Thi Văn Giáo Lý Năm Kỷ Mão 1939 - GIÁC NGỘ TÙY DUYÊN
LGWfrYbsCGvENWA8TkfRMZ7fj7Z9WPOVhLeg8glK
Bookmark

Thi Văn Giáo Lý Năm Kỷ Mão 1939

THI VĂN GIÁO LÝ
CỦA ĐỨC THẦY
SÁNG TÁC
NĂM KỶ MÃO 1939

CÁC BÀI THƠ CÓ ( *) LÀ CÓ CHÚ GIẢI



1. Lộ Chút Cơ Huyền (*)

Lộ Chúc Cơ Huyền

(Diễn Giải)
Trần thế lợi danh giấc mộng tràng
Đời cùng Tiên Phật hạ phàm gian
Hởi ai tâm trí mau tầm Đạo
Tầm đáng hiền từ cứu thê gian
Khắp trong bá tánh kề cảnh khổ
Đạo Đức hiền từ kiến Tiên bang
***
Thiên Địa u minh dĩ đạo tràng
Thập bát chư hầu lụy há khan
Đạo lý tầm sâu sâu chẳng cạn
Đời cùng ly loạn khắp chư bang
***
Thương hải tang điền ắt chẳng yên
Thiên địa diệt gian dĩ thiện riêng
Cơ thâm họa diệc từ đây có
Bộ máy thiên cơ ắt đảo huyền
Tuất Hợi nhị niên giai tiền định
Hườn lai Thượng Cổ mới bình yên
***
Điên này vốn thiệt ở núi vàng
Thương đời nói rõ việc lầm than
Khuyên trong lê thứ mau mau tỉnh
Yên trí nghĩ suy biết đá vàng
***
Ý Gì Tiên trưởng muốn khuyên đời
Mà đời lầm lạc lắm đời ơi
Đạo đức nhuốc nhơ mà sao đặng
Tỉnh giấc mau mau mới kịp thời
***
Bi động từ tâm gọi mấy lời
Chúng sanh nam bắc lụy tuôn rơi
Kim sơn xem thấy lòng tha thiết
Mà còn nhiều lắm chúng sanh ôi!
***
Nam Việt cúi lòn dài dặm dặc
Nhưng ấy chẳng qua tại lẻ trời
Đạo hạnh huyền cơ khuyên đó kiếm
Chẳng vậy sau nầy khó thảnh thơi
***
Cổ ngữ hằng ghi thậm cổ đa
Tận diệt nhơn gian trực tiên khoa
Lão giả hậu qui nhơn ấu giả
Ly kỳ thiên định dĩ thiên la
***
Tây Phương trở gót quá xa đàng
Thương xót Nam kỳ lại An Giang
Doái thấy xóm làng thêm bắt chán
Yêu đời mê muội luống bầm gan.
***
Thiên trước tòa sen có chổ ngồi
Xuống trần chẳng dụng chốn cao ngôi
Khắp trong sáu tỉnh toàn giả dối
Xa phướn tăng sư tạo việc tồi
***
Thiên cơ thế giới đà biến chuyển
Từ rày trần hạ nhẹ danh trôi
Tu hành giả dối khuyên khá đổi
Cúng kiến trai đàn cũng nên thôi.
Hòa Hảo, Tháng 6 Năm Kỷ Mão
2.Cho Đức Ông Mất Ghe (*)

Cho Đức Ông Mất Ghe

(Diễn Giải)
Thoàn nhỏ ly gia vị tất nan
Bửu sanh du lịch Lục Châu Giang
Kim sơn thương mãi toàn lê thứ
Thức tỉnh bá gia giấc mộng tràng
(Đức Thầy đọc bài nầy cho Đức Ông nghe và bảo Đức Ông kiếm mấy ông thầy nho mượn bài thử!)
Hòa Hảo, Tháng 7 Năm Kỷ Mão
3. Mặc Tình Ai (*)

Mặc Tình Ai

(Diễn Giải)
Bá gia mặn lạt mặc tình ai,
Đạo-lý tầm đâu chẳng thấy rày.
Chỉ thấy hình trơ thân xác trọi,
Ai người tâm đạo nghĩ càng hay;
Ai người thích đạo thấy chàng ray.
***
Thầm thầm tối tối gẫm ai hay,
Mặc sức dương-trần chữ đắng cay.
Có báu thì ta dành của báu,
Ai tầm cho giỏi mới được hay.
***
Lo lo liệu liệu chịu tiếng trần,
Có một hội nầy rán lập thân.
Chớ để trễ chầy rèn chẳng kịp,
Khuyên ai khuya sớm rán chuyên cần.
Hòa-Hảo, tháng 6 năm Kỷ-Mão.
4. Bánh Mì (*)

Bánh Mì

(Diễn Giải)
Mì kia gốc phải nước mình không?
Nghe thấy rao mì thốt động lòng
Chiếc bánh não-nùng mùi khách lạ,
Bát cơm đau-đớn máu cha ông
Văn-minh những vỏ trưng ba mặt,
Thấm-thía tim gan ứa mấy giòng
Nhớ lại bảy mươi năm trở ngược,
Say mì lắm kẻ bán non sông
Khải-hoàn dân-chúng mới nhàn an,
Dân mảng còn mê giấc mộng tràng
Thảm-thê thế sự mùi cay đắng,
Ta hỡi đau lòng khách ngoại bang
H.H năm Kỷ-Mão (tại nhà ông Nguyễn-duy-Hinh)
5. Ông Lương Văn Tốt Hỏi (*)

ông Lương Văn Tốt Hỏi

(Diễn Giải)
Ông LƯƠNG-VĂN-TỐT hỏi– Đức Thầy đáp họa
(Ông Tốt ở làng Mỹ-Hội-Đông, tỉnh Long-Xuyên)

Mộ đạo ơn trên chưa hiểu danh,
Xin ông phân cạn chúng nghe rành
Ba ngàn thế-giới ai là chủ?
Mở lượng từ-bi dạy chúng-sanh

ĐỨC THẦY đáp họa:

Vưng lịnh Phật Tôn chưa hiệu danh,
Ngặt vì pháp-luật khó phân rành
Càn-khôn muốn biết ai là chủ,
Tu hành theo dõi đến mây xanh
Vì sao thế-giới lại ba ngàn?
Học đã rành chưa đến hỏi han?
Đã lãm nho văn thì hãy đối,
Đáp lời cho vẹn kiến Tiên-bang
Đời văn-vật say mê khổ thảm,
Người nào đà tường lãm nho-văn;
Xưa nay mèo-mả lung-lăng,
Làm cho quên mất Đạo hằng thánh-nhơn
Nay gặp kẻ có cơn thức-tỉnh,
Phận làm người thủng-thỉnh sửa-sang
Tay xuống bút nói lang chuyện thế,
Bày đạo mầu cứu-tế nhơn sanh;
Kìa kìa các bực công-khanh,
Miễu son tạc để đành rành chẳng sai
Hỡi ai kẻ học hay lo liệu,
Rứt bụi trần bận-bịu làm chi
Làm cho rồi phận tu-mi,
Sau nầy sẽ thấy ly-kỳ Năm-Non
Chừng Bảy-Núi lầu son lộ vẻ,
Thì người già hóa trẻ dân ôi!
Tu hành ắt được thảnh-thơi,
Lại xem được Phật được Trời báu thay!
Thân hành đạo đắng-cay phải chịu,
Phận làm người phải liệu cho xong
Cần chi gạn hỏi viển-vông,
Làm người chưa vẹn khó hòng thảnh-thơi
Nói nhiều lắm xe lơi tình nghĩa,
Chữ hiền lành trau-trỉa cho xong;
Thấy đời trần hạ long-đong,
Chẳng lo khó thấy Mây-Rồng hội kia
Hòa-Hảo, tháng 6 năm Kỷ-Mão
6. CHO CÔ TƯ CỨNG Ở HÒA-HẢO (CHÂU-ĐỐC) MẤT ĐỒ (*)

CHO CÔ TƯ CỨNG Ở HÒA-HẢO (CHÂU-ĐỐC) MẤT ĐỒ

(Diễn Giải)
Kích động thiện tâm lụy xót-xa,
Thoàn loan trở gót dụng tiên-khoa
Khuyên giải phàm nhơn tan sầu muộn,
Vật-dụng gia-đình khó kiếm ra
Thương đó lòng đây rất thiết-tha,
Thiên định số căn mới xảy ra
Đoái thấy tà-gian Trung-Trực ghét,
Nhưng vì vận hạn chẳng phui ra
Hòa-Hảo, ngày 17 tháng 7 năm Kỷ-Mão
(Bài nầy Đức Thầy bảo cậu út Huỳnh Thạnh-Mậu, bào đệ của Ngài, đem trao cho cô tư Cứng nói rằng là “của ông thầy bói mượn đưa cho cô”).

