếu các đức tính mạnh mẽ đã kể trên, nếu có một số người vừa mới nghe cơ giảng lúc
đầu lấy làm hăng hái, song vì không được chủ định hẳn hòi cho nên sau đó một ít lâu rồi đem lòng xao
lảng ngờ hoặc. Những lòng hăng hái nồng nhiệt trước kia bỗng biến thành như tro tàn củi mục. Nếu có kẻ đã làm như thế, dù đến muôn đời cũng không sao thành công đắc quả được.

Thưa quý đồng đạo,
Dở dĩ phải sanh nhằm đời chiến tranh hỗn loạn, vì chúng ta đã gây nghiệp khổ từ xưa đến phút này phải
đền trả. Tuy vậy kèm theo sự thống khổ này, có các bậc siêu phàm ra đời dìu dắt chúng ta khỏi nghiệp tội mê si.

Như vậy trong cái khổ ách, chúng ta còn được hưởng cái phúc lành vô hạn, thì chúng ta phải hết lòng
tin tưởng phụng hành các giáo điều của Ơn Trên Thầy tổ đã dạy. Vì nếu chúng ta không cố gắng như thế
chừng đến lúc hấp hối hoặc khi tai biến đưa lại bất ngờ ta khó bề hối quá cho kịp, mà các đấng Phật Thần dù đã có lòng thương ta, song cũng không nhân vào đâu để cứu vớt ta được.

Hơn nữa, việc tu học ngoài sự tự cứu lấy ta, ta còn có cái bổn phận phải lo cứu tổ tiên cha mẹ và đến mọi người cùng được thoát vòng khổ hải nữa. Thế nên ta không hề dám chần chờ thối chuyển việc tu hành đạo đức.

Thưa đồng đạo,
Những lời của tôi nhắc nhở đồng đạo, là những điều của Đức Thầy đã nói trong các sám giảng, mà tôi đã thu kết ý chỉ đem nhắc lại, với ngu ý của tôi là muốn làm sao cho đồng đạo trên dưới được đầy lòng thương mến nhau, để tránh cho nhau khỏi nạn tương tàn tương tặc, không trái ngược chơn truyền bác ái của nhà Phật và làm xứng đáng một người tín đồ của Đức Thầy.

Và ai cũng đều được thận trọng lấy mình:
1- Chừa bỏ các việc hung ác.
2- Làm lấy mọi điều hiền lành.
3- Tự lóng sạch được tâm ý.
4- Không hề trái lại lời của mình đã phát nguyện trước bàn Tam Bảo và Tổ tiên.

Có được như thế thì các việc tai ương thống khổ giữa loài người có bao giờ nảy sanh và cõi nào mức
nào mà chúng ta không đến đó được, bởi chúng ta là kẻ được trọn lành, được đi đúng với chí nguyện của chư Phật cổ kim đã có.

