Sấm Giảng Quyển Năm - GIÁC NGỘ TÙY DUYÊN
LGWfrYbsCGvENWA8TkfRMZ7fj7Z9WPOVhLeg8glK
Bookmark

Sấm Giảng Quyển Năm

QUYỂN NĂM
KHUYẾN THIỆN





Lời khuyến thiện của Ông “Vô Danh Cư Sĩ”
Đây là quyển thứ năm mà Đức Thầy đã viết năm 1941 tại Chợ Quán (776 Câu).


Băng tâm ngẫu hứng thừa nhàn,
Theo đòi nghiên-bút luận bàn tục, Tiên.
Ta là cư-sĩ canh điền,
Lo nghề cày cuốc cũng chuyên tu hành.
Xa nơi tranh-đấu lợi-danh,
Giữ lòng thanh-tịnh tánh lành trau-tria.
Gắng công trì niệm sớm khuya,
Thân tuy còn tục tâm lìa cõi mê.
Chí toan gieo giống Bồ-Đề,
10. Kiếm người lương thiện dắt về Tây-phang.
Dạy khuyên những kẻ ngỗ-ngang,
Biết câu Lục-tự gìn đàng Tứ-ân.
Ở trần xử trọn nghĩa-nhân,
Quyết làm tôi Phật gởi thân Liên-Đài.
Cầu cho mối Đạo hoằng-khai,
Cầu cho trăm họ Bồng-Lai được gần.
Sớm về cõi Phật an-thân,
Kẻo kiếp phong-trần dày gió dạn sương.
Phật-đài phưởng-phất mùi hương,
20. Cúi đầu đảnh lễ cậy nương đức mầu.
Từ-bi oai-lực nhiệm sâu,
Độ con thoát chốn ưu-sầu trần-ai.
Nam-mô Thích-Ca Như-Lai,
Ta-Bà Giáo-Chủ xin Ngài chứng-minh.
Dưới đây lược tả sách kinh,
Cho trong nam nữ hữu tình thì coi.
Lời lành của Phật truyền roi,
28. Đọc qua suy nghiệm xét soi chánh tà.

THI

Tiếng kệ từ-bi quá diệu-trầm,
Diệt lòng tham vọng diệt thinh-âm.
Trần-gian say-đắm theo màu-sắc,
Tịnh-độ giác-thuyền trị dục-tâm.
Phải rõ nghiệp-duyên trần cấu tạo,
Nghe rành chánh-pháp thoát tà-dâm.
Phù-sanh nhược mộng đời lao khổ,
Tỉnh trí tu thân khỏi lạc lầm.

*
* *
Hào-quang chư Phật rọi mười phương,
Đạo pháp xem qua chớ gọi thường.
Chuyên-chú nghĩ suy từ nét dấu,
Cố công gìn giữ tánh thuần-lương.