L.S.G.- Trong cuốn “Sấm Giảng khuyên người đời tu niệm” có đoạn nói về chuyện cô tư Cứng mất đồ như vầy:

“Con thuyền đương lướt gió sương,
Bỗng nghe tiếng khóc tư-lương ai-hoài
Có người ở xóm bằng nay,
Bị mất trộm rày đồ-đạc sạch trơn
Du-thần bày tỏ nguồn cơn,
Rằng người nghèo khó đương hờn phận duyên
Điên nghe vội-vã quày thuyền,
Dùng khoa coi bói giải phiền phàm nhơn
Coi rồi bày tỏ thiệt hơn,
Khuyên cô đừng giận đừng hờn làm chi.”
7. CHO ĐỨC ÔNG VÀ ĐỨC BÀ

CHO ĐỨC ÔNG VÀ ĐỨC BÀ

Chừng nào vết nọ liền da, (1)
Chuột kia mãn hạn khỉ vào vườn hoa
Ấy là thời đại của ta,
Thầy ra cứu thế mới là hiển-vinh
H.H, tháng 8 năm Kỷ-Mão
_________________________________
(1) Sau khi đi Tà-Lơn với Đức Thầy về, Đức Ông đau bàn chơn trái ngót hai tháng
8. “HỐ HÒ KHOAN”

“HỐ HÒ KHOAN”

Huỳnh long lộ vĩ; Bạch-sĩ tiên sanh,
Nam-quốc công khanh; Ra đời cứu tế;
Hò xang xự xế; Mắc kế Trương-Lương,
Tự giác thôn-hương; Qua dương cơ-khí
Lập chí hiền nhơn; Nên mới có cơn,
Thất-Sơn tiếng nổ; Qui cổ diệt kim
Cửu cửu y nhiên; Tình riêng tham báu,
Đổ máu tuôn rơi; Khùng mới nói chơi,
Chư bang hàng phục
Anh hố hò khoan; Tình lang xự xế,
Bỏ phế hương thôn; Ác đức vô môn
Rồng-Mây hội yến; Ra đời bất chiến,
Nổi tiếng từ-bi; Lời lẽ rán ghi
Thành công êm thấm; Có lắm người yêu
Hòa-Hảo, lối tháng 8 năm Kỷ-Mão
_________________________________
(1) Phần nhiều bài của Đức Thầy không có đề tựa. Muốn cho tiện việc sắp-đặt trong quyển sách nầy, chúng tôi tùy theo ý nghĩa của mỗi bài mà đề một cái tựa. Những bài nào có tựa mà chúng tôi chắc rằng do Đức Thầy đặt thì chúng tôi đề vào dấu móc (entrecrochets)
9. HƯƠNG-CHỦ ĐẠT xướng: Đức Thầy đáp họa (Ông Đạt ở làng Nhơn-Mỹ, tỉnh Long-Xuyên)

HƯƠNG-CHỦ ĐẠT xướng: Đức Thầy đáp họa (Ông Đạt ở làng Nhơn-Mỹ, tỉnh Long-Xuyên)

Đạo mầu phận tớ hiểu chưa rành,
Cầu nguyện Di-Đà độ chúng-sanh
Bể giác, bờ mê mong thoát khỏi,
Nhờ thuyền bát-nhã giúp công thành

ĐỨC THẦY họa:

Thâm diệu rồi đây cũng hiểu rành,
Một lòng nguyện độ tận nhơn-sanh
Giác-mê hai chữ rồi ta chỉ,
Chí dốc ngày kia sẽ đạt thành

H.H. năm Kỷ-Mão
10. Ông NGUYỄN-THANH-TÂN xướng: Đức Thầy đáp hoạ

Ông NGUYỄN-THANH-TÂN xướng: Đức Thầy đáp hoạ

Ông Nguyễn-Thanh-Tân tức Hương-lễ Ướng là người ở làng Mỹ-Hội-Đông, thuộc tỉnh Long-Xuyên. Theo lời một người con trai của ông, thì mấy bài thi dưới đây ông đã làm khi diện kiến Đức Thầy lần thứ nhứt:

Phận hèn cám tưởng nghĩa non sông,
Hản mặt rồi đây khách cõi Bồng
Cẩm-tú lắng tai người Nhược-thủy,
Từ-bi cảm-ứng thứ trung thông

ĐỨC THẦY đáp họa:

Cảm nghĩa sĩ hiền tưởng núi sông,
Thương người đưa đến chốn tiên Bồng
Cẩm-tú lòng yêu vì quốc thủy,
Đợi thời đưa đến ứng trung thông
H.H. năm Kỷ-Mão
11. THANH-TÂN hựu tác – Đức Thầy hoạ

THANH-TÂN hựu tác – Đức Thầy hoạ

Mảng mê danh lợi đạo lu bù,
Nhờ có ơn Thầy dẫn dắt tu
Mê tỉnh, tỉnh mê, mê phải tỉnh,
Bồ đề say gục phá tâm ngu

ĐỨC THẦY họa:

Dạy chúng chưa xong dạ rối bù,
Mấy chục năm trường lạc chữ tu
Sanh chúng say mê, mê khó tỉnh,
Bồ đề chẳng mến, ấy người ngu
Hòa Hảo, năm Kỷ Mão
12. THANH-TÂN vấn gia-đình – Đức Thầy đáp

THANH-TÂN vấn gia-đình – Đức Thầy đáp

THANH-TÂN vấn gia-đình:

Gia-đình kỷ cá hội long đàn,
Ngưỡng vọng cao ân tố nghiệp xang
Phi vụ tiết phong tầm chánh lý,
Nho tông vị bác hiệp tôn nhan

ĐỨC THẦY đáp:

Mộng sầu tan giác hiệp liên đàn,
Hai chữ từ-bi thẩm nghiệp an
Bài trí năng soi chơn giáo-lý,
Phật tiền hưởng ứng kiến long nhan
H.H. năm Kỷ-Mão
13. HIẾU NGHĨA VI TIÊN

HIẾU NGHĨA VI TIÊN

Nhơn sanh hiếu nghĩa dĩ vi tiên
Hành thiện tri kinh thị sĩ hiền
Kiếm huệ phi tiêu đoàn chướng-nghiệp,
Phật tiền hữu nhựt vĩnh an nhiên
H.H. năm Kỷ-Mão

(Ông Thanh-Tân có họa lại bài thơ trên đây, nhưng xin miễn chép)
14. CÚC CUNG BÁI

CÚC CUNG BÁI

(cho ông Hương-lễ Ướng)

Cúc cung, hưng bái, cúc cung hoài,
Lui tới nhún trề, xướng lại dai
Ton tán, ton tờn thêm cóc xẻng,
Vỗ bồng vác hất, thấy càng gay
Khuyên thôi mà tiếc vẫn cung hoài,
Mến tríu hơ-hà thiệt rất dai
Sắp đến khó mong mà cóc xẻng,
Thất mùa chẳng rước thật là gay
Vóc-vạc trung trung béo mập người,
Tuổi vừa sồn-sộn quá năm mươi
Bụng to tai điếc ưa nghề lễ,
Thi phú thâm trầm chớ dể ngươi
Khá khen cho đó ý như lời,
Chơn-chất hiền hòa ít nói chơi
Nhu sĩ lương từ thêm cảm mến,
Nên làm thi phú ghẹo người ơi!
H.H năm Kỷ-Mão

(Ông Hương-lễ Ướng tức Nguyễn-Thanh-Tân có đáp họa 4 bài thi trên đây, nhưng xin miễn đăng)
15. BÀI CẦU CƠ – Đức Thầy hoạ

BÀI CẦU CƠ – Đức Thầy hoạ

BÀI CẦU CƠ
Nguyễn đắc thanh-danh tam hữu phân,
Đa công hoài luyện thập niên phần
Chúng kỳ vật xảo thiên truyền bá,
Phước lộ hoành thân ngũ sắc vân

