G N T D . C O M

Loading...
Vui lòng chờ trong giây lát!

Kinh An Trú Tầm

kinh nikaya,kinh trung bộ,kinh an trú tầm

Trung Bộ Kinh
Majjhima Nikaya
20. Kinh An Trú Tầm
(Vtakkasanthàna sutta)

Mục Lục kinh Trung Bộ
TẬP I
(KINH SỐ 1 - 50)
1. Kinh Pháp môn căn bản 26. Kinh Thánh cầu
2. Kinh Tất cả lậu hoặc 27. Tiểu kinh Ví dụ dấu chân voi
3. Kinh thừa tự Pháp 28. Ðại kinh Ví dụ dấu chân voi
4. Kinh Sợ hãi và khiếp đảm 29. Ðại kinh Ví dụ lõi cây
5. Kinh Không uế nhiễm 30. Tiểu kinh Ví dụ lõi cây
6. Kinh Ước nguyện 31. Tiểu kinh Khu rừng sừng bò
7. Kinh Ví dụ tấm vải 32. Ðại kinh Khu rừng sừng bò
8. Kinh Ðoạn giảm 33. Ðại kinh Người chăn bò
9. Kinh Chánh tri kiến 34. Tiểu kinh Người chăn bò
10. Kinh Niệm xứ 35. Tiểu kinh Saccaka
11. Tiểu kinh Sư tử hống 36. Ðại kinh Saccaka
12. Ðại kinh Sư tử hống 37. Tiểu kinh Ðoạn tận ái
13. Ðại kinh Khổ uẩn 38. Ðại kinh Ðoạn tận ái
14. Tiểu kinh Khổ uẩn 39. Ðại kinh Xóm ngựa
15. Kinh Tư lượng 40. Tiểu kinh Xóm ngựa
16. Kinh Tâm hoang vu 41. Kinh Saleyyaka
17. Kinh Khu rừng 42. Kinh Veranjaka
18. Kinh Mật hoàn 43. Ðại kinh Phương quảng
19. Kinh Song tầm 44. Tiểu kinh Phương quảng
20. Kinh An trú tầm   45. Tiểu kinh Pháp hành
21. Kinh Ví dụ cái cưa 46. Ðại kinh Pháp hành
22. Kinh Ví dụ con rắn 47. Kinh Tư sát
23. Kinh Gò mối 48. Kinh Kosampiya
24. Kinh Trạm xe 49. Kinh Phạm thiên cầu thỉnh
25. Kinh Bẫy mồi 50. Kinh Hàng ma
TẬP II
(KINH SỐ 51 - 100)
51. Kinh Kandaraka 76. Kinh Sandaka
52. Kinh Bát thành 77. Ðại kinh Sakuludayi
53. Kinh Hữu học 78. Kinh Samanamandika
54. Kinh Potaliya 79. Tiểu kinh Sakuludayi
55. Kinh Jivaka 80. Kinh Vekhanassa
56. Kinh Ưu-ba-ly 81. Kinh Ghatikara
57. Kinh Hạnh con chó 82. Kinh Ratthapala
58. Kinh Vương tử Vô-úy 83. Kinh Makhadeva
59. Kinh Nhiều cảm thọ 84. Kinh Madhura
60. Kinh Không gì chuyển hướng 85. Kinh Vương tử Bồ-đề
61. Kinh Giáo giới La-hầu-la ở Am-bà-la 86. Kinh Angulimala
62. Ðại kinh Giáo giới La-hầu-la 87. Kinh Ái sanh
63. Tiểu kinh Malunkyaputta 88. Kinh Bahitika
64. Ðại kinh Malunkyaputta 89. Kinh Pháp trang nghiêm
65. Kinh Bhaddali 90. Kinh Kannakatthala
66. Kinh Ví dụ con chim cáy 91. Kinh Brahmayu
67. Kinh Catuma 92. Kinh Sela
68. Kinh Nalakapana 93. Kinh Assalayana
69. Kinh Gulissani 94. Kinh Ghotamukha
70. Kinh Kitagiri 95. Kinh Canki
71. Kinh Vacchagotta về tam minh 96. Kinh Esukari
72. Kinh Vacchagotta về lửa 97. Kinh Dhananjani
73. Ðại kinh Vacchagotta 98. Kinh Vasettha
74. Kinh Trường Trảo 99. Kinh Subha
75. Kinh Magandiya 100. Kinh Sangarava
TẬP III
(KINH SỐ 101 - 152)
101. Kinh Devadaha 127. Kinh A-na-luật
102. Kinh Năm và Ba 128. Kinh Tùy phiền não
103. Kinh Nghĩ như thế nào? 129. Kinh Hiền ngu
104. Kinh Làng Sama 130. Kinh Thiên sứ
105. Kinh Thiện tinh 131. Kinh Nhất dạ hiền giả
106. Kinh Bất động lợi ích 132. Kinh A-nan nhất dạ hiền giả
107. Kinh Ganaka Moggalana 133. Kinh Ðại Ca-chiên-diên nhất dạ hiền giả
108. Kinh Gopaka Moggalana 134. Kinh Lomasakangiya nhất dạ hiền giả
109. Ðại kinh Mãn nguyệt 135. Tiểu kinh Nghiệp phân biệt
110. Tiểu kinh Mãn nguyệt 136. Ðại kinh Nghiệp phân biệt
111. Kinh Bất đoạn 137. Kinh Phân biệt sáu xứ
112. Kinh Sáu thanh tịnh 138. Kinh Tổng thuyết và biệt thuyết
113. Kinh Chân nhân 139. Kinh Vô tránh phân biệt
114. Kinh Nên hành trì, không nên hành trì 140. Kinh Giới phân biệt
115. Kinh Ða giới 141. Kinh Phân biệt về sự thật
116. Kinh Thôn tiên 142. Kinh Phân biệt cúng dường
117. Ðại kinh Bốn mươi 143. Kinh Giáo giới Cấp Cô Ðộc
118. Kinh Nhập tức Xuất tức niệm 144. Kinh Giáo giới Channa
119. Kinh Thân hành niệm 145. Kinh Giáo giới Phú-lâu-na
120. Kinh Hành sanh 146. Kinh Giáo giới Nandaka
121. Kinh Tiểu không 147. Tiểu kinh giáo giới La-hầu-la
122. Kinh Ðại không 148. Kinh Sáu sáu
123. Kinh Hy hữu vị tằng hữu pháp 149. Ðại kinh Sáu xứ
124. Kinh Bạc-câu-la 150. Kinh Nói cho dân chúng Nagaravinda
125. Kinh Ðiều ngự địa 151. Kinh Khất thực thanh tịnh
126. Kinh Phù-di 152. Kinh Căn tu tập

Như vầy tôi nghe.

Một thời, Thế Tôn trú ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Tại đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Chư Tỷ-kheo". -- "Thưa vâng, bạch Thế Tôn", các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết giảng như sau:

-- Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo muốn thực tu tăng thượng tâm cần phải thường thường tác ý năm tướng. Thế nào là năm?

Ở đây, Tỷ-kheo y cứ tướng nào, tác ý tướng nào, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si sanh khởi, thời này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải tác ý một tướng khác liên hệ đến thiện, không phải tướng kia. Nhờ tác ý một tướng khác liên hệ đến thiện, không phải tướng kia, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh. Chư Tỷ-kheo, ví như một người thợ mộc thiện xảo hay đệ tử một người thợ mộc, dùng một cái nêm nhỏ đánh bật ra, đánh tung ra, đánh văng ra một cái nêm khác; chư Tỷ-kheo, cũng vậy, khi một Tỷ-kheo y cứ một tướng nào, tác ý một tướng nào, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si sanh khởi, thời này chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải tác ý một tướng khác liên hệ đến thiện, không phải tướng kia. Nhờ tác ý một tướng khác liên hệ đến thiện, khác với tướng kia, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.

Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy khi tác ý một tướng khác với tướng kia, liên hệ đến thiện, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si vẫn khởi lên, thời này chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải quán sát các nguy hiểm của những tầm ấy: "Ðây là những tầm bất thiện, đây là những tầm có tội, đây là những tầm có khổ báo". Nhờ quán sát các nguy hiểm của những tầm ấy, các bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh. Chư Tỷ-kheo, ví như một người đàn bà hay người đàn ông trẻ tuổi, trong tuổi thanh xuân, tánh ưa trang sức nếu một xác rắn, hay xác chó, hay xác người được quàng vào cổ, người ấy phải lo âu, xấu hổ, ghê tởm. Chư Tỷ-kheo, cũng vậy, nếu Tỷ-kheo ấy nhờ quán sát... nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.

Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy trong khi quán sát các nguy hiểm của những tầm ấy, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si vẫn khởi lên, thời này chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải không ức niệm, không tác ý những tầm ấy. Nhờ không ức niệm, không tác ý các tầm ấy, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh. Chư Tỷ-kheo, ví như một người có mắt, không muốn thấy các sắc pháp nằm trong tầm mắt của mình, người ấy nhắm mắt lại hay ngó qua một bên. Chư Tỷ-kheo, cũng vậy, nếu Tỷ-kheo ấy, trong khi không ức niệm, không tác ý... được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.

Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy trong khi không ức niệm, không tác ý các tầm ấy, các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si vẫn khởi lên. Chư Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ấy cần phải tác ý đến hành tướng các tầm và sự an trú các tầm ấy. Nhờ tác ý đến hành tướng các tầm và sự an trú các tầm ấy, các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục... được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh. Ví như một người đang đi mau, suy nghĩ: "Tại sao ta lại đi mau? Ta hãy đi chậm lại". Trong khi đi chậm, người ấy suy nghĩ: "Tại sao ta lại đi chậm? Ta hãy dừng lại". Trong khi dừng lại, người ấy suy nghĩ: "Tại sao Ta lại dừng lại? Ta hãy ngồi xuống". Trong khi ngồi, người ấy suy nghĩ: "Tại sao ta lại ngồi? Ta hãy nằm xuống". Chư Tỷ-kheo, như vậy người ấy bỏ dần các cử chỉ thô cứng nhất và làm theo các cử chỉ tế nhị nhất. Chư Tỷ-kheo, cũng vậy, nếu Tỷ-kheo ấy tác ý đến... (như trên)... được an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.

Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo ấy trong khi tác ý đến hành tướng các tầm và sự an trú các tầm, các ác, bất thiện tầm liên hệ... đến si vẫn khởi lên, thời chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy phải nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm. Nhờ nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục... liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong... được an trú, an tịnh nhất tâm, định tĩnh. Ví như một người lực sĩ nắm lấy đầu một người ốm yếu, hay nắm lấy vai, có thể chế ngự, nhiếp phục, và đánh bại. Chư Tỷ-kheo, cũng vậy, nếu Tỷ-kheo ấy trong khi tác ý hành tướng các tầm và sự an trú các tầm ấy, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si vẫn khởi lên, thời chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy phải nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm. Nhờ nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ trừ diệt chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.

Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo, trong khi y cứ tướng nào, tác ý tướng nào, các ác bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si sanh khởi. Tỷ-kheo ấy tác ý một tướng khác, liên hệ đến thiện, khác với tướng kia, các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được diệt trừ, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.

Tỷ-kheo ấy, nhờ quán sát sự nguy hiểm các tầm ấy, các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.

Tỷ-kheo ấy, nhờ không ức niệm, không tác ý các tầm ấy, các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.

Tỷ-kheo ấy tác ý hành tướng các tầm và an trú các tầm, các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.

Tỷ-kheo ấy nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm, các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.

Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là đã an trú trong đạo tầm pháp môn. Vị ấy có thể tác ý đến tầm nào vị ấy muốn, có thể không tác ý đến tầm nào vị ấy không muốn; vị ấy đã đoạn trừ khát ái, đã giải thoát các kiết sử, khéo chinh phục kiêu mạn, đã chấm dứt khổ đau.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt


Chân thành cám ơn anh HDC và nhóm Phật tử VH đã có thiện tâm gửi tặng ấn bản điện tử.
(Bình Anson hiệu đính, dựa theo bản Anh ngữ "The Middle Length Discourses of the Buddha", Tỳ kheo Nanamoli và Tỳ kheo Bodhi dịch, 1995).
Hiệu đính: 27-09-2003


Kinh An Trú Tầm

Đánh giá bài viết

4.98/32 rates

Post a Comment

Cảm ơn Đạo Hữu đã đóng góp. Chúc Đạo Hữu một ngày an lạc! A Di Đà Phật