KỆ

Lòng quảng ái xót thương nhân chủng,
30. Buổi lố-lăng Phật-Giáo suy đồi.
Kẻ tu hành ai nỡ yên ngồi,
Mà sớm kệ chiều kinh thong thả.
Mình đã gặp con thuyền Bát-Nhã,
Có lý nào ích-kỷ tu thân?
Phật-Tổ xưa còn ở nơi trần,
Ngài gắng sức ra công hoằng-hóa.
Nền Đại-Đạo lưu thông khắp cả,
Bực tiên hiền đều trọng Phật-gia.
Rèn dân bằng giáo-thuyết bình-hòa,
40. Giống bác-ái gieo sâu vô tận.
Sau nhằm buổi phong-trào tân-tấn,
Đua chen theo vật-chất văn-minh.
Nên ít người khảo xét kệ-kinh,
Được dắt chúng hữu-tình thoát khổ.
Thêm còn bị lắm phen dông-tố,
Lời tà-sư ngoại-đạo gieo vào.
Cho nhơn-sanh trong dạ núng-nao,
Chẳng gìn chặt gương xưa mạnh mẽ.
Dùng thế-lực dùng nhiều mánh-khoé,
50. Cám-dỗ người đặng có khiến sai.
Chúng nằm không hưởng của hoạnh tài,
Để khốn-khổ mặc ai trối kệ.
Mắt thấy rõ những điều tồi-tệ,
Tai thường nghe lắm giọng ru người.
Thêm thời này thế kỷ hai mươi,
Cố xô sệp thần (thánh) quyền cho hết.
Người nhẹ dạ nghe qua mê-mết,
Rằng: nên dùng sức mạnh cạnh-tranh.
Được lợi-quyền lại được vang danh,
60. Bài-xích kẻ tu hành tác phước.
Làn sóng ấy nhiều người đón rước,
Dục dân tâm sôi-nổi tràn-trề.
Cổ tục nhà phỉ-báng khinh-chê,
Cho tôn-giáo là mùi thuốc phiện.
Ai nếm vào ắt là phải nghiện,
Chẳng còn lo trang võ đấu chinh.
Lấy sắc-thân dẹp nỗi bất-bình,
Bỏ đức-tính của câu nhơn-quả.
Dầu ai có bền gan sắt-đá,
70. Cũng động lòng trước cảnh ngửa-nghiêng.
Đạo diệu-mầu gặp lúc truân-chuyên,
Phận môn đệ phải lo vun quén.
Tằm sức nhỏ còn làm nên kén,
Người không lo có thẹn hay chăng ?
Cả tiếng kêu cùng khắp chư tăng,
Với tín-nữ thiện-nam Phật-Giáo.
Nên cố-gắng trau thân gìn Đạo,
Hiệp cùng nhau truyền-bá kinh lành.
Làm cho đời hiểu rõ thinh-danh,
80. Công-đức Phật từ-bi vô lượng.
Đồng dẹp bớt âm-thinh sắc-tướng,
Lo chấn-hưng Phật-Pháp mới là.
Nói cho đời hiểu Phật Thích-Ca,
Lòng tự giác xả thân tầm Đạo.
Ta cũng chẳng hoàn-toàn thông-thạo,
Nhưng phân cùng bổn-đạo xa gần.
Có một điều già trẻ ân-cần,
Là phải biết nguyên-nhân Phật-Giáo.
Hồi thế-kỷ khoảng trong thứ sáu,
90. Trước kỷ-nguyên tây-lịch thời xưa.
Pháp Giáo chưa biệt-lập tam thừa,
Thuở Trung-Quốc nhà Châu Chiêu-Đế.
Bên Ấn-Độ thành Ca-Tỳ-La-Vệ,
Có đức vua Tịnh-Phạn nhơn từ.
Khắp thần dân lạc nghiệp an-cư,
Trên chúa thẳng tôi ngay phò tá.
Đức Hoàng-Hậu Ma-Da phong-nhã,
Sắc đẹp dường ngọc thốt hoa cười.
Một hôm kia vẻ mặt vui tươi,
100. Đến trước bệ tâu cùng thánh thượng.
Rằng: Thần thiếp nhờ ơn chung hưởng,
Của hoàng-gia cũng được vinh-quang.
Kể từ nay thiếp muốn an nhàn,
Dưỡng tâm-trí lần xa thế trược.
Chẳng phiền kẻ hầu sau đón trước,
Chỉ trừ người ý hiệp tâm đầu.
Xin một điều ở chốn long lâu,
Tập đức tánh khoan-dung đại độ.
Tránh tất cả những điều thô-lỗ,
110. Chẳng ưa gần kẻ bạo ngang-tàng.
Thiếp cúi đầu ngưỡng vọng Thiên-nhan,
Phê cho thiếp những điều xin ấy.
Vua nghe xong vội-vàng đứng dậy,
Bèn chuẩn y tỏ ý vừa lòng.
Bà tâu thêm ở trước đền rồng,
Xin Thánh-thượng bao-dung kẻ khó.
Lòng yêu dân ví như con đỏ,
Tội giảm tha, đói giúp cơm tiền.
Cứu dân nghèo trong lúc đảo điên,
120. Lấy đức rộng bủa trong bá-tánh.
Vua hứa chịu giúp người đói lạnh,
Bà lui về cung điện nghỉ-ngơi.
Đêm trăng thanh gió mát thảnh-thơi,
Tiết hòa-thuận khắp nơi hoa nở.
Đức Hoàng-hậu trong lòng hớn-hở,
Giấc chiêm-bao Bà thấy lạ-lùng.
Bạch-tượng từ ở chốn không trung,
Bỗng sa xuống mình Bà hối-hả.
Vừa tỉnh giấc mơ tiên mới lạ,
130. Khắp phòng huê thơm nức mùi hương.
Bà rảo chơn bèn bước ra vườn,
Truyền thị-vệ thỉnh vua lai đáo.
Vua y lời đến nơi hoa thảo,
Lại gần Bà sao rất quái-kỳ.
Tay chơn bèn run-rẩy một khi,
Muốn quì xuống mắt dường tăm-tối.