(Bài nầy do một người ở Phú-Lâm, cầu cơ tại trên núi, đem đến Đức Thầy)

ĐỨC THẦY họa:

Nải chí thi âm tất hữu phân,
Thiên nhiên liên huệ tác nhi phần
Vạn ninh hà hải vi vương bá,
Viễn vọng thanh tân tảo phi vân
H.H năm Kỷ-Mão
16. Nhức Đầu

Nhức Đầu

Nhức đầu rang óc bởi vì đâu,
Nhức mỏi lòng trông dạ hết sầu
Nhứt dạ chờ ngày Trời trả phúc,
Nhức gân, nhức cốt cả trời Âu
Nhức đầu bị tiếng nổ đâu đâu,
Nhứt quyết làm cho chúng thoát sầu
Nhứt thống dân sanh gầy hạnh-phúc,
Nhứt tràng lê-thứ khỏi lo âu
H.H. năm Kỷ-Mão
17. KHUYÊN BỎ DỊ-ĐOAN

KHUYÊN BỎ DỊ-ĐOAN

Thiện-tín tới đây chớ ngã lòng,
Xác trần mê mệt nỗi long-đong
Cậu, cô, chú, bác đừng coi bói,
Theo lối dị đoan mất bạc đồng
Bạc đồng chẳng dụng, dụng chơn không,
Quyết chí nâng-niu giống Lạc-Hồng
Tìm-tõi Đạo mầu trong Phật-pháp,
Cho đời hiểu rõ lý chơn không
H.H. năm Kỷ-Mão

(Đức Thầy viết bài nầy vì lúc đó có nhiều người đến nhờ Ngài đoán giùm vận mạng hoặc việc gia-đình)
18. NGHĨ VIỆC HUYỀN CA

NGHĨ VIỆC HUYỀN CA

Ngồi buồn nghĩ cạn việc huyền ca,
Muốn rứt cho xong bể ái-hà
Phá bức tường mây nhìn vạn vật,
Ngặt vì trướng lụa lấp đèn pha
Lôi-thôi quá chậm trong đường thẳng,
Trễ-nải khó qua nẻo cọp-xà
Một bước leo bờ mà khỏi khổ,
Nam nhân chi chí hỡi đâu là
Đâu là ái-quốc với yêu đời,
Phổ cứu cho rồi mới thảnh-thơi
Trời Nam sốt ruột chờ con đỏ,
Đất Bắc lòng lang nỗi thậm lời
Cố tưởng người trần, trần chẳng đoái,
Tình sâu dân sự, sự xa vời
Rồng tiên mở mắt nhìn thi phú,
Hiệp mặt tớ thầy sẽ nghỉ-ngơi
Thâm hiểu lòng ta nỗi cuộc đời,
Một bầu nhiệt huyết chẳng xa lơi
Mến yêu quốc-thủy tình đồng chủng,
Phải tính sao xong nỗi cuộc đời
Hòa Hảo năm Kỷ-Mão
19. THIÊN LÝ CA (*)

THIÊN LÝ CA (*)

(Diễn Giải)
(Mấy bài dưới đây do ông Cả Châu ở Tân-Long (Châu-đốc) đem trình với Đức Thầy nói rằng của “Ông Đò” cho ông):

PHAN lòng chữ dạ chớ hoài lo,
NGỌC ẩn non Côn tợ lửa lò
CHÂU lạc đường dê nương bước ngựa,
Núi truông qua đặng rán lần dò
Vườn hoa ngó khỉ giọng chiu-chít,
Cảnh nguyệt coi gà tiếng ó-o
Tường-tận đã nghe xê cống líu,
Hương thôn bỏ xế xự xang hò

Đọc ngược lại bốn câu chót (tứ tuyệt nghịch độc)

Hò xang xự xế bỏ thôn hương,
Líu cống xê nghe đã tận tường
O-ó tiếng gà coi nguyệt cảnh,
Chít-chiu giọng khỉ ngó hoa vườn
Quỉ ma hay phá rối người tu,
Đạo-đức chư nhu rán chí hành
Chớ bỏ lời thề nơi Phật cảnh,
Chớ quên tiếng nguyện chốn non xanh
Đêm thanh vắng tiếng đờn khoan-nhặt,
Nghe cho tường giọng Bắc hòa Nam
Thích-Ca còn phế tước-hàm,
Đài cao cửa rộng mà ham tu hành
Hiền đệ Châu muốn nghe lời ngọc,
Lão tỏ bày hình vóc nhiệm-sâu

(Câu nầy của Đức Thầy thêm. Đoạn sau đây có khúc của ông Đò, có khúc của Đức Thầy viết xen kẽ)


Thiên ý không riêng mối Đạo mầu,
Rằng truyền yếu-lý nhiệm cao sâu
Chuyển miền Nam-Địa càng thâm-diệu,
Lọc lẽ tà tâm sự đứng đầu
Nguồn bạch thủy trong veo thấy dạng,
Lẽ nhiệm mầu chưa hản trò ôi!
Đêm ngày buồn-bã vô hồi,
Kìa trên Tiên-cảnh vị-ngôi sẵn dành
Đạo rải khắp năm canh tỏa bút,
Dạy tận-tường chẳng chút nào sai
Cổ nhơn tích để phân bày,
Đường chơn nẻo chánh âu ai rán tầm
Thuyền bát-nhã chí tâm trực thẳng,
Thả ra khơi cứu dẫn khách trần
Phù-sanh lắm cuộc lao thân,
Ngày đêm ta-thán muôn phần đớn-đau
Trông đợi người tài cao đức trọng,
Hầu rõ thông thiên-võng lẽ nao
Chí tâm tường lãm thấp cao,
Dạy cho rõ biết Thiên-Tào nơi đâu
Ngồi nghĩ cạn thêm sầu cho thế,
Bởi ít ai cải chế đường tà
Sợ e nhiễm trược đọa sa,
Sợ cho lắm kẻ chan hòa lụy tuôn
Sợ nhiều kẻ dạ buồn đổi chí,
Quên những câu chánh kỷ hóa nhơn
Mảng lo tìm kiếm tước quờn,
Thất kỳ vọng tưởng lánh chơn đường lành
Trong buổi khổ mau mau tránh khổ,
Rán tầm vào đến chỗ an cư
Học câu hỉ-xả đại từ,
Nêu gương nghĩa sĩ dạ tư chớ gần
Câu bát-chánh rán mài chạm dạ,
Tứ mục-điều người khá hành y
Muôn thu thiên định nhứt kỳ,
Hạ-nguơn sắc-lịnh khai kỳ Long-Hoa
Rán vẹt phá sương mù trước mắt,
Chớ để cho quỉ dắt linh hồn
Lão đây vưng lịnh Phật-tôn,
Lãnh cân thưởng phạt chư môn dữ lành
Khá chí tâm học hành kinh sám,
Thoát nơi miền hắc-ám phong-ba
Trở chơn cho kịp Long-Hoa,
Long-Hoa có mặt ấy là hiền nhơn
Đền nợ thế nghĩa-ơn trọn vẹn,
Lấy tinh-thần hiệp vén ngút-mây
Chớ nên bắt-bẻ Phật-Thầy,
Ngày sau phải chịu đọa đày chớ than
Cuối năm Thìn sẽ lo vận chuyển,
Xứ “Hà-tiên” linh hiển cơ-quan
Nhơn sanh sẽ hiệp một đàng
Hết Thìn rồi lập Nhơn-Hoàng hội ra
Khuyên sanh-chúng gần xa phân cạn,
Dựng Nhơn-Hoàng cho rạng Á-Đông
Chúng-sanh phải tưởng giống-dòng,
Hiệp tâm hiệp trí cột đồng nhà Nam
Phật chỉ dạy qui tam lập hội,
Dựng cho rồi một cội thành ba
Chớ mong yến thử ẩm hà,
Mười ngàn năm lẻ cửa nhà đâu con?
Ta nhắc lại héo von cho trẻ,
Cứ đâu lưng đừng rẽ đừng chia
Cả kêu lớn nhỏ quày vìa,
Trên hòa dưới thuận chớ lìa chớ phân
Long-Hoa hội ân-cần lo lập,
Lập cho rồi tam-thập-lục nhơn
Lôi-Âm giục khởi tiếng đờn,
Thất-Sơn dấy loạn là cơn hiểm-nghèo
Nơi phía trước cheo leo tiếng khóc,
Đứng sau lưng hình-vóc dảy chưng
Nước kia lửa nọ tưng bừng,
Thảm cho thế sự lẫy-lừng nạn tai
Thời cũng tại không ai tu niệm,
Cứ lẳng-lơ ngạo biếm khoe-khoang
Đến nay là buổi tai nàn,
Tam thiên lục bá khắp tràng hại dân
Đến Thân-Dậu Thánh-Thần náo động,
Thảm cho trần nhà trống ruộng hoang
Tiếng than lụy ngọc nhỏ tràn,
Nạn tai dồn-dập xóm làng còn chi
Khuyên sanh-chúng rán ghi mối Đạo,
Lòng hằng lo ngay thảo nghe con
Tương dưa giữ phận cho tròn,
Cuối niên Thân-Dậu mất còn sẽ phân
Trong một giáp ân-cần suy tính,
Muốn làm hiền rán nhịn đừng than
Đến nay gần buổi khoa tràng,
Minh-quân xuất thế khắp tràng thảnh-thơi
Đến Thân-Dậu cơ trời thấy lộ,
Hết đao binh qui cổ diệt kim
Gia vô bế hộ im-lìm,
Lập thành mối Đạo rõ điềm xưa kia
Thì dân-chúng danh bia hậu thế,
Phật, Thánh, Tiên kềm chế lập thành
Diệt tà lập chánh đành-rành,
Ba màu nắm chặt Nam-thành xử phân
Trong tam giáo ân-cần mở Đạo,
Trường ngoại bang phục đáo như xưa
Phật Tiên vận chuyển lọc-lừa,
Chúng-sanh rán nhớ muối dưa hội nầy
Trên cùng dưới sum vầy một buổi,
Dựng mười hai may rủi mới hay
Làm cho rõ mặt râu mày,
Thương-nguơn hồi phục là ngày an cư
Cuối Thân Dậu y như Thượng-cổ,
Thời nhơn sanh hết khổ đến may
Đế-Vương xuất thế là ngày,
Dậu, Thân bình-trị trong ngoài âu ca
Phân chỉ rành gần xa để dạ,
Chớ đảo-điên phải đọa phải sa
Nghĩ suy cho thấu mới là,
Một bầy Hồng-Lạc nay đà thảnh-thơi
Khuyên sanh-chúng nhớ lời ta tỏ,
Trước cùng sau chỉ rõ mối đàng
Nhơn-sanh giữ phận chớ than,
Minh-Vương xuất thế mới an dân lành
Gội ơn Trời độ khỏi sai lầm,
Xin giúp chí bền, chí dục tâm
Hộ mạng thần Quan-Âm trợ lực,
Nguyện thân ý nhiệm xứng công thần
Từ-bi Trời Phật độ quần sanh,
Cứu khỏi tai ương vạn sự lành
Đệ-tử gội nhuần ân đức cả,
Chung thân quyết chí dốc làm lành

