1. Anh Phiệt Xướng
ANH PHIỆT XƯỚNG
ANH PHIỆT xướng: (1)
Non nước ngửa nghiêng vẫn ngủ ỳ ?
Ai
ôi tỉnh dậy, dậy rồi đi.
Đi lo sự nghiệp trai thời loạn,
Khỏi thẹn
người xưa lúc gặp thì.
ĐỨC THẦY họa:
Lặng-lẽ tính
toan đâu ngủ ỳ !
Chỉnh-tu binh mã để rồi đi.
Khi đi muông sói đều
tan-vỡ,
Rõ mặt hùng-anh tạo thế thì …
Miền Đông, mùa xuân năm 1947
________________________________
(1)- Bài nầy của anh mười Phiệt, thuộc nhóm Bình-Xuyên (làm đã từ lâu) đọc có
ý kích thích Đức Thầy trong khi Ngài đang nằm nghỉ trưa. Đức Thầy liền ứng
khẩu đáp họa liền làm cho anh em Bình-Xuyên vổ tay nhiệt liệt.
2. Tặng Anh Chiến Sĩ Bình Xuyên
TẶNG ANH CHIẾN SĨ BÌNH XUYÊN
Trước khét tiếng trong làng dao búa,
Lúc quân thù thống-trị nước non
Nam.
Khách giang-hồ tụ ngũ tùng tam,
Quyết khuất nước chọc trời cho
thỏa chí.
Dân-chúng trách đám người không biết nghĩ,
Cứ quanh năm
suốt tháng phá hương-thôn.
Vì an ninh giặc Pháp cử binh rồn,
Khi sa
lưới phải lao tù nơi hải đảo.
Rồi vượt biển bao nài cơn gió bão,
Về
quê nhà tánh cũ cứ nghinh-ngang.
Lúc hoàn-cầu tiếng súng nổ vang,
Bừng
tỉnh giấc bàng-hoàng suy nghĩ lại.
Từ thuở bé bao phen tang hải,
Khí
kiêu-hùng đem lại những chi đâu ?
Nhìn non sông đượm vẻ âu sầu,
Lòng
yêu nước bắt đầu tim sóng dậy.
Cờ độc-lập Bắc, Nam, Trung phe phảy,
Trước
gió chiều hãnh-diện với lân bang.
Bỗng phương Âu vô số bọn tham tàn,
Tàu,
bôm, súng đem sang non nước Việt.
Ách nô-lệ dân ta đà chán biết,
Nên
quyết lòng nổi dậy chống xâm-lăng.
Chỉ quân Tây thề một tiếng rằng:
Thà
cam chết, không làm dân bị trị.
Bọn cách-mạng giả danh đang rối trí,
Khu
Bình-Xuyên tiếng súng nổ vang tai.
Đoàn dũng binh tiếng đếm một hai …
Nhắm
hướng có quân thù xông lướt đến.
Đạp thành lũy cứu giống nòi yêu mến,
Làm
rơi đầu, đổ máu biết bao ngàn.
Tiếng anh-hùng nổi dậy khắp giang-san.
Thay
những tiếng bạo-tàn cơn thất chí.
Xông trận địa nêu gương trang
dũng-sĩ,
Tự hào rằng Nam-Việt kém chi ai.
Ngàn muôn năm ghi nhớ
khách anh-tài,
Trong sách sử tiếng Bình-Xuyên luôn chói rạng.
Miền Đông, ngày 10-1-1947
3. Tết Ở Chiến Khu
TẾT Ở CHIẾN KHU
Tặng bạn ngày xuân chén rượu nồng,
Uống rồi vùng-vẫy khắp Tây-Đông.
Đem
nguồn sống mới cho nhơn loại,
Để tiến, tiến lên cõi đại-đồng.
Rượu
xuân càng nhắp càng say,
Gió xuân càng thổi thì tài càng tăng.
Ngày
tết năm nay ở chiến-khu,
Bưng-biền gió lốc tiếng vi-vu.
Xa xa súng
nổ thay trừ-tịch,
Dân Việt còn mang nặng mối thù.
Mối thù nô-lệ trả
chưa xong,
Pháp-tặc còn trêu giống Lạc-Hồng.
Dùng thói dã-man mưu
thống-trị,
Thì ta quyết chiến dễ nào không!
Dễ nào không dám gắng
hy-sinh,
Giữ vững non sông đất nước mình.
Tự lập nghìn xưa gương
chói rạng,
Anh-hùng khởi xuất chốn dân-binh.
Dân-binh Nam-Việt mấy
ai bì?
Không súng tầm-vông cũng vác đi.
Xông lướt trận tiền ngăn
giặc mạnh,
Liều thân cứu nước lúc lâm nguy.
Nước lúc lâm nguy há
đứng nhìn,
Lòng mang Đại-Nghĩa dễ thân khinh.
Máu đào xương trắng
phơi đầy nội,
Quyết đổi tự-do mới thoả tình.
Thỏa tình được sống
dưới trời Đông,
Tổ phụ ngày xưa rất đẹp lòng.
Nhìn thấy cháu con
không thẹn mặt,
Từ đây non nước thoát nguy vong.
Bình-Hòa (Chợ lớn) ngày 2-1 Đinh-Hợi (1947)
4. Kỷ Niệm Rừng Chà Là
KỶ NIỆM RỪNG CHÀ LÀ
Rừng Chà-Là, rừng Chà-Là vạn tuế …!
Thành lũy ấy chông gai bao xiết
kể,
Muôn quân thù đâu dám dẫm chơn vô.
Đây là nơi tướng Việt thiết
mưu-mô,
Chờ cơ-hội quét tan loài xâm-lược.
Tranh độc-lập để bảo-tồn
non nước,
Biết bao lần chúng giặc phải cuồng-điên.
Vì đem quân cả
phá Bình-Xuyên,
Chạm trán với chiến binh hùng-dũng.
Một năm qua bền
gan không nao-núng,
Dù thảo-lương thiếu túng chịu gian-nan.
Nơi rừng
xanh chịu lắm cảnh cơ-hàn,
Mưa nắng táp gió sương dầu-dãi.
Nước
Nam-Việt ở ven bờ Nam-Hải,
Ngàn xưa từng chống lại họa xâm-lăng.
Bạch-Đằng
Giang công nghiệp ấy ai bằng,
Quân Việt ít đánh tan Mông-Cổ mạnh.
Nay
giặc Pháp buông lung kiêu-hãnh,
Ỷ lại vào tàu-chiến với phi-cơ.
Nơi
sa-trường chúng gặp cảnh bất ngờ,
Sức kháng-chiến ngàn xưa nay sống
dậy.
Nơi Hành-dinh gió vàng phe phảy,
Khách viễn-phương mượn lấy tờ
hoa.
Vài câu văn thô kịch gọi là,
Để kỷ-niệm chốn “Bình-Xuyên”
anh-dũng.
Hòa-Hảo tặng chiến-sĩ Liên-khu Bình-Xuyên (2-47).
5. Ông TRẦN-VĂN-SOÁI và Ông NGUYỄN-GIÁC-NGỘ
Ông TRẦN-VĂN-SOÁI và Ông NGUYỄN-GIÁC-NGỘ
Tôi vừa hội hiệp với ông Bửu-Vinh bỗng có sự biến-cố xảy ra, tôi và ông Vinh
suýt chết, chưa rõ nguyên-nhân còn điều-tra; trong mấy anh em phòng-vệ không
biết chết hay chạy đi, nếu có ai chạy về báo-cáo rằng tôi bị bắt hay mưu sát
thì các ông đừng náo động.
Cấm chỉ đồn đãi, cấm chỉ kéo quân đi
tiếp cứu, hãy đóng quân y tại chỗ.
Sáng ngày tôi sẽ cùng ông
Bửu-Vinh điều-tra kỹ-lưỡng rồi về sau.
Phải triệt-để tuân lịnh.
Ngày 16-4-47: 9 giờ 15 đêm
Ký tên: S.