Tiếng Thần Tiên trên không ca trổi,
Rằng ta mừng vua hữu thiện căn.
Sắp có con thế giới chẳng bằng,
140. Sau người ấy lập nên Đạo cả.
Vua nghe xong cúi đầu bái tạ,
Liền phán cùng Hoàng-hậu Ma-Da.
Có việc chi vội-vã dời ta,
Khá nói lại đầu đuôi tường tất.
Bà thuật rõ chiêm bao trong giấc,
Xin vua vời ít kẻ bàn giùm.
Các thầy bàn được lịnh vào cung,
Nghe xong-xả tâu rằng điềm quí.
Ngày thắm-thoát đông qua hạ chí,
150. Bà trổ sanh Thái tử đẹp tươi.
Mặt trang-nghiêm khí-phách hơn người,
Vua cùng khắp thần dân mừng rỡ.
Họ Thích-Ca từ đây cũng ngỡ,
Sẽ có người nối nghiệp hoàng-gia.
Liền đặt tên là Sĩ-Đạt-Ta,
Cả triều chính treo hoa yến ẩm.
Có nhà sư cách thành mấy dặm,
Thường ở ăn trong sạch hiền-từ.
Lòng thẳng ngay chẳng có vị tư,
160. Đời thanh tịnh gìn theo Đạo-lý.
Ông lại được Thần Tiên dẫn chỉ,
Hiểu thiên-cơ thấu mối diệu-huyền.
Ông là người Bà-la-môn tiên,
A-Tư-Đà tiên hiền tên lão.
Thời buổi ấy vua ưa người Đạo,
Bèn vào chầu tâu trước bệ rồng.
Xin vua cho ông bước vào trong,
Được yết-kiến tử-hoàng luôn thể.
Ông xem xong bỗng liền sa lệ,
170. Vẻ mặt buồn chẳng thốt ra lời.
Thấy lạ-lùng vua bước đến nơi,
Liền phán hỏi bảo ông phân rõ.
Trước cung-điện ông liền bày tỏ,
Rằng tử-hoàng chừng được thành nhơn.
Lìa đền-đài khổ-cực chẳng sờn,
Tìm Đạo-lý dắt-dìu sanh-chúng.
Ngài sẽ được thế-gian ca tụng,
Chắc phần Ngài quả Phật vẹn tròn.
Buồn vì tôi tuổi lớn sức mòn,
180. Chẳng sống đặng nghe lời Phật thuyết.
Cả hồng-trần đau-thương thống-thiết,
Nhờ Ngài mà diệt nẻo luân-hồi.
Vô phước nên tủi bấy phận tôi,
Chớ chẳng có điều chi lo ngại.
Đức Hoàng-hậu đến ngày thứ bảy,
Dứt nợ trần nên vội qui tiên.
Có bà dì thay thế mẹ hiền,
Giùm săn-sóc trông-nom Thái-tử.
Khi lớn lên cho người dạy chữ,
190. Lúc vào trường chẳng học mà thông.
Buổi trưởng thành vua vẫn hằng mong,
Cho Thái-tử đừng lìa cung-điện.
Hội triều-đình các quan lựa tuyển,
Nàng Du-Gia được chọn kết hôn.
Vua nghĩ rằng muốn tâm yên-ổn,
Chọn cung-phi mỹ-nữ làm trò.
Cất đền-đài lộng-lẫy đẹp to,
Ngày ca múa đêm bày lơi-lả.
Lòng Thái-tử cũng không xiêu-ngả,
200. Ra khỏi đền du ngoạn một khi.
Buổi đầu tiên gặp những chuyện gì,
Gặp cụ lão tay nương gậy chống.
Ngài xem qua lòng bèn cảm-động,
Lần thứ hai thấy kẻ ốm đau.
Xét cõi trần trong dạ héo xào,
Chi xiết nỗi núng-nao cõi tạm.
Lần thứ ba xe lìa khỏi trạm,
Được trông nhìn kẻ chết đang khiêng.
Về đền-đài cảm xúc buồn riêng,
210. Hằng để trí tầm phương giải-thoát.
Lần thứ tư vừa đi dạo mát,
Bỗng gặp người tốt đẹp trang-nghiêm.
Nào dè đâu Trời đã ứng điềm,
Giả tăng-sĩ gợi lòng Thái-tử.
Ngài hiểu rõ ấy là phận-sự,
Phải xuất gia tầm Đạo mau mau.
Liền quày xe trở lại lai trào,
Xin Vương-phụ lánh xa mùi thế.
Vua buồn thảm dùng lời khóc kể,
220. Rằng: Cha già biết cậy nhờ ai.
Khuyên con nên ở chốn điện-đài,
Lo nối nghiệp sau tu chẳng muộn.
Lòng Thái-tử quyết theo ý muốn,
Thừa đêm khuya lén trốn vào rừng.
Lìa cha già, vợ đẹp, con cưng,
Thân chẳng sá xông-pha bờ bụi.
Ngài thuở ấy nên mười chín tuổi,
Tâm đại-hùng cương-quyết tu-trì.
Trải bao phen lao-khổ xiết chi,
230. Sau Ngài đến Rạch-Ni Liên-Thuyền.
Thấy cỏ hoa cảnh bắt tham-thiền,
Ngồi khổ-hạnh sáu năm bên ấy.
Đạo gần đắc Ma-Vương theo khuấy,
Dùng thần-thông nghị-lực dẹp tan.
Ấy mới vừa đắc Đạo hoàn-toàn,
Và lần bước phô-trương độ chúng.
Ngài bèn xét ở trong Phật chủng,
Các chúng-sanh đều có như Ta.
Bị vô-minh vọng-tưởng vạy-tà,
240. Nên quay lộn Ta-bà cõi khổ.
Lòng thương chúng thuyết-phương Tịnh-độ,
Đặng dắt-dìu tất cả chúng-sanh.
Nếu như ai cố chí làm lành,
Chuyên niệm Phật cầu sanh Phật-Quốc.
Cả vũ-trụ khắp cùng vạn-vật,
Dầu Tiên, Phàm, Ma, Quỉ, Súc-sanh.