Đoạn dưới đây là hoàn toàn của Đức Thầy (chép theo bổn chánh)

Buồn vơi mượn bút tay đề,
Đã rời trần-thế dựa kề Tiên-bang
Tay chèo miệng nói lang-mang,
Chúng-sanh cách trở nghèo nàn hỡi ai
Lục châu ta dạo bằng nay,
Thấy trong lê-thứ quá dài gian-nan
Động tình tá quốc an bang,
Nước nhà vững đặt Nam-đàng hiển-vinh
Bây giờ ta mươn kệ kinh,
Khuyên ai mau kíp sửa mình cho an
Bữa xưa giảng-kệ một nang,
Bởi vì ta mắc dời thoàn cảnh xa
Ngày nay ta cũng nôm-na,
Gẫm trong lê-thứ hằng-hà lụy rơi
Chừng nào mới đặng thảnh-thơi,
Qua năm Tuất-Hợi Phật Trời định phân
Chim Ô đà dựa cầu Ngân,
Người xưa trở gót cho gần người nay
Người nay rồi vẹn thảo ngay,
Thì là thấy tạn mặt mày người xưa
Nguyện cầu gắng chí sớm trưa,
Cầu cho bá-tánh sớm ưa tu hành
Đầu đuôi ta tỏ ngọn ngành,
Mau mau trau-trỉa chữ lành cho xong
Đến chừng lập hội mới mong,
Trở về chúa cũ mới hòng xuê-xang
Người hiền như thể cỏ lan,
Người hung chết rất chật đàng thảm thay
Cả kêu kìa hỡi là ai,
Quan trường rời dứt mặt mày chùi lau
Lui chơn ra khỏi cho mau,
Tìm trong lánh đục tẩu đào mới ngoan
Theo ta đến chốn Tiên-bang,
Đặng coi các nước hội hàng Năm-Non
Đạo Phật vốn ngàn xưa rạng tỏ,
Nay lu-lờ bị mõ cùng chuông,
Thầy chúng-sanh đắp Phật bán buôn,
Mà tội lỗi ngàn muôn lao-lý
Cho đó hiểu nhiều câu huyền-bí,
Rán nghĩ suy bền chí mới mầu
Dẹp lợi-danh dẹp hết mộng sầu,
Đặng trở lại với cha cùng chúa
Nếu chẳng lo cũng như lá úa,
Lá úa vàng nó rụng người ôi!
Ngàn năm mới có một đời,
Tới chừng lập hội Phật-Trời xử phân
Ai muốn gần bệ ngọc các lân,
Thì phải rán lập thân nuôi chí
Ta cho đó ít câu hữu lý,
Diệt tâm trần lập chí hiền-nhơn
Đục trong đà tỏ nguồn cơn,
Lời ta khuyên đó như đờn Bá-Nha
Mặc ai biếm nhẻ gần xa,
Lòng ta ta biết ai mà mặc ai
Đây khuyên đó đắng cay rán chịu,
Mặc người trên bận-bịu chẳng phê
Muốn cho thân vượt khỏi lề,
Cắm sào trì chí một bề lo tu
Kim ngọc nan tri tường đông hải,
Phật tà phàm tục tất nan tri
Ẩn xác phàm phu gìn Thích-Đạo,
Mặc tình thế sự chúng khinh-khi
Mấy kẻ tu mi tròn nhơn đạo,
Hiền nhơn thức tỉnh kiến huyền-vi
Ngay thẳng hiếu trung trang hiền thảo,
Kim thời bá-tánh gọi ngu-si
Nợ thế đền xong mong giai lão,
Hiền thần hiếu nghĩa đáng nên ghi
Lâm sầu mộng ở trong trần thế,
Việc tu hành như ế chợ đông
Mảng lo danh lợi não-nồng,
Chữ tu để dạ chớ hòng lợt phai
Mặc tình ai gièm-pha tai tiếng,
Sửa tâm lành như miếng hoa thơm
Đến chừng hoa nở nhụy đơm,
Thì là trần-thế mới hờm bẻ hoa
Câu đạo-lý thiệt tường thiệt tận,
Khuyên dương-trần bớt giận đừng gây
Kìa kìa súng nổ trời Tây,
Đến năm Thân-Dậu tai đầy sấm vang
Hung-đồ với lũ dọc ngang,
Đến sau rơi máu khắp tràng mới tu
Thấy đạo-lý còn lu chưa tỏ,
Dân ganh hiền ghét ngõ làm chi?
Buồn đời xuống bút làm thi,
Thương dân chịu chữ cố lỳ dạy dân
Nào nào dân có biết ân,
Mạnh rồi tưởng Phật vái Thần làm chi
Lời châu ngọc khuyên ai để dạ,
Nay gặp người quái lạ tỏ phân
Hãy mau khuya sớm chuyên cần,
Đặng xem chư-quốc non Tần giành chia
Nay nhằm lúc đêm khuya lặng-lẽ,
Nhắn ít lời cho kẻ đàng xa
Phật-nhi tâm tánh thật-thà,
Ông còn phân biệt chánh tà nữa thôi?
Dương-trần thường bạc như vôi,
Gặp cơn bát loạn mới hồi tâm hung
Lúc áo-não cội thung lo-liệu,
Gắng bền lòng bận-bịu vì ai
Thất-sơn lộ vẻ đài lầu,
Chừng ni mới thấy nhiệm mầu của ta
Khuyên bổn-đạo gần xa nuôi chí,
Lẽ nhiệm-mầu huyền-bí nơi đây
Bây giờ nương bóng cờ tây,
Mượn phần xác thịt tỏ bày thiệt hơn
Thương sanh-chúng đòi cơn dạ ngọc,
Ta quyến gìn chủng-tộc giang-sơn
Ta khùng mà chẳng có cơn,
Cũng không có tánh giận hờn bá gia
Cười rồi khóc thiết-tha lịu-địu,
Vợ xa chồng bận-bịu thê lương
Chẳng cần trà, quả, nồng hương,
Miễn cho bá-tánh biêt đường chơn tu
Nghe kệ sám như ru giấc mộng,
Lo chê cười hầu họng reo vang
Ỷ mình nhiều của giàu sang,
Phụ khinh tông-tổ chẳng màng người xưa
Mặc ý ai ghét ưa ưa ghét,
Lấy tâm thần xem xét thể nao?
Sấm vang thì lộ bảng vàng,
Chư nhu thế-giới khắp tràng tới thi
Chữ thi gần chữ sầu-bi,
Bị ham của báu ly-kỳ máu rơi
Chừng đó mới trời ơi đất hỡi,
Mang khổ hình vì bởi chẳng tu
Ham vui quyền quí dại ngu,
Chữ sang danh vọng như mù đi đêm
Ta nào có nói thêm cho chúng,
Quá yêu đời viết túng ít câu
Ít câu mà ý nhiệm sâu,
Nghĩ suy cho cạn mới hầu khôn-ngoan
Đây sắp đến lầm than khắp chốn,
Việc tu hành đâu tốn tiền chi
Nầy nầy lời lẽ rán ghi,
Sau đây sẽ thấy việc gì trên mây
Ta mắc lánh tà-tây đa sự,
Làm Điên-Khùng cũng tự lẽ ni
Ai là đáng bực tu-mi,
Thương đời ta mới làm thi khuyên đời
Còn ẩn-nhẫn đợi thời đưa đến,
Nên phải làm kẻ mến người khinh,
Người hiền tâm trí thông-minh
Người hung cứ mãi chống kình với ta
Theo học cổ nôm-na ít tiếng,
Làm nhiều điều xao-xuyến nhơn tâm
Chữ nhu ta học âm-thầm,
Ai là người trí rán tầm cho ra
Để đến lúc phong-ba biến-chuyển,
Cảnh hồng-trần tợ biển mênh-mông
Mới là sợ chết ước-mong,
Mà không ai cứu bởi lòng ác-gian
Tiếng đờn hò líu cống-xang,
Đêm khuya khuyên-nhủ khắp tràng chúng-sanh
Chốn Phật-cảnh vắng tanh kẻ tới,
Ta ra đời nên mới đổi thay
Bởi vì lời lẽ thẳng ngay,
Cho nên chúng nó ghét bài phú thi
Thấy tăng-chúng sầu bi dạ mỗ,
Kệ khuyên trần nước đổ lá môn
Khắp cùng làng xóm hương thôn,
Vì khôn quá thế nên tồn lại ngu
Dạy đạo-đức người tu rạng lý,
Mong cho người hữu chí làm theo
Không làm thì ắt mang eo,
Làm xong vượt khổ qua đèo chông-gai
H.H. tháng 7 năm Kỷ-Mão
20. LUẬN VIỆC TU HÀNH

