G N T D . C O M

Loading...
Vui lòng chờ trong giây lát!

Kinh Tâm Hoang Vu

kinh nikaya, kinh trung bộ, kinh tâm hoang vu

Trung Bộ Kinh
Majjhima Nikaya
16. Kinh Tâm Hoang Vu
(Cetokhila sutta)

Mục Lục kinh Trung Bộ
TẬP I
(KINH SỐ 1 - 50)
1. Kinh Pháp môn căn bản 26. Kinh Thánh cầu
2. Kinh Tất cả lậu hoặc 27. Tiểu kinh Ví dụ dấu chân voi
3. Kinh thừa tự Pháp 28. Ðại kinh Ví dụ dấu chân voi
4. Kinh Sợ hãi và khiếp đảm 29. Ðại kinh Ví dụ lõi cây
5. Kinh Không uế nhiễm 30. Tiểu kinh Ví dụ lõi cây
6. Kinh Ước nguyện 31. Tiểu kinh Khu rừng sừng bò
7. Kinh Ví dụ tấm vải 32. Ðại kinh Khu rừng sừng bò
8. Kinh Ðoạn giảm 33. Ðại kinh Người chăn bò
9. Kinh Chánh tri kiến 34. Tiểu kinh Người chăn bò
10. Kinh Niệm xứ 35. Tiểu kinh Saccaka
11. Tiểu kinh Sư tử hống 36. Ðại kinh Saccaka
12. Ðại kinh Sư tử hống 37. Tiểu kinh Ðoạn tận ái
13. Ðại kinh Khổ uẩn 38. Ðại kinh Ðoạn tận ái
14. Tiểu kinh Khổ uẩn 39. Ðại kinh Xóm ngựa
15. Kinh Tư lượng 40. Tiểu kinh Xóm ngựa
16. Kinh Tâm Hoang Vu   41. Kinh Saleyyaka
17. Kinh Khu rừng 42. Kinh Veranjaka
18. Kinh Mật hoàn 43. Ðại kinh Phương quảng
19. Kinh Song tầm 44. Tiểu kinh Phương quảng
20. Kinh An trú tầm 45. Tiểu kinh Pháp hành
21. Kinh Ví dụ cái cưa 46. Ðại kinh Pháp hành
22. Kinh Ví dụ con rắn 47. Kinh Tư sát
23. Kinh Gò mối 48. Kinh Kosampiya
24. Kinh Trạm xe 49. Kinh Phạm thiên cầu thỉnh
25. Kinh Bẫy mồi 50. Kinh Hàng ma
TẬP II
(KINH SỐ 51 - 100)
51. Kinh Kandaraka 76. Kinh Sandaka
52. Kinh Bát thành 77. Ðại kinh Sakuludayi
53. Kinh Hữu học 78. Kinh Samanamandika
54. Kinh Potaliya 79. Tiểu kinh Sakuludayi
55. Kinh Jivaka 80. Kinh Vekhanassa
56. Kinh Ưu-ba-ly 81. Kinh Ghatikara
57. Kinh Hạnh con chó 82. Kinh Ratthapala
58. Kinh Vương tử Vô-úy 83. Kinh Makhadeva
59. Kinh Nhiều cảm thọ 84. Kinh Madhura
60. Kinh Không gì chuyển hướng 85. Kinh Vương tử Bồ-đề
61. Kinh Giáo giới La-hầu-la ở Am-bà-la 86. Kinh Angulimala
62. Ðại kinh Giáo giới La-hầu-la 87. Kinh Ái sanh