Cứ nhứt tâm tín, nguyện, phụng-hành,
Được cứu-cánh về nơi an-dưỡng.
Chỉ một kiếp Tây-phương hồi hướng,
250. Thoát mê-đồ dứt cuộc luân-hồi.
Xét cõi trần sống khổ giạt-trôi,
Vô lượng thứ ở trong thế-giới.
Lời Phật thuyết ta xin nhắc lại,
Ta-bà khổ, Ta-bà lắm khổ.
Có bao người xét cho tột chỗ,
Tịnh-độ vui, Tịnh-độ nhàn vui.
Cảnh thanh-minh sen báu nặc mùi,
Nào ai rõ cái vui triệt đáo.
Vì phần Ta rất yêu-mến Đạo,
260. Chẳng nệ chi trí siển tài sơ.
Lấy lời xưa kết lại ít tờ,
Cho thiện-tín rỗi nhàn xem-xét.
Dứt mê tâm dứt điều hờn ghét,
Rán cần chuyên niệm Phật làm lành.
Thường trau-giồi chí-hướng cao-thanh,
Cho khỏi thẹn con lành Phật-Giáo.
Đức Thích-Ca từ xưa dạy bảo :
Khổ Ta-bà nhiếp lại tám phần.
Bởi chúng-sanh mang lấy xác thân,
270. Khổ thứ nhứt sự Sanh là gốc.
Vào bụng mẹ chung quanh bao-bọc,
Có khác nào ở chốn ngục tù.
Buổi mẹ đau huyết kiệt hình thu,
Lúc mẹ đói dường treo lỏng-bỏng.
Ta kể sơ những điều bi-thống,
Mẹ no cơm chật-chội khó-khăn.
Khi ra đời đau-đớn vô ngằn,
Cất tiếng khóc nếm mùi dương-thế.
Đoạn Lão khổ thứ nhì xin kể,
280. Từ trẻ thơ đến tuổi thành nhân.
Hết tráng-cường đến lúc mòn thân,
Răng lần rụng lưng cong gối mỏi.
Nằm đi đứng đỡ nưng chống chỏi,
Thử nghĩ coi lao nhọc cùng chăng ?
Đoạn thứ ba ma Bịnh làm nhăng,
Đeo hành phạt xác thân ô-uế.
Bởi thời-thế chuyển xây biến-thể,
Thêm uống ăn chẳng được điều-hòa.
Là nguyên-nhân căn bịnh phát ra,
290. Thân trằn-trọc hôn mê nhức-nhối.
Cơn bịnh hoạn càng không tránh nổi,
Còn mang thêm tật nọ tật kia.
Rồi từ đây đến lúc chia lìa,
Đoạn Tử khổ thứ tư phân giải.
Trên dương-thế hữu hình tắc hoại,
Có sanh ra khổ-hải đâu chừa.
Trải bao phen dãi gió dầm mưa,
Ngày kiệt sức huyễn thân tan-nát.
Gần hấp-hối tâm-thần xao-xác,
300. Trí vẩn-vơ kinh-sợ vô cùng.
Rồi mòn lần đến lúc lâm-chung,
Giã cõi tạm theo đường tội phước.
Nhiều phương thuốc ngừa sau ngăn trước,
Mà cũng không thoát luật tuần-huờn.
Dầu ẩn nơi cùng cốc thâm sơn,
Chẳng trốn lánh tử thần cho khỏi.
Đoạn thứ năm nghĩ-suy tìm-tỏi,
Cầu Chẳng Thành những việc thích-ham.
Người trên đời ai cũng lòng tham,
310. Muốn phước, thọ, phẩm, hàm, tiền của.
Nào vợ đẹp, hầu xinh, là-lụa,
Không được thì bực-tức ưu-phiền.
Cả tâm thần điêu-đứng đảo-điên,
Vậy có phải khổ hay là chẳng ?
Đoạn thứ sáu Biệt Ly cay đắng,
Người mình thương bỗng lại chia-lìa.
Khi khóc-than nước mắt đầm-đìa,
Lúc trông nhớ ruột tằm chua xót.
Ở thế-gian mấy ai thoát lọt,
320. Nợ gia-đình đeo đắm căn-duyên.
Cơn nguy nghèo thân-thể truân-chuyên,
Kẻ lưu-lạc người chờ trông mãi.
Cuộc tan hiệp, hiệp tan ân-ái,
Đến xong đời để lại sầu-ưu.
Cái khổ này dầu lắm trí mưu,
Cũng chung chịu như người tăm-tối.
Đoạn thứ bảy khổ Oan-Tắng-Hội,
Hễ thương nhau tất có ghét nhau.
Thường tranh-đua tiếng thấp lời cao,
330. Chẳng nhẫn-nhịn thành ra cừu oán.
Muốn tránh xa đừng trông tâm dạng,
Cứ gặp nhau mắt tựa kim châm.
Làm cho người đau-đớn âm-thầm,
Khổ như thế diễn ra mãi mãi.
Đoạn thứ tám Ưu Sầu lo ngại,
Cuộc tang-thương dâu bể cảnh trần.
Nghèo thì lo một nỗi nợ-nần,
Lo đau-đói liệu cơn nhà rách.
Buồn duyên-số phận mình nhơ sạch,
340. Rầu gia-đình chúng bạn khinh cười.
Giàu thì lo chen lấn với người,
Miễn cho đuợc đầy rương đầy tủ.
Của dương-thế góp tom bảo-thủ,
Sợ gian-phi trộm cướp rình-mò.
Lo tước-quyền cho được thơm-tho,
Sợ kẻ khó thiếu tiền chẳng trả.
Ôi ! cả sang hèn chẳng ai thong-thả,
Sao nhơn sanh cứ mãi đắm say.
Chẳng tu thân đặng dựa Phật-Đài,
350. Cho thong-thả hưởng mùi sen báu.
Thần-Thức nhập Thai-Sen tinh hảo,
Nên khỏi màng lo nỗi khổ sanh.
Thân thì Thân Công-Đức hiền lành,
Bất di dịch khỏi vì khổ lão.
Thể Thanh-Tịnh thường không huyên-náo,