20. LUẬN VIỆC TU HÀNH (*)

(Diễn Giải)
Tu hành dương-thế cậy đồng tiền,
Phật-Giáo vì tiền phải ngửa-nghiêng
Bát-nhã chẳng đưa người tội ác,
Thuyền-từ nào rước lại Tây-Thiên
Trần-gian đầy-dẫy người làm dối,
Đạo cả nào trông đến cảnh thiền
Đoái thấy người đời lòng bắt chán,
Dương-trần lầm lạc đáng ưu-phiền
Muốn đặng về Thần với Thánh-Tiên,
Kỹ xem cõi thế thấy kia liền
Cư trần bất nhiễm là người Thánh,
Lẫn tục đừng mê chứng bực hiền
Phú quí tạo đời thêm mệt xác,
Tham danh phế đạo chí đâu yên
Sao bằng cửa Phật vui thanh-tịnh,
Lánh cõi trần mê giải nghiệp duyên
Tiếc vì không đức, tiếc chi tiền,
Phật Thánh xưa kia sách vẫn biên
Bác-ái xả thân tầm Đạo chánh,
Độ người lao khổ dạ không phiền
Mình vàng Thái-Tử ngôi còn bỏ,
Vóc ngọc Đông-cung tước phế liền
Xem đó hỡi người mau lập chí,
Tu hành khá nhớ giữ cho nguyên
Muốn đặng thành Thần với Phật Tiên,
Rán tu ân đức chớ tu tiền
Lợi danh chớp-nháng như luồng gió,
Thấy đó rồi đâu bỗng mất liền
Sớm thức tỉnh tâm tầm đạo chánh,
Sau nầy về Phật với ngôi Tiên
Lập thân giúp thế nên cộng-quả,
Muôn kiếp danh hiền sách vẫn biên
H.H. năm Kỷ-Mão
21. TAM HÙNG TRỔ MẶT

TAM HÙNG TRỔ MẶT

Tam hùng trổ mặt ngỏ chào đời,
Từ mẫu bé nhi cũng thảnh-thơi
Nam-Việt xuất thần ơn trên trước,
Đó là việc nước với việc trời
H.H. tháng 7 năm Kỷ-Mão

(Bài nầy viết trong khi người ta đồn bà Sáu ở núi Tượng sanh 3 người con: một mặt xanh, một mặt đỏ, một mặt trắng)
22. LỤY TAM CHÂU

LỤY TAM CHÂU

Tam châu hữu ngạn lụy nhỏ sa,
Thập bát chư bang động can qua
Dương-gian mãnh thú trừ tàn-ác,
Lê-thứ hậu lai khổ thiết-tha
Tần bang hậu hận tiên diêu-động,
Nam-quốc lương dân kiến linh-xa
Phồn hoa đô hội lưu giang huyết,
Dư đảng dọc ngang cấp ma-ha
Hòa-Hảo tháng 8 năm Kỷ-Mão
23. KHUYÊN BỚT CHO VAY

KHUYÊN BỚT CHO VAY

Giục thúc đạo đồng kiến thúy uyên,
Chư bang điềm tĩnh sĩ danh hiền
Sa-vi đông-hải tri thiều nhạc,
Nam-đỉnh ngọc đài lộ kỷ tiên
Đởm lực hà quê trung trực thử,
Hùng ca báo quốc nghĩa đào thiên
Sơn ly Phật-cảnh hồi Nam-Việt,
Diệt khổ sanh kỳ vị trưởng miên
BỬU-ngọc trường quan ẩn tích kỳ,
SƠN-đài lộ vẻ liễu huyền-vi
KỲ-thâm tá giả thi thành thủy,
HƯƠNG-vị âm thầm mộc túy vi
NĂM năm lục ngoạt cơ hàn thử,
NON lịch đài mây rạng tu mi
BẢY niên hòa địa nhơn hiền thủ,
NÚI ngự hoàng san tự Đỉnh-chi
Hòa bình thế-giái kiến Tiên-bang,
Ngô giả tùng nhung khí đởm gian
Hồ thiên tiểu ẩn quân tu ký,
Lương thứ dương-trần đạo dĩ an
Đào nguyên di khả tứ hồ-văn,
Khảo đảo tâm trung mãi vạn năng
Thì lai đãi ảnh chơn thiên xuất,
Vận thới thô trình trực bỉnh thăng
Hòa-Hảo, lối tháng 9 năm Kỷ-Mão
24. THẦY BA ĐẠO ở Hòa-Hảo hỏi thuốc: Đức Thầy đáp hoạ

THẦY BA ĐẠO ở Hòa-Hảo hỏi thuốc: Đức Thầy đáp hoạ

THẦY BA ĐẠO ở Hòa-Hảo hỏi thuốc:

Nghe tiếng ơn trên dốc cứu đời,
Dám xin khép nép ngỏ đôi lời
Nhơn dân sắp đến vương bịnh khổ,
Tiên dược phương nào được thảnh-thơi

ĐỨC THẦY đáp họa:

Mượn xác ra cơ dốc dẫn đời,
Bày tỏ cùng ai ngỏ mấy lời
Lục châu xao-xiến nhơn dân khổ,
Phật-Giáo khẩn cầu đặng thảnh-thơi

THẦY BA ĐẠO hỏi:

Thảnh-thơi dầu đặng phước tại trời,
Đau ốm qua rồi trẻ ăn chơi
Cho thuốc chỉ đường nhờ phương-phép,
Ngàn năm ơn đức nguyện y lời

ĐỨC THẦY đáp họa:

Thành tâm khẩn Phật với lạy Trời,
Muốn khỏi hội nầy trẻ ăn chơi
Lục tự trì tâm là phương-phép,
Nhắn nhủ cùng ai có mấy lời

THẦY BA ĐẠO hỏi:

Y lời dám hỏi lén một câu,
Tiên-Phật rộng xa rất nhiệm mầu
Đạo đời bốn chữ đây là gốc,
Tà chánh xin nhờ tiếng ngọc-châu

ĐỨC THẦY đáp:

Trả lời ý-kiến đó một câu,
Ẩn xác phàm phu chửa nhiệm-mầu
Đạo đời mầy chữ đây là gốc,
Tà chánh tâm trì rõ ngọc châu
Muốn đó gần đây giải mộng sầu,
Bốn chữ xuống phàm chớ ở đâu
Khuyến-khích cùng ai mau tỉnh ngộ,
Lai vãng gần ta rõ Đạo mầu
Văn-sĩ nhắn-nhen có mấy lời,
Đó muốn tỏ tình có mấy hơi
Ra ngõ lên xe chừng một lát, (1)
Sáng ngày tiếp kiến chuyện trò chơi
Hòa Hảo, năm Kỷ-Mão
_________________________________
(1).-Đức Thầy mời thầy ba Đạo sang chơi vì thầy ấy ở nhà và 3 bài thi gởi Đức Thầy là do một em học trò đem đến
25. BÁT NHẪN

BÁT NHẪN

Nhẫn năng xử thế thị nhơn hiền,
Nhẫn giái kỳ tâm thận thủ tiên
Nhẫn giả hương lân hòa ý hỉ,
Nhẫn hòa phu phụ thuận tình duyên
Nhẫn tâm nhựt nhựt thường an lạc,
Nhẫn tánh niên niên đắc bảo truyền
Nhẫn đức bình an tiêu vạn sự,
Nhẫn thành phú quới vĩnh miên miên
H.H. năm Kỷ-Mão
26. Cho Ông HƯƠNG-CHỦ BÓ ở Hòa-Hảo

Cho Ông HƯƠNG-CHỦ BÓ ở Hòa-Hảo

Tâm hành từ thiện vị an nhiên,
Phổ hóa hiền nhơn kiến Phật tiền
Huỳnh long lộ vĩ năng kỳ diệu,
Xuất thế điều đình chửa hiệu Tiên
Danh-Sơn khai bút dìu sanh-chúng,
Trung-Trực phò nguy đãi lịnh thiên
Tạo xác phù vân khai nhứt điểm,
Qui hồi tự lập diệt tiền khiên
Kỷ-Mão hạ san mượn xác trần,
Cảm tình đồng loại Lão khuyên dân
Thậm-thâm đây đó niềm liên ái,
Hợp-tác cùng nhau nối bút thần
Vi lộ thiên oai bảo giác dân,
Ngọc nam ẩn-sĩ dị-thường nhân
Sơn giang thủ lĩnh thừa tiên định,
Tứ hải hòa giai tất hữu phân
Muốn thấy người xưa phải vẹn mày,
Nam-nhân hữu chí kiến Bồng-lai
Nhìn xem hiệu Lão trong thơ ấy,
Tứ cú nho gia đã cạn bày
Hòa Hảo, lối tháng 9 năm Kỷ-Mão
27. SAY

27. SAY

Say mùi tục lụy vẫn lao-đao,
Say nỗi kẻ ngu rất hỗn-hào
Say thấm Đạo lành ban vạn vật,
Say đời chưa rõ chuyện vàng thau
Say ngọc bồ-đề đức hạnh cao,
Say dân ngu muội tưởng điên nào
Say chừng nó biết ta Tiên-trưởng,
Say chén quỳnh-tương chốn núi cao
Say thời vận bĩ vẫn còn xa,
Say chuyện trần gian lắm cáo-xà
Say lấy gậy thiền toan dẹp hết,
Say chờ Thiên-lịnh phán cho ta
Say Đạo huyền-vi nước tịnh-dương,
Say câu Bồ-Tát rưới cho thường
Say mê Tiên-cảnh ôi thanh-nhã,
Say việc trần-gian lắm họa-ương
Say-sưa chuyện cổ nhắc chừng đời,
Say nói với trần việc tả-tơi
Say biểu trì tâm đừng vội-vã,
Say buồn lũ chó sủa mùi dơi
Say của Thần-Tiên rứt cuộc đời,
Say câu diệu lý hỡi người ơi!
Say như Lưu-Khánh ai thèm chịu,
Say thể Trần-Đoàn mới thảnh thơi
Say mãi say hoài say vẫn say,
Say cho bá-tánh tập xong bài
Say như Nhơn-Quí thì mang họa,
Say của lão Khùng ách nạn bay
Say cho tiêu hết giống con buôn,
Say của Thánh-Nhơn xuất lập tuồng
Say tạo một nền qui vạn vật,
Say dìu trăm họ vượt mây truông. (1)
Hòa-Hảo, lối tháng 9 năm Kỷ-Mão
_________________________________
(1) Ông Nguyễn Thanh-Tân có họa tám bài thơ trên đây, nhưng xin miễn in vào tập này
28. Cho SUNG-BIỆN T. ở Hòa-Hảo

ho SUNG-BIỆN T. ở Hòa-Hảo

Quan trường nhiều lũ sói tà,
Miệng là mãnh hổ, ý là sài lang
Vinh-quang đâu có vinh-quang,
Tâm còn ích-kỷ, tánh còn hại dân,
Có thân chẳng liệu lấy thân,
Cười người điên dại sao gần Tiên-bang
Nực cười cho đứa võ-phu,
Đui mù chẳng sợ cứ mà gièm pha
Sau nầy sẽ biết mặt ta,
Tiên, Thần cũng chịu quỉ tà cũng cam
Dương-trần lắm nỗi đớn-đau,
Tu hành chẳng chịu, đạo mầu chẳng theo
Cứ lo ngửa mặt cười reo
Trước cười sau khóc, khóc rồi lại than
Than rằng: tà quỉ ác-gian,
Chẳng cho bá-tánh được toàn thây thi
Mấy năm trí óc còn ghi,
Lời Thầy để lại có thì sai không?
Hòa Hảo, tháng 7 năm Kỷ-Mão
29. HÃY CHỜ THIÊN ĐỊNH

HÃY CHỜ THIÊN ĐỊNH

BỬU châu công luyện chốn non thần,
SƠN thủy môn giang bảo giác dân
KỲ quái chờ nơi Thiên nhứt định,
HƯƠNG nồng dành thưởng kẻ tròn ân
Từ-bi hai chữ sắc nâu sồng,
Gắng chí dạy đời chẳng tiếc công
Vận bĩ xa chờ câu thạnh-thới,
Buồn ai châm-chích chữ cay nồng
Hòa Hảo, năm Kỷ-Mão
30. Thơ Của “Ông BÁN CHIẾU”

Thơ Của “Ông BÁN CHIẾU”