Cuộc thế lao lung biết mấy chừ, 
Thảm sầu môn đệ vắng Tôn sư !
Lời khuyên Thanh Sĩ mong người tỉnh,
Để lúc Thầy về hưởng phước dư.
Mượn chánh pháp đóng thuyền đưa nhơn loại,
Đem hạnh lành làm đất chở quần sanh.
Từ thấp hèn đi đến chỗ cao thanh,
Bao thống khổ nhơn sanh cần nhứt định.
Phải vững chí với cần thêm bình tĩnh,
Hầu thực hành đạo chánh ở nơi lòng.
Cuộc chuyển lay nhơn loại khắp đại đồng,
Điều tai khổ quần sanh cùng bốn phía.
Cũng đã xảy lắm điều người mất vía,
Thường hiện ra nhiều việc chúng kinh hồn.
Mà ngắm xem dân sự khắp làng thôn,
Có mấy kẻ thật sùng tôn Phật Pháp.
Lời khuyên nhủ mong người nên tu gấp,
Tiếng kêu gào ước kẻ việc chơn cần.
Lẽ diệu mầu của Phật với thần,
Điều cao khiết nơi Tiên cùng nơi Thánh.
Mong ai biết đâu là đường chơn chánh,
Thì gắng công tìm đến lãnh thâm huyền.
Tuy khổ nàn không lấy đó làm phiền,
Dầu lao lý chớ rũ lòng xao lảng.
Bởi thế cuộc sắp một ngày phao tán,
Mới khiến ra nhơn loại phải điêu linh.
Chỉ có người đạo đức một lòng tin,
Mới thoát bớt được ngày lao với khổ.
Hỡi đồng đạo ! gắng tìm phương tịnh độ,
Ớ chư hiền nên nhớ niệm A Di.
Đời khổ nàn danh lợi nữa mà chi,
Thế điên đảo sắc tài rồi cũng bỏ.
Chỉ có việc cần tầm cho ra ngỏ,
Khỏi tối tăm tránh đó nỗi đau sầu.
Đến ngày sau đi đến chốn Long lâu,
Được thấy rõ tài kia thêm phép nọ.
Nợ nước phải đền chút công lớn nhỏ,
Nghĩ ơn mình đã có cậy nhờ lâu.
Hễ người cư tấc đất hưởng ngọn rau,
Cần phải biết đến điều trung lẫn chánh.
Nay muốn có lắm người chơn đạo hạnh,
Vì thương đời chẳng quản hiểu thô sơ.
Nhắc nhở cho nam nữ phút cùng giờ,
Kêu gọi cả gái trai ngày lẫn tháng.
Để tỉnh thức sửa mình thêm chánh đáng,
Hầu khỏi ngày nguy khổn đến bên thân.
Thế gian này lao khổ biết muôn ngần,
Nhơn loại đấy nổi trôi đà vạn kiếp.
Nay phải rán lo tu hành cho kịp,
Để ngày sau người sẽ được sống còn.
Cơ hội này xét lại quá thon von,
Tình thế hiện gẫm xem đà ngao ngán.
Muốn cả thảy mọi người mau tỉnh đặng,
Hầu khỏi cơn lao khổ của ngày kia.
Để được xem mầu nhiệm hội Long Huê,
Hầu thấy rõ huyền vi trong Phật Pháp.
Mây thẩm bủa tràn khắp Á, Âu,
Cuộc cờ chiếu bí dễ ngờ đâu.
Ngày nay sung sướng mai đau khổ,
Đạo đức ai ơi ! gắng chí cầu.
Thương đời tôi phải khuyên đời,
Nghe không cũng mặc nhưng lời vẫn phân.
Muốn người dựa được các lân,
Nên đây đi khắp thế dân khuyên mời.
Muốn cho người biết Phật Trời,
Ước sao kẻ được nghe lời Thánh tiên.
Hồng trần lao lý vô biên,
Ta bà khổ ách não phiền siết chi.
Xa Thầy dòng lệ lâm ly,
Ngày qua lại vắn tình ni đoạn trường.
Môn nhơn cùng một niềm thương,
Cứ trông, trông mãi sao đường mờ xa.
Nỗi thương cho khắp trẻ già,
Trông Thầy lâu trở đâm ra lảng lòng.
Bàn thông thiên vắng hương nồng,
Cửu Huyền bàn Phật càng trông lạnh lùng.
Để cho meo đóng đầy chung,
Lư hương xét lủng bàn trồng ngã nghiêng.