Hết lo toan nắng lạnh gió mưa.
Khổ bịnh kia bởi đó mà chừa,
Ta thoát cuộc lao-đao vì nó.
Đường sanh mạng Phật, ta đồng thọ,
360. Tánh an nhiên bất diệt trường tồn.
Tử thần kia đâu dám dắt hồn,
Thoát luân-chuyển khỏi đeo khổ tử.
Cuộc y thực muốn chi đủ thứ,
Không nhọc-nhằn lo việc sanh-nhai.
Trí yên nhàn nhìn cảnh Phật-Đài,
Khỏi quả khổ mưu-cầu-bất-đắc.
Cả Hải-Chúng thảy đều vững-chắc,
Toàn dân lành đâu có đắn-đo.
Dứt ái-ân quyến-thuộc chuyện-trò,
370. Thoát sống khổ thương-yêu-ly-biệt.
Chữ Hoà-Thuận kể sao cho xiết,
Tâm đồng nhau thượng-thiện vui-vầy.
Cảnh như như chẳng có đổi thay,
Không màng biết phân chia nhơn-ngã.
Sẵn vị ngôi rành phân thượng hạ,
Khỏi khổ câu oán-ghét-gặp-nhau.
Thân tâm thường-trụ hết rạt-rào,
Chất thô-trược tiêu tan mất cả.
Cõi Tịnh-độ lắm điều thanh-nhã,
380. Khổ buồn-rầu-lo-sợ chẳng còn.
Chốn Ta-bà tim lụn dầu mòn,
Thân tứ-đại của người cũng thế.
Mau thức-tỉnh tu-thân kẻo trễ,
Đến tội rồi mới hối muộn-màng.
Chi cho bằng ta sớm lo toan,
Gìn giới-luật nghe Kinh trọng Phật.
Đến lâm-chung quả lành đâu mất,
Cõi Tây-Phương chư Phật đợi chờ.
Việc tu thân thiện-tín hẫng-hờ,
390. Chừng họa đến e cho khó tránh.
Môn Tịnh-độ là phương cứu-cánh,
Rán phụng-hành kẻo phụ Phật xưa.
Lòng từ-bi chẳng quản nắng mưa,
Xông thuyền giác rước đưa sanh-chúng.
Trong một nước nhân tài hữu dụng,
Kẻ tu hành đa phước thì nên.
Quyết trau thân tánh-hạnh cho bền,
Niềm ơn nghĩa toan đền dứt nợ.
Ao sen báu Tây-phương đua nở,
400. Chờ chúng-sanh niệm Phật chí tâm.
Rán tu cho quỉ khiếp thần khâm,
Được tâm phát Bồ-Đề vững chắc.
Giữ đừng cho Ma-Vương dẫn dắt,
Thường nhớ câu Đại-Lực, Đại-Hùng.
Thắng Thất-Tình giữ vẹn Đạo-Trung,
Trừ Lục-Dục chớ cho ô nhiễm.
Thập-tam Ma diệt bằng trí-kiếm,
Rứt xong rồi vô sự thảnh-thơi.
Biển hồng-trần lao-lý diệu vơi,
410. Xô đẩy mãi trong vòng Ngũ-Trược.
Thân hôi tanh muỗi, ruồi đón rước,
Thêm nhọt-u, ghẻ lác, phung cùi.
Đâu lúc nào toàn vẹn yên vui,
Là Kiếp Trược, Ta xin kể trước.
Dòm việc quấy ngắm điều bạo-ngược,
Mắt trông vào những chỗ đê-hèn.
Nào được xem cảnh báu đài sen,
Nghĩa Kiến Trược giải ra như vậy.
Trí vẩn-vơ tưởng đó nhớ đây,
420. Thiết mưu-kế toan bề thắng-thối.
Ghi thù oán chưởng điều đáp đối,
Nên ma Phiền-Não Trược đắm say.
Chuyển-luân trong nhân-vật các loài,
Căn mờ-ám làm điều dại-dột.
Chúng-Sanh Trược, Ta đà kể nốt,
Còn thứ năm là Mạng Trược trung.
Số giàu-sang, họa-phước, bần-cùng,
Giàu hoa-nguyệt thung-dung cẩu-thả.
Ưa đẹp mắt mến điều mới lạ,
430. Sang oai-quyền, hối-lộ gần xa.
Nghèo a-dua, bợ-đỡ nịnh tà,
Khó trộm-cướp cũng là nhơ xấu.
Nguyện cùng Phật dứt duyên trần-cấu,
Phải trừ thêm Thập-Ác huyễn thân.
Khuyên nữ nam suy-nghiệm ân-cần,
Ác nơi khẩu nhứt là Lưỡng-Thiệt.
Với người này dùng lời tha-thiết,
Đến kẻ kia đâm-thọc cho gây.
Khá chừa đi hương-đảng bớt rầy,
440. Dùng sự thiệt giải-bày tâm trí.
Người choảng nhau tại mình gia vị,
Mà cũng không hưởng được lợi-danh.
Sau rõ ra chúng lại ghét-ganh,
Chiêu cảm quả bất lành thêm nữa.
Ác thứ nhì Ỷ-Ngôn chất-chứa,
Đợi cho người lầm-lỗi xéo vày.
Của tiền nhiều tự phụ rằng hay,
Chủ ỷ thế nhiếc xài kẻ dưới.
Lắc-léo chi có ba tấc lưỡi,
450. Quan ỷ khôn mạt-sát dân ngu.
Nghèo ỷ lanh láo-xược lu-bù,
Ôi ! thấy thế lòng đau tợ cắt.
Khuyên bá-tánh giữ-gìn cho chặt,
Đừng để cho quỉ dắt đường cong.
Dùng từ-ngôn nói tận đáy lòng,
Dầu trên dưới cũng không mấy khác.
Chúng vô phước đời này dốt-nát,
Người khôn-ngoan chỉ-dẫn mới là.
Lời trang-nghiêm êm-ái thốt ra,
460. Đừng bao-biếm mới là nhơn-thiện.
Tới Ác-Khẩu thứ ba bày-biện,
Tiếng tục-tằn thô-lỗ hung-hăng.
Nào chửi cha, mắng mẹ lăng-xăng,