Đại-Thánh là Phật Thích-Ca,
Người còn khinh-báng huống ta phàm trần
Vàng thiệt lại nói vàng râm,
Lúc nầy vận thới đá mài cũng an
Cơn buồn phải gượng làm càn,
Cuộc đời rổn-rổn Phật mà phải kiêng
Trên đời ai tốt bằng sen,
Quan yêu dân chuộng rã bèn sạch trơn
Bề ngoài coi thể cây sơn,
Xét trong mối mọt ăn mà chẳng hay
Mặt tiền xem lại tốt thay,
Mặt hậu ngó kỹ lạnh tanh không ngờ,
Mau mau ta hãy bắt bờ,
Đặng cho bá-tánh leo bờ nầy qua
Có xạ nào phải bán xa,
Giấu trong chỗ kín cũng thơm đầy nhà
Nam-mô sáu chữ Di-Đà,
Từ-bi tế-độ vậy mà chúng-sanh
Xưa nay sáu chữ lạnh-tanh,
Kim-Sơn Phật ấy giáng sanh đành-rành
Ngưỡng cầu Thượng-Đẳng Đại Thần,
Phải ra trị nước bảo toàn lê dân
Ở nhà tụng niệm đều xinh,
Lục châu bát loạn nỡ nào ngó ngang
Bán lộ giang-hồ kính tặng Kim-Sơn Phật (1)
Năm Kỷ-Mão
___________________________________
(1) LỜI SOẠN GIẢ: Bài thơ nầy không phải của Đức Thầy, mà chính là của một Dị Nhơn (đang đi bán chiếu) viết và trao cho một người tín-đồ Hòa-Hảo tại Kiến-An (Chợ Mới, thuộc tỉnh Long Xuyên) đem đến cho Đức Thầy. Theo lời người tín-đồ nầy nói lại thì trong lúc giữa đường, ông bán chiếu không có đem sẵn viết mực theo; thế mà chẳng biết tại sao không đầy một phút, ông viết được một bức thơ tuồng chữ sắc-sảo, giống hình chữ nôm, mà không một nho sĩ nào đọc được. Liền đó, Đức Thầy đọc cho anh em có mặt trong lúc ấy nghe
31. KHAN TIẾNG

KHAN TIẾNG

Lúc nầy khan tiếng sự sầu riêng,
Mở giọng thi nhân gợi nỗi phiền
Hơi-hám xác trần ngâm chẳng nổi,
Mực tàu đã cạn ráo ngòi nghiên
Hòa-Hảo, cuối năm Kỷ-Mão
32. KHUYÊN BỚT CHO VAY

KHUYÊN BỚT CHO VAY

Một cuộc phù vân có mấy hơi,
Cầu xin bá-tánh nhậm đôi lời
Cho vay mắt-mỏ từ nay bớt,
Có hỏi nới tay để giúp đời
Nạn khổ đâu đâu đều túng rối,
Tai ương chốn chốn khắp cùng nơi
Tiền ma gạo quỉ đừng nên trữ,
Sau cũng tiêu theo luật của trời
H.H. năm Kỷ-Mão
33. CHẲNG RA HƠI

CHẲNG RA HƠI

(Ông Nguyễn-kỳ-Trân ao-ước Đức Thầy giảng-giải về Đạo-đức cho ông nghe, nhưng vì lúc đó có người của sở Mật-Thám đến dò xét nên Đức Thầy chỉ làm bài thi dưới đây):

Định-Yên cụ lão mới sang chơi,
Tâm bịnh bất an khó cạn lời
Ông chớ nãn lòng chờ lúc khác,
Bây giờ mở miệng chẳng ra hơi
Hòa-Hảo, cuối năm Kỷ-Mão
34. Ông NGUYỄN-KỲ-TRÂN, tức chín Diệm xướng – Đức Thầy Đáp

Ông NGUYỄN-KỲ-TRÂN, tức chín Diệm xướng – Đức Thầy Đáp

Ông NGUYỄN-KỲ-TRÂN tức chín Diệm xướng (1)

Ngàn dậm nghe ông có phép tiên,
Cúi xin lời hỏi chớ ưu phiền
Thanh manh đôi mắt đường không thấy,
Cầu có ơn dư cứu kẻ hiền
Kẻ hiền dầu đặng sáng như xưa,
Ơn ấy bằng non dạ có thừa
Lượng rộng xin ông đừng có chấp,
Ngàn vàng dám đổi một lời ừa

ĐỨC THẦY đáp:

Chí đại còn xa chửa phép tiên,
Bịnh tình cụ lão quá ưu phiền
Nhà tôi cũng có bà không thấy,
Thương thảm trời xanh phụ kẻ hiền
Kẻ hiền lòng dạ tưởng người xưa,
Tứ khổ cổ kim vẫn có thừa
Tríu-mến tâm thành đâu có chấp,
Vọng cầu hạnh phước đặng như xưa
Di-Đà lục tự ấy phương-châm,
Ghi dạ xin ông hoặc đứng nằm
Khẩn vái trì tâm người thượng-cổ,
May trời phò hộ phước cho thầm
Khuyên đó lòng son chớ vội buồn,
Hữu thành Phật độ ắt qua truông
Nhờ ơn Tiên, Thánh trăm muôn một,
Tôi cũng giùm cho đặng thấy tuồng.
Hòa-Hảo, cuối năm Kỷ-Mão

Ông Nguyễn-kỳ-Trân là người làng Định-Yên, thuộc tỉnh Long-Xuyên, hai mắt không thấy nên đến nhờ Đức Thầy chữa giùm
35. Tặng Ông GIÁO ĐÀNG

Tặng Ông GIÁO ĐÀNG

(Lúc ấy ông nầy đang dạy học tại làng Phú-Lâm, tỉnh Châu-Đốc)

Tâm tánh ngày nay muốn việc lành,
Tu hiền miệng lưỡi muốn lanh lanh
Tranh đua xác thịt vừa nghe chớ,
Cố chí ngày kia sẽ đạt thành
Đạt thành mới hiểu Đạo cao thanh,
Trần-thế lánh xa phải học rành
Lục căn trừ tuyệt tầm hai chữ,
Nhân ngã, sân si hãy dẹp đành
Hòa Hảo, cuối năm Kỷ-Mão
36. Hỏi HỘI LONG-HOA

Hỏi HỘI LONG-HOA

Long-Hoa hội ấy còn xa,
Rán mà tu niệm đặng nhờ thân sau
Phải chi hội ấy hầu gần,
Thì Ông hà tất xuống trần làm chi? (1)
H.H. cuối năm Kỷ-Mão
___________________________________
(1) Có một bà già 80 tuổi xin Đức Thầy cho biết coi bà có thể sống để coi hội Long-Hoa chăng? Đức Thầy bèn đáp lại bằng mấy câu trên đây.
37. Tặng Ông GIÁO XOÀI

Tặng Ông GIÁO XOÀI

(tức Soài, tức Mạnh-xuân-Quả, lúc ấy dạy học tại làng Phú-An, thuộc tỉnh Châu-Đốc)

Giáo tập hôm nay thấy mặt thầy,
Vóc hình mập-mạp học khoa tây
Sớm chiều luyện tập dìu em trẻ,
Ạ, ẹ, a, b đủ một bầy
Một bầy em trẻ muốn theo tây,
Văn pháp, văn nam cũng đủ đầy
Thương thảm tấm tình hay nóng-nảy,
Bởi vì chẳng rảnh đặng vui say
Hòa-Hảo, cuối năm Kỷ-Mão
38. THI XUÂN

THI XUÂN

Rước xuân năm mới tiếng đì-đùng,
Cờ phất trẻ mừng chúc cội thung
Áo quần lòe-loẹt đi cùng xóm,
Bánh trái dẫy-đầy nỗi cúc cung
Chúc mừng năm mới, mới buổi qua,
Bỏ bớt dị-đoan chẳng cúng gà
Tre nêu phơ-phất không còn thấy,
Ra mắt tiêu mòn bữa thứ ba
Kỷ-Mão năm nay đã hết rồi,
Tâm thần hoài tưởng chuyện xa-xôi
Đạo mầu Nam địa càng thâm-diệu,
Dẫn dắt nhơn-sanh cũng chửa rồi
Bước qua năm mới, mới mừng à,
Khuyến-khích dân tầm đạo Thích-Ca
Tự giác, giác tha ta phải nói,
Hỡi người dương-thế bớt xa-hoa
Xa-hoa năm mới, mới khổ à,
Dân chớ chần-chờ chớ bỏ qua
Đạo-lý xem tường âu mới hãn,
Rán tìm cặn-kẽ nỗi ma-ha
Năm Thìn bước tới thiệt là rồng,
Nanh gút vẫy-vùng nỗi long-đong
Chiến-tranh thảm-khốc toàn lê-thứ,
Lo nỗi đói đau giống Lạc-Hồng
Canh-Thìn bước tới hỡi dân ơi!
Thế-giới đao binh ruột rã-rời
Khốn nguy đa sự chào xuân mới,
Dân-chúng hoàn cầu khó thảnh-thơi
Phi phi bỗng xuất mặt Huỳnh-Long,
Dụng lối Bá-Nha réo Lạc-Hồng
Chạnh cám cha còn con chẳng biết,
Phải nhờ đạo-đức mới tường thông
Phần ta thương chúng luống âu sầu,
Dân sự nào tường nẻo cao sâu
Bôn Bắc tẩu Nam cam khổ rối,
Nhưng vì bổn-phận phải toan âu
Con người Nguơn-hạ mấy nhiêu hơi
Đạo-đức nhiệm mầu chẳng có chơi
Lê-la chậm bước đàng bụi gió,
Phải sớm lánh xa khỏi cuộc đời
Mãnh hổ đâu đua chí tang-bồng,
Rạng mày nở mặt với non sông
Quân-tử thánh-nhơn ghi Nhược-thủy,
Cơn buồn chấp bút chuyển huyền thông
Hòa-Hảo, ngày 28 tháng chạp Kỷ-Mão
(Chép theo bản chánh do ông Nguyễn-Chi-Diệp giữ)
39. CÁM CẢNH DÂN NGHÈO

