Sấm Giảng Quyển Nhì

Phật Giáo Hòa Hảo,Đức Huỳnh Giáo Chủ, Sấm Giảng Quyển 2
 QUYỂN NHÌ


KỆ DÂN CỦA NGƯỜI KHÙNG

Đây là quyển thứ nhì mà Đức Thầy đã viết ngày 12 Tháng 9 năm Kỷ-Mão (1939)
Tại Hòa-Hảo(476 câu)



Ngồi Khùng trí đoái nhìn cuộc thế,
Thấy dân mang sưu thuế mà thương.
Chẳng qua là Nam-Việt vô vương,
Nên tai-ách xảy ra thảm-thiết.
Bạc không cánh đổi thay chẳng biết,
Vàng bị nghèo mấy chiếc chẳng còn.
Mới mấy năm sao quá hao-mòn,
Mùa-màng thất, đói đau không thuốc.
Thương hại bấy lê-dân đứt ruột,
10. Thảm vợ con đói rách đùm-đeo.
Gẫm chữ nghèo thường mắc chữ eo,
Thêm gạo lúa lại tăng giá mắt.
Nhìn cuộc thế đổi thay quá gắt,
Máy Thiên-cơ mỗi phút mỗi thay.
Nẻo thạnh suy như thể tên bay,
Đường vinh-nhục rủi may một lát.
Ai phú-quí vào đài ra các,
Ta Điên Khùng thương hết thế-trần.
Khuyên chúng-sanh chẳng biết mấy lần,
20. Nào ai có tỉnh tâm tìm Đạo.
Trai trung-liệt đáng trai hiền-thảo,
Gái tiết-trinh mới gái Nam-trào.
Lời Thánh Hiền để lại biết bao,
Sao trai gái chẳng coi mà sửa?
Đời tận thế mà còn lần-lựa,
Chẳng chịu mau cải dữ về lành.
Làm Phật-Nhi phải được lòng thành,
Thì mới đặng vãng-sanh Cực-Lạc.
Tương với muối cháo rau đạm bạc,
30. Nghèo lương hiền biết niệm Di-Đà.
Mà mai sau thoát khỏi tinh ma,
Lại được thấy cảnh Tiên nhàn-hạ.
Trên Bảy Núi còn nhiều báu lạ,
Rán tu tâm dưỡng tánh coi đời.
Coi là coi được Phật được Trời,
Coi phép lạ của Tiên của Thánh.
Cuộc dương-thế ngày nay mỏng-mảnh,
Mà sang giàu còn hiếp nghèo nàn.
Phải xả thân tầm Bát-Nhã thoàn,
40. Sau mới khỏi hùm tha sấu bắt.
Đến chừng đó bốn phương có giặc,
Khắp hoàn-cầu thiết thiết tha tha.
Vậy sớm mau kiếm chữ Ma-Ha,
Thì Phật cứu khỏi nơi khói lửa.
Tưởng nhớ Phật như ăn cơm bữa,
Vọng Cửu-Huyền sớm tối mới mầu.
Chữ Nam-Mô dẹp được lòng sầu,
Sau thấy được nhà Tiên cửa Thánh.
Ghét những đứa giàu-sang kiêu-hãnh,
50. Thương những người đói-rách cơ-hàn.
Cảnh phồn-hoa khó sánh lâm-san,
Sau sẽ có nhiều điều vinh-hạnh.
Cõi trần-thế hết suy tới thạnh,
Hết lâm nguy đến lúc khải-hoàn.
Tuy tu hành chịu chữ nghèo-nàn,
Sau đắc đạo gặp điều cao-quí.
Mặc bá-tánh đời nầy dị-nghị,
Ta Điên Khùng mà tánh lương-hiền.
Lòng yêu dân chẳng trọng bạc tiền,
60. Mà dương-thế cứ theo biếm nhẻ.
Sau lập