Chẳng kể đến luân-thường thảo hiếu.
Hăm đánh giết những người hèn yếu,
Hiếp xóm-chòm cô bác chẳng kiêng.
Trong gia-đình chửi rủa liên-miên,
Hết Dương-thế kêu sang Thần-Thánh.
Chẳng kiêng nể Phật Trời thượng cảnh,
470. Cõi Long-cung mời thỉnh tối ngày.
Đời ám-u tội trạng thảm thay,
Khuyên bá-tánh bá-gia rán bỏ.
Gương tổ-phụ còn roi lại đó,
Sao không theo nề-nếp gia-phong.
Chư Thánh-Thần đâu có mất lòng,
Mà kêu réo Đông,Tây, Nam, Bắc ?
Mấy câu trên toàn là ròng rặc,
Những đàn-bà khe-khắt cháu con.
Kể từ nay phải giữ cho tròn,
480. Không chừa dứt ắt mang tai-ách.
Lựa lời tiếng dịu-dàng trong sạch,
Khi thốt ra đoan chánh hiền từ.
Tích thiện thì thường có phước dư,
Bằng tích ác họa-ương đeo đắm.
Ác Vọng-Ngữ thứ tư cũng cấm,
Nói thêm thừa huyễn-hoăc đủ điều.
Ghét người thời kiếm chuyện dệt-thêu,
Thương viện lẽ thấp cao bào chữa.
Đời bất công mấy ai xem sửa,
490. Trên điêu-ngoa dưới chẳng phục-tòng.
Khuyên nhơn sanh lấy lẽ chí công,
Mà ăn ở nói năng chơn-chất.
Phật từ-bi độ trong nhơn vật,
Là luật kinh dạy rất tinh-tường.
Nếu chẳng nghe hồn vướng tai-ương,
Chừng ấy mới kêu mời khó rước.
Người dương-thế chẳng ưa bốc-xước,
Phật Thần nào gần kẻ xảo-ngôn.
Đã tu hành đừng có bôn-chôn,
500. Tưởng hay giỏi khoe-khoang tài cán.
Người hiểu rành mới càng thêm chán,
Chi bằng ta bỏ lối trớ-trêu.
Nói với ai cũng phải lựa điều,
Đừng tráo-chác cho người khinh dể.
Ác Tà-Dâm thứ năm càng tệ,
Chúa hôn-mê chiếm đoạt thê thần.
Làm đảo-huyền tất cả quốc-dân,
Tôi bất chánh hoàng-cung dâm loạn.
Tội lỗi ấy diễn nhiều thảm trạng,
510. Từ xưa nay Trời đất đâu dung.
Giàu của nhiều dâm hiếp bần cùng,
Quan lấn thế dâm-ô dân khó.
Trai liều-lĩnh điều này nên bỏ,
Đừng phá trinh hại tiết nữ nhơn.
Gái lẳng-lơ tiếng huyễn lời đờn,
Hoa có chủ đèo-bồng tình mới.
Cất tiếng gọi nữ nam ơi hỡi,
Bỏ những điều điếm nhục tông môn.
Đứng nam-nhi học lấy điều khôn,
520. Lòng trung-hiếu gìn theo đạo-lý.
Hàng phụ-nữ gương xưa nối chí,
Những mẹ hiền dâu thảo roi truyền.
Niệm Phật mà gây lấy thiện duyên,
Cho đẹp mặt Tổ-tiên nòi giống.
Thờ Phật-Đạo tỉnh cơn ác mộng,
Thoát mê-đồ thường phóng quang-minh.
Rán hiểu rành tiếng kệ lời kinh,
Ác thứ sáu ấy là Đạo-Tặc.
Lấy của người sắm ăn sắm mặc,
530. Chẳng kể công nước mắt mồ-hôi.
Phá lương dân dạ luống bồi-hồi,
Ngày làm-lụng đêm lo gìn-giữ.
Trốn pháp-luật tập-tành đủ thứ,
Nào đào tường, khoét vách khuân đồ.
Tội chập-chồng đâu biết ở mô,
Trốn người khỏi trốn Trời sao khỏi.
Nay đuốc huệ Từ-Bi đã rọi,
Vào thâm-tâm những kẻ gian phi.
Hãy tu thân chừa thói vô nghì,
540. Của phi nghĩa làm chi xong chuyện.
Luật nhơn-quả thật là cao viễn,
Suốt cổ kim chẳng lọt một ai.
Vậy ta nên làm việc thẳng ngay,
Cứ bền chí có ngày thong-thả.
Ác thứ bảy Sát-Nhơn gây vạ,
Tánh hung-hăng đâm chém chặt bầm.
Chất-chứa điều hung dữ trong tâm,
Chờ đắc thế ra tay hạ sát.
Viết đến đây động lòng rào-rạt,
550. Gẫm nhiều người bội-bạc thâm ân.
Nào kể chi là đạo Quân-Thần,
Tôi giết chúa, con đành sát phụ.
Lúc nguy-cơ tớ mong hại chủ,
Trò giết thầy tội ấy đáng không.
Thêm chồng giết vợ, vợ giết chồng,
Niềm huynh-đệ cùng nhau xâu-xé.
Cũng hiếm lúc con còn giết mẹ,
Giành của tiền cốt-nhục giết nhau.
Tranh lợi danh giết lẫn đồng-bào,
560. Tình nhơn-loại phân chia yểm-bách.
Giết sanh vật đầy lòng kiêu-cách,
Tưởng rằng mình như thế là ngoan.
Khuyên bá-gia bá-tánh việt-đàn,
Chớ sát hại mạng người như thế.
Bớt giết vật đặng mà cúng tế,
Gẫm Thánh-Thần đâu có tư riêng.
Rủi ốm đau bởi tại căn tiền,
Hoặc hiện kiếp làm điều bạo-ác.
Phải ăn-năn phước-điền tạo-tác,
570. Lo thuốc thang khẩn-vái Phật Trời.
Nguyện sửa lòng ắt Phật giúp đời,