CÁM CẢNH DÂN NGHÈO

Tết tết cùng năm tháng hết mà,
Thằng bần công nợ chạy bôn-ba
Hẹn mai hẹn mốt chờ khai hạ,
Con đòi áo tốt rối chàng ta
Năm nay ăn tết thật là nghèo,
Sanh-chúng u-buồn nỗi nạn eo
Đồng khô lúa ngập coi xơ-xác,
Cảnh đói buông lung nỗi giạt bèo
Nhắn-nhủ khắp nơi hỏi một bài,
Ba ngày xuân nhựt bởi nơi ai?
Rượu-trà, cờ-bạc, ôi phung-phí,
Chẳng biết lệ xưa của ai bày?
Tết rồi tết nữa, tết liền tay,
Năm cuối mỗi năm cũng tết hoài
Làm cho dân-sự vui nha-nhớp,
Chơi giỡn ba ngày rước xuân lai
Lòng ta cảm thấy nỗi u-buồn,
Suy xét việc đời lụy muốn tuôn
Chào xuân chẳng thấy xuân mừng nói,
Mê-mệt tâm can trí bắt cuồng
Hòa-Hảo, ngày 28 tháng chạp Kỷ-Mão
40. HAI MƯƠI CHÍN THÁNG CHẠP

HAI MƯƠI CHÍN THÁNG CHẠP

Bước tới hùng ca bước tới hoài,
Đạo đời hủy báng mặc tình ai
Cố chí nhiệm-mầu truyền diệu-pháp,
Bởi vì cốt-nhục cũng hoài thai
Diệu-vợi xa-xăm nỗi khổ hoài,
Cuộc đời lao-khổ thấy chiều mai
Chợt ngó xuân sang xuân biết khóc,
Đến thời Thiên định lối bi ai!
Giục-thúc nhơn-sanh kiếm Đạo mầu,
Sao còn hoài tưởng chuyện đâu đâu?
Sự sống người đời, ôi! thấy khổ,
Miệt-mài Đạo-đức vẻ huyền sâu
Hùng ca chuyển pháp kiếm tôi hiền,
Thiên-địa tuần huờn chẳng vị riêng
Gian nịnh phản thần, ôi! nhơ-nhuốc,
Gìn lòng trung hiếu sách ghi biên
Ghi biên những kẻ quá lương hiền,
Một mực trung thành với Phật-Tiên
Cố tưởng ước-mơ về Tiên cảnh,
Hiếu hạnh gìn lòng chí ư thiên
Ư thiên Trời Phật chẳng dụng tiền,
Tìm kiếm con lành giải nghiệp-duyên
Mê-muội ác-hung về địa-ngục,
Hiền lành nhắm mắt thấy non Tiên
Non Tiên ra sức tháo dây xiềng,
Dân-chúng an nhàn dạ mới yên
Cám cảnh thương đời, ôi! mê-muội,
Mong-ước ngày kia giải mộng phiền
Mộng phiền muốn khỏi phải làm sao?
Hung dữ, ác nhơn chớ bước vào
Gìn tâm nhu-nhược chờ vận đến,
Vậy mới rời xa cảnh máu đào
Máu đào khắp nước khổ vô cùng,
Nam-Việt dân tình mãi thung dung
Chẳng lo tu tỉnh cầu Phật Thánh,
Để nước đến chơn mới nhảy đùng
Nhảy đùng ắt phải lọt ngoài sâu,
Chẳng gặp xuồng ghe chững mới rầu
Làm sao lo liệu tu cho kịp,
Bập-bẹ nam-mô cũng nhọc cầu
Nhọc cầu bịnh tật nỗi nào đâu,
Lao-khổ nhơn-sanh cảnh nước Tàu
Trẻ nhỏ rã-rời xa bố mẹ,
Sao còn tranh-đoạt mảng mồi câu
Mồi câu danh-lợi chúng dân rầu,
Kim chỉ phải gìn chuyện cạn sâu
Vinh-hoa phú-quí chòm mây bạc,
Nho-nhã thi-văn nẻo nhiệm-mầu
Nhiệm-mầu hạnh-đức quá thanh-cao,
Thần, Thánh, Phật, Tiên xuống kêu gào
Dương-gian mau tỉnh trong tràng mộng,
Tầm kiếm nơi nào đạo siêu cao
Hòa thôn Hảo cảnh xứ chi ta,
Tạm dắt nhơn sanh khỏi ái hà
Tạo xác Huỳnh danh thanh sắc trẻ,
Chờ thời Thiên định thiết hùng ca
KIM ngọc nào tri Phật, Quỉ, Tà
SƠN đài ra sức dẹp loài ma
THƯỢNG thọ chúc cầu an bốn biển,
ĐẲNG đẳng dưới trên sớm thuận-hòa
Mong ước ngày kia đặng khải hoàn,
Địa cầu sanh-chúng được nhàn an
Bốn biển một nhà Cha: Phật, Thánh,
Thì là dân sự hết tàng ngang
Năm tàn tháng cuối cảnh buồn teo,
Đón rước bạn xuân lễ quá nghèo
Thượng cổ gần hồi nên sửa lối,
Theo nhà Phật-Giáo phải như keo
Dân-chúng chớ nên đốt giấy tiền,
Bởi vì Diêm-chúa chẳng tình riêng
Phán-quan tả hữu không dùng hối,
Nên phải dạy dân bỏ giấy tiền
Vàng bạc bởi tay khách trú làm,
Phật, Thần, Tiên, Thánh chẳng dùng ham
Giấy quần giấy áo không nên đốt,
Nghĩ chuyện dối ma chẳng đáng làm
Hòa-Hảo, ngày 29 tháng chạp năm Kỷ-Mão
(Chép theo bản chánh do Ông Nguyễn-Chi-Diệp giữ)
41. ĐÊM BA MƯƠI

ĐÊM BA MƯƠI

Đêm nay mới cũ hiệp hai đàng,
Xuân nhựt lễ nầy tại thế-gian
Mèo rồng cao thấp chơi cùng giỡn,
Đông hạ xuân sang khắp địa hoàng
Bóng trăng vắng mặt, tối tối hoài,
Hai giờ hiệp mặt, hai giờ hai.
Một đêm mới cũ cùng nhau gặp,
Tức cảnh thi văn nhả một bài
Một bài từ cũ mới ngày mai,
Tiếng pháo xa xa vẫn đốt hoài
Dân ta nghèo túng về Đạo-đức,
Chơi giỡn đua-bơi mãi tối ngày
Một lúc lâu lâu một tiếng đùng,
Đúng giờ cũng rước ông bà chung
Từ-bi hai chữ ta ngồi tưởng,
Không có xu mua đốt miệng hùn
Hòa-Hảo, đêm 30 tháng chạp Kỷ-Mão


HẾT NĂM KỶ MÃO 1939

DANH MỤC

  • Thi Văn Giáo Lý
  • Sấm Giảng



Đánh giá bài viết

4.98/32 rates

Print Friendly and PDF
1 nhận xét

1 nhận xét

Cảm ơn Đạo Hữu đã đóng góp. Chúc Đạo Hữu một ngày an lạc! A Di Đà Phật
  • Huyền Cương Cư Sĩ
    Huyền Cương Cư Sĩ
    31/8/21 9:28 CH
    Nam Mô A Di Đà Phật
    Trả Lời