Nhện giăng bụi đóng xằng xiên,
Sớm buồn không nước chiều phiền vắng hương.
Có nhà thấy bắt sầu thương,
Ngồi sai em nhỏ đốt hương sớm chiều.
Nhìn quanh cảnh huống đìu hiu,
Trông vào ai khỏi chín chiều bâng khuâng.
Chỗ nào đâu gọi nghĩa nhân,
Theo Thầy sao chẳng giữ thân cho tròn.
Lẽ ra muốn vẹn tôi con,
Dầu cho biển cạn non mòn chớ buông.
Tình đời càng thấy quay cuồng,
Nhìn nhau mà hột lệ tuôn mỗi ngày.
Hỡi này đồng đạo gái trai !
Đến đây nghe giảng chớ quay tấm lòng.
Hãy nên tin tưởng mặn nồng,
Càng ngày càng giữ cho lòng thanh cao.
Cuộc đời thay đổi rất mau,
Cũng như gặp gió sóng nào khỏi đâu.
Sợ e mình thiếu đạo mầu,
Lo gì nơi quả địa cầu chẳng xoay.
Cuộc đời còn bận tà tây,
Cho nên tớ phải xa Thầy thảm thê.
Muốn sao cho Đức Thầy về,
Dưới trên cùng giữ một bề chánh chơn.
Nếu còn kẻ ghét người hờn,
Lòng đen dạ bạc chưa gần được nhau.
Ai ôi ! càng nghĩ càng đau,
Nên đem giảng kệ khuyên nhau tỉnh lòng.
Rán tu dự hội Lư Bồng,
Rán tu để có được phong tôi hiền.
Rán tu để gặp Phật Tiên,
Rán tu dự hội Hoa Liên bớ người.
No nao kẻ biết rốt đời,
Để hầu chẳng nhiễm những lời dối ma.
Chừng nào cho khắp người ta,
Dưới trên cùng một hiền hòa mới yên.
Nay đương hưng chấn bạc tiền,
Nên đàng đạo lý ngửa nghiêng ưu sầu.
Thương người gắng chí nguyện cầu,
Dầu cho lao lý chẳng xao tấc lòng.
Buồn người nay bưởi mai bòng,
Sớm tu chiều bỏ đau lòng Phật Tiên.
Làm sao cho đáng mặt hiền,
Làm sao khỏi cuộc đảo điên bớ người.
Làm sao hết khóc rồi cười,
Làm sao hết chết được đời trường sanh.
Làm sao được gặp mây lành,
Che đoàn con dại nhọc nhanh khỏi vương.
Làm sao thoát họa nhà Thương,
Để mà gặp Đức Văn Vương thử nào.
Làm sao khỏi giống bên Tàu,
Thần quyền hết kể máu đào chảy tuôn.
Làm sao tháo gút rối cuồn,
Để cho cùng được đi suông một đàng.
Lòng tôi thương kẻ gian nan,
Chẳng nài khó nhọc xa đàng đến đây.
Muốn nghe dầu phải đắng cay,
Lòng không quản đến chỉ mài sự tu.
Ngày kia phước huệ sẽ bù,
Để mà sống sót ngao du non Đài.
Hỡi này đồng đạo gái trai,
Giảng khuyên để nhớ chứ phai câu nào.
Bữa nay lời lẽ thanh thao,
Lòng kia cũng được khiết cao mới là.
Chỉ nên niệm chữ Di Đà,
Nằm ngồi đi đứng lòng mà không quên.
Ngày kia cõi Phật được lên,
Thượng Nguơn đặng sống coi Đền Đế Vương.
Bây giờ còn bận còn mù sương,
Nên chưa rõ ánh thái dương ngần nào.
Lời khuyên người phải cần trau,
Cuộc đời biến đổi có nào chờ ai.
Lòng kia khá giữ thẳng ngay,
Có cơ cứu độ khỏi tai khỏi nàn.
Khuyên nhau giữ vẹn một đàng,
Đến đây đã dứt hãy toan lui hài.
Giảng giải đến đây đã dứt rồi,
Lòng kia hãy rán nhớ buông trôi !
Con đường xa mới tri tình ý,
Đạo lý nhiệm mầu lắm kẻ ôi !
Mùng 1 tháng 7 Quý Tỵ - tức 9 tháng 8-1953.


Thuyết Pháp Ứng Khẩu - Quyển 1

Đánh giá bài viết

4.98/32 rates

Đăng nhận xét

Cảm ơn Đạo Hữu đã đóng góp. Chúc Đạo Hữu một ngày an lạc! A Di Đà Phật