Xuống phước rộng từ-bi hỉ-xả.
Đấng Thần-Minh công bình trực dạ,
Đâu ăn lo đổi họa làm may.
Mở tâm linh nghĩ đến đoạn này,
Điều họa phước ấy cơ báo ứng.
Chẳng biết thân còn toan chứa đựng,
Quả bất lành chưa trả vay thêm.
Cầu cho đời sóng lặng gió êm,
580. Đặng bá-tánh an-nhàn tu niệm.
Ác thứ tám là lòng Tham Hiểm,
Muốn bao gồm của thế một mình.
Tham nhà cao, cửa rộng, thân vinh,
Tham vườn ruộng cò bay thẳng kiếng.
Thấy của người thèm khô nước miếng,
Tính làm sao lường gạt lấy đi.
Sẵn túi tham bất cứ chuyện gì,
Dầu xấu tốt cũng là dồn chứa.
Nhớ lời Phật khi xưa dạy sửa,
590. Của thế trần như mật dính dao.
Trẻ tham ăn kê miệng liếm vào,
Chừng đứt lưỡi mới là hối-hận.
Tham của tạm làm điều tàn-nhẫn,
Nhắm mắt rồi đâu có mang theo.
Tham tiền tài thường vướng nạn eo,
Tham sắc đẹp nhà tan cửa nát.
Lúc tận số nằm trơ một xác,
Gẫm kim-tiền bội-bạc bất tài.
Không làm cho ta được sống dai,
600. Lại chẳng bước tiễn đưa một bước.
Thà nghèo thanh hơn giàu mà trược,
Lo vun-trồng cội phước về sau.
Muốn trừ tham phải liệu cách nào,
Phải bố-thí diệt lòng ích-kỷ.
Tâm chánh niệm thường thường suy nghĩ,
Vật ở trần như bọt nước làn mây.
Thân Ta còn rày đó mai đây,
Của ấy cũng khi tan khi hiệp.
Ác thứ chín Hận-Sân luận tiếp,
610. Lửa trong tâm chẳng đốt mà lừng.
Nổi lôi đình đâu có định chừng,
Cho ta biết mà toan giữ trước.
Tánh sân-nộ thường làm bạo-ngược,
Nên loài người ở cõi thế-gian.
Giận hờn nhau thù-oán dẫy tràn,
Mới có cuộc tranh tài đấu lực.
Hơn tự-đắc, khoe-khoang dõng sức,
Phải bị người hềm-khích ghét-ganh.
Thua hổ-ngươi làm chuyện bất lành,
620. Gây nghiệp dữ oan oan tương báo.
Trong cơn giận kể gì nhơn đạo,
Tỷ như con cọp dữ trên rừng.
Gặp thịt toan cấu xé tưng bừng,
Phân từ mảnh mới là thỏa dạ.
Diệt được nó tâm trần thong-thả,
Ta thường nên tập tánh khoan-dung.
Thiệt-hành đi đừng có ngại-ngùng,
Tha-thứ kẻ lỗi lầm ngu-xuẩn.
Và nhẫn-nhịn đừng ham tranh-luận,
630. Khỏi mất lòng tất cả mọi người.
Tánh thuần-lương vẻ mặt vui tươi,
Vậy mới đáng tín-đồ Phật-Giáo.
Nay ta đã quy-y cầu Đạo,
Gây-gổ là trái thuyết từ-bi.
Ác thứ mười đoạn chót Mê-Si,
Nguyên tăm-tối từ hồi vô thỉ.
Màn vô-minh che mờ căn trí,
Nên thường khi nhận ngụy làm chơn.
Lo huyễn thân vật-chất kém hơn,
640. Chẳng tìm biết tinh-thần đạo-đức.
Dệt lưới nghi đeo điều phiền-phức,
Bịn-rịn đời cực-khổ tang-thương.
Khi nói làm ít chịu suy lường,
Mãi phạm tội nên rằng nghiệp ác.
Diệt mê-si phải nương thuyền giác,
Muôn việc làm chính-trực khôn-ngoan.
Đừng bạ đâu tin bướng nghe càn,
Làm ngu-muội đọa thân uổng kiếp.
Ác trừ xong hiện ra thiện nghiệp,
650. Lóng nguồn chơn Phật tiếp-dẫn cho.
Trồng cây lành vị-quả thơm-tho,
Tuy không thấy mà sau chẳng mất.
Dầu ai có cười ta khờ-khật,
Cũng đừng phiền xao-lãng chơn tâm.
Mong tiếng kêu thấu đến Tòng-lâm,
Cùng thiện-tín bá-gia hưởng-ứng.
Muốn Phật-Giáo từ đây bền vững,
Đừng riêng lo lợi-dưỡng một mình.
Nếu xuất-gia thì phải hy-sinh,
660. Cả vật-chất tinh-thần lo Đạo.
Chớ giả-dối mà mang sắc áo,
Mượn bồ-đề chuỗi hột loè người.
Làm cho dân khinh-dể ngạo cười,
Tội-lỗi ấy luật nào dung thứ.
Tu còn ham chay to đám bự,
Đặng thế-gian dưng cúng bạc tiền.
Dối rằng: lo tu-bổ chùa chiền,
Mà làm của xài riêng cho thỏa.
Bảo làm sao dân không sa-ngã,
670. Nghe lời rù Tông nọ phái kia.
Cả tăng-đồ trong nước chia-lìa,
Riêng pháp-bảo, riêng chùa, riêng Phật.
Trong bá-tánh sầu-thành chất-ngất,
Mãi nghi nan chẳng biết đàng nào.
Lòng mến yêu chẳng nệ công-lao,
Mượn bút mực đôi lời trần thuyết.
Tùy thiện-tín hiểu Ta giả thiệt,
Làm hay không chẳng dám ép nài.
Nguyện mười phương chư Phật đáo lai,
680. Đồng tiếp-dẫn chúng-sanh giải-thoát.

KỆ:


Đêm thanh hiên nguyệt dựa kề,
Nhìn xem thế-sự não-nề tâm-can.
Từ Ta nương chốn Phật-đàng,
Dứt tâm trần-cấu chẳng màng vinh-huê.
Trần-hoàn thiện-tín còn mê,
Thêm lời giục-thúc gọi về đàng tu.
Dốc lòng vạch ngút mây-mù,
Đặng dìu bá-tánh đường tu chen vào.
Lời Thầy cạn tỏ âm-hao,
690. Để truyền hậu-thế vàng thau lọc-lừa.
Tu cầu thuận gió hòa mưa,
An-hòa nhơn-vật phước thừa trời ban.
Tu cầu thoát chốn gian-nan,
Cầu trong chư quốc chư bang giao-hòa
Tu cầu yên nước lợi nhà,
Cửu-huyền Thất-tổ Diêm-La thoát hình.
Tu cầu Phật hóa tánh tình,
Lưới mê chẳng buộc nhẹ mình tiêu-dao.
Tu cầu cửa Phật đặng vào
700. Gót sen thong-thả xiết bao thanh-nhàn.
Tu cầu bịnh tật tiêu-tan,
Từ-bi hỉ-xả Phật ban phép lành.
Tu cầu thoát khỏi tử sanh,
Nương theo Phật-Quốc lời lành hằng nghe.
Cõi trần đừng đắm ngựa xe,
Đeo tuồng mộng-huyễn lập-lòe sắc hương.
Tu cầu trăm họ hiền lương,
Đồng thinh niệm Phật tai-ương chẳng còn.
Tu cầu gia-đạo vuông tròn,
710. Chồng hòa vợ thuận cháu con thảo hiền.
Tu cầu thoát khỏi xích-xiềng,
Dựa kề chơn Phật xa miền trần-lao.
Tu cầu chóng hết binh đao,
Gặp đời bình trị xiết bao vui-vầy
Mắt nhìn chư Phật đông dầy,
Thành vàng điện ngọc trò Thầy đăng tiên.
Ai mà muốn đặng phước-duyên,
Nghe lời khuyến-thiện lòng liền phát tâm.
Tu cho rõ mối huyền-thâm,
720. Qui đầu Phật-Pháp khỏi lâm tai-nàn.
Phước đức quí hơn bạc vàng,
Những người bạc-ác giàu sang ích gì.
Chi bằng ăn ở nhu-mì,
Nghe lời Phật Thánh kính vì người trên.
Hiếu-trung lòng chớ vội quên,
Sống lo trọn Đạo, thác lên Tiên-Đài.
Nam-mô miệng niệm hằng ngày,
Lánh lời dua-mị học rày kệ kinh.
Trau tâm luyện tánh cho minh,
730. Chuyên lo niệm Phật sửa mình cho trơn.
Lóng tai nghe rõ tiếng đờn,
Không dây không phím oán hờn cũng không.
Đờn tây rồi lại đờn đông,
Trách trong bá-tánh gặp sông quên nguồn.
Phàm-trần như chỉ rối cuồn,
Mà còn say-đắm theo tuồng lẳng-lơ.
Lời lành mắt lấp tai ngơ,
Đua theo vật-chất hẫng-hờ đàng tiên.
Hố sâu tình-dục lại ghiền,
740. Ghiền cho đến lúc chúng khiêng quan-tài.
Nhắm mắt cũng nắm hai tay,
Đâu đem tiền của đem rày hầu non.
Chỉ có tội phước hỡi còn,
Đến nơi thẩm-phán cửa son Diêm-Đài.
Phước nhiều tiên-cảnh lên rày,
Tội nhiều sa-đọa nhiều ngày thảm-thê.
Chừng ấy mới biết chỉn ghê,
Ăn-năn chẳng kịp khó bề tính-toan.
Ngày nay sớm đến Phật-đàng,
750. Tu cầu chư Phật cứu an linh-hồn.
Tội tiêu phước hưởng trường-tồn,
Không còn mắc nẻo dại-khôn luân-hồi.
Thấy đời khó nỗi yên ngồi,
Thêm lời Thầy nhắc một hồi thấp cao.
Nữ nam muốn rõ âm-hao,
756. Rán trau đức-hạnh ngày sau sẽ tường.
*
* *
Ngôn-từ đạo hạnh ý Thầy khuyên,
Hạnh đức ân-cần rán tập chuyên.
Thất-tổ cửu-huyền nơi chín suối,
Mỉa-mai xa lánh sáu đường duyên.
*
* *
Vô-thượng thậm thâm dĩ ý truyền,
Danh-ngôn chép để rạch đàng Tiên.
Cư-gia Tịnh-Độ tâm viên-mãn,
Sĩ xuất văn-từ dốc dạy khuyên.


NAM-MÔ BỔN-SƯ THÍCH-CA MÂU-NI PHẬT
(tam niệm)
NAM-MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT

DANH MỤC
  • Sấm Giảng
  • Thi Văn Giáo Lý



Đánh giá bài viết

4.98/32 rates

Print Friendly and PDF
0

Đăng nhận xét

Cảm ơn Đạo Hữu đã đóng góp. Chúc Đạo Hữu một ngày an lạc! A Di Đà Phật