63. Tiểu kinh Malunkyaputta 88. Kinh Bahitika
64. Ðại kinh Malunkyaputta 89. Kinh Pháp trang nghiêm
65. Kinh Bhaddali 90. Kinh Kannakatthala
66. Kinh Ví dụ con chim cáy 91. Kinh Brahmayu
67. Kinh Catuma 92. Kinh Sela
68. Kinh Nalakapana 93. Kinh Assalayana
69. Kinh Gulissani 94. Kinh Ghotamukha
70. Kinh Kitagiri 95. Kinh Canki
71. Kinh Vacchagotta về tam minh 96. Kinh Esukari
72. Kinh Vacchagotta về lửa 97. Kinh Dhananjani
73. Ðại kinh Vacchagotta 98. Kinh Vasettha
74. Kinh Trường Trảo 99. Kinh Subha
75. Kinh Magandiya 100. Kinh Sangarava
TẬP III
(KINH SỐ 101 - 152)
101. Kinh Devadaha 127. Kinh A-na-luật
102. Kinh Năm và Ba 128. Kinh Tùy phiền não
103. Kinh Nghĩ như thế nào? 129. Kinh Hiền ngu
104. Kinh Làng Sama 130. Kinh Thiên sứ
105. Kinh Thiện tinh 131. Kinh Nhất dạ hiền giả
106. Kinh Bất động lợi ích 132. Kinh A-nan nhất dạ hiền giả
107. Kinh Ganaka Moggalana 133. Kinh Ðại Ca-chiên-diên nhất dạ hiền giả
108. Kinh Gopaka Moggalana 134. Kinh Lomasakangiya nhất dạ hiền giả
109. Ðại kinh Mãn nguyệt 135. Tiểu kinh Nghiệp phân biệt
110. Tiểu kinh Mãn nguyệt 136. Ðại kinh Nghiệp phân biệt
111. Kinh Bất đoạn 137. Kinh Phân biệt sáu xứ
112. Kinh Sáu thanh tịnh 138. Kinh Tổng thuyết và biệt thuyết
113. Kinh Chân nhân 139. Kinh Vô tránh phân biệt
114. Kinh Nên hành trì, không nên hành trì 140. Kinh Giới phân biệt
115. Kinh Ða giới 141. Kinh Phân biệt về sự thật
116. Kinh Thôn tiên 142. Kinh Phân biệt cúng dường
117. Ðại kinh Bốn mươi 143. Kinh Giáo giới Cấp Cô Ðộc
118. Kinh Nhập tức Xuất tức niệm 144. Kinh Giáo giới Channa
119. Kinh Thân hành niệm 145. Kinh Giáo giới Phú-lâu-na
120. Kinh Hành sanh 146. Kinh Giáo giới Nandaka
121. Kinh Tiểu không 147. Tiểu kinh giáo giới La-hầu-la
122. Kinh Ðại không 148. Kinh Sáu sáu
123. Kinh Hy hữu vị tằng hữu pháp 149. Ðại kinh Sáu xứ
124. Kinh Bạc-câu-la 150. Kinh Nói cho dân chúng Nagaravinda
125. Kinh Ðiều ngự địa 151. Kinh Khất thực thanh tịnh
126. Kinh Phù-di 152. Kinh Căn tu tập
Như vầy tôi nghe.

Một thời, Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: "Này chư Tỷ-kheo". --"Thưa vâng, bạch Thế Tôn", các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn thuyết giảng như sau:

-- Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào chưa diệt trừ năm tâm hoang vu, chưa đoạn tận năm tâm triền phược, vị ấy có thể lớn mạnh, trưởng thành, hưng thịnh trong Pháp và Luật này, sự kiện này không xảy ra.

Thế nào là năm tâm hoang vu chưa được đoạn trừ? Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo nghi ngờ bậc Ðạo Sư, do dự, không quyết đoán, không có tịnh tín. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào nghi ngờ bậc Ðạo Sư, do dự, không quyết đoán, không có tịnh tín, thời tâm vị này không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ nhất chưa được diệt trừ.

Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào nghi ngờ Pháp, do dự, không quyết đoán, không có tịnh tín... (như trên)... Nếu tâm của ai không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ hai chưa được diệt trừ.

Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào nghi ngờ Tăng, do dự, không quyết đoán, không có tịnh tín... (như trên)... Nếu tâm của ai không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ ba chưa được diệt trừ.

Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào nghi ngờ các học pháp, do dự, không quyết đoán, không có tịnh tín...   (như trên)... Nếu tâm của ai không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì; tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ tư chưa được diệt trừ.

Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo phẫn nộ đối với các đồng phạm hạnh, không có hoan hỷ, tâm tư chống đối, cứng rắn. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào phẫn nộ đối với các vị đồng phạm hạnh, không có hoan hỷ, tâm tư chống đối, cứng rắn, thời tâm của vị này không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ năm chưa được diệt trừ.

Như vậy là năm tâm hoang vu chưa được diệt trừ.

Thế nào là năm tâm triền phược chưa được đoạn tận? Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo, đối với những dục, không phải không tham ái, không phải không dục cầu, không phải không ái luyến, không phải không khao khát, không phải không nhiệt tình, không phải không khát ái. Chư Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo nào đối với những dục, không phải không tham ái... không phải không khát ái, tâm của vị ấy không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai không hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm triền phược thứ nhất chưa được đoạn tận.

Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đối với tự thân không phải không tham ái... (như trên)... như vậy là tâm triền phược thứ hai chưa được đoạn tận.

Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đối với các sắc pháp không phải không tham ái ... (như trên)... như vậy là tâm triền phược thứ ba chưa được đoạn tận.

Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào ăn cho đến thỏa thê, cho đến bụng chứa đầy, sống thiên nặng về khoái lạc về sàng tọa, khoái lạc về ngủ nghỉ, khoái lạc về thụy miên. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào ăn cho đến thỏa thê cho đến bụng chứa đầy... (như trên)... như vậy là tâm triền phược thứ tư chưa được đoạn tận.

Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào sống phạm hạnh với mong cầu được sanh thiên giới với ý nghĩ: "Ta với giới này, với hạnh này, với khổ hạnh này hay với phạm hạnh này sẽ được sanh làm chư Thiên này hay chư Thiên khác". Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào sống phạm hạnh... (như trên)... như vậy là tâm triền phược thứ năm chưa được đoạn tận.

Như vậy là năm tâm triền phược chưa được đoạn tận.

Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào chưa diệt trừ năm tâm hoang vu này, chưa đoạn tận năm tâm triền phược này, vị ấy có thể lớn mạnh trưởng thành, hưng thịnh trong Pháp và Luật này, sự kiện này không xảy ra.

Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đã diệt trừ năm tâm hoang vu, đã đoạn tận năm tâm triền phược, vị ấy có thể lớn mạnh, trưởng thành, hưng thịnh trong Pháp và Luật này, sự kiện này có xảy ra.

Thế nào là năm tâm hoang vu đã được diệt trừ? Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo không nghi ngờ bậc Ðạo Sư, không do dự, quyết đoán, tịnh tín. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không nghi ngờ bậc Ðạo Sư, không do dự, quyết đoán, tịnh tín, thời tâm vị này hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ nhất đã được diệt trừ.

Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không nghi ngờ Pháp, không do dự, quyết đoán, tịnh tín... (như trên)... Nếu tâm của ai hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ hai đã được diệt trừ.

Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không nghi ngờ Tăng, không do dự, quyết đoán, tịnh tín... (như trên)... Nếu tâm của ai hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ ba đã được diệt trừ.

Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không nghi ngờ học pháp, không do dự, quyết đoán, tịnh tín, thời tâm vị này hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ tư đã được diệt trừ.

Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không phẫn nộ đối với các vị đồng phạm hạnh, hoan hỷ, tâm tư không chống đối, cứng rắn. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không phẫn nộ đối với các vị đồng phạm hạnh, hoan hỷ, tâm tư không chống đối, cứng rắn, thời tâm vị này hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai hướng về nỗ lực, chuyên cần kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm hoang vu thứ năm đã được diệt trừ.

Như vậy là năm tâm hoang vu đã được diệt trừ.

Thế nào là năm tâm triền phược đã được đoạn tận?

Chư Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo đối với những dục không có tham ái, không có dục cầu, không có ái luyến, không có khao khát, không có nhiệt tình, không có khát ái. Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đối với những dục không có tham ái, không có dục cầu, không có ái luyến, không có khao khát, không có nhiệt tình, không có khát ái, tâm vị ấy hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm triền phược thứ nhất đã được đoạn tận.

Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đối với tự thân không có tham ái... (như trên)... như vậy là tâm triền phược thứ hai đã được đoạn tận.

Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đối với các sắc pháp không có tham ái... (như trên)... như vậy là tâm triền phược thứ ba đã được đoạn tận.

Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào không ăn cho đến thỏa thê, cho đến bụng chứa đầy, sống không thiên nặng về khoái lạc sàng tọa, khoái lạc về ngủ nghĩ, khoái lạc về thụy miên... (như trên)... như vậy là tâm triền phược thứ tư đã được đoạn tận.

Và lại nữa, chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào sống phạm hạnh, không mong cầu được sanh thiên giới với ý nghĩ: "Ta với giới này, với hạnh này, với khổ hạnh này, hay với phạm hạnh này, sẽ được sanh làm chư Thiên này hay chư Thiên khác". Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào sống phạm hạnh, không mong cầu được sanh thiên giới với ý nghĩ: "Ta với giới này, với hạnh này, với khổ hạnh này, hay với phạm hạnh này, sẽ được sanh làm chư Thiên này hay chư Thiên khác", tâm vị ấy hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn. Nếu tâm của ai hướng về nỗ lực, chuyên cần, kiên trì, tinh tấn, như vậy là tâm triền phược thứ năm đã được đoạn tận.

Như vậy là năm tâm triền phược đã được đoạn tận.

Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đã đoạn tận năm tâm triền phược này, thời vị ấy có thể lớn mạnh, trưởng thành, hưng thịnh trong Pháp và Luật này, sự kiện này có xảy ra.

Vị này tu tập như ý túc câu hữu với dục Thiền định, tinh cần hành; tu tập như ý túc câu hữu với tinh tấn Thiền định, tinh cần hành; tu tập như ý túc câu hữu với tâm Thiền định, tinh cần hành; tu tập như ý túc câu hữu với tư duy Thiền định, tinh cần hành; với nỗ lực là thứ năm.

Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào đầy đủ mười lăm pháp kể cả nỗ lực, thời có đủ khả năng để phá vỡ, có đủ khả năng để chánh giác, có đủ khả năng để đạt thành vô thượng an ổn khỏi các ách phược.

Chư Tỷ-kheo, như có khoảng tám, mười hay mười hai cái trứng của con gà mái, những trứng này được con gà mái khéo ấp, ngồi lên trên, khéo ấp nóng, khéo ấp dưỡng, thời dầu cho con gà mái không khởi lên sự mong ước: "Mong rằng những con gà con của ta, sau khi đâm thủng vỏ trứng với móng chân nhọn của chúng, hay với mỏ của chúng, có thể thoát ra một cách yên ổn", những con gà con ấy, sau khi đâm thủng vỏ trứng với móng chân nhọn của chúng hay với mỏ của chúng, có khả năng thoát ra một cách yên ổn. Chư Tỷ-kheo, cũng vậy, Tỷ-kheo đầy đủ mười lăm pháp, kể cả nỗ lực, thời có đủ khả năng để phá vỡ, có đủ khả năng để chánh giác, có đủ khả năng để đạt thành vô thượng an ổn khỏi các ách phược.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.

Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt


Chân thành cám ơn anh HDC và nhóm Phật tử VH đã có thiện tâm gửi tặng ấn bản điện tử.
(Bình Anson hiệu đính, dựa theo bản Anh ngữ "The Middle Length Discourses of the Buddha", Tỳ kheo Nanamoli và Tỳ kheo Bodhi dịch, 1995).
Hiệu đính: 10-06-2004


Kinh Tâm Hoang Vu

Đánh giá bài viết

4.98/32 rates

Post a Comment

Cảm ơn Đạo Hữu đã đóng góp. Chúc Đạo Hữu một ngày an lạc! A Di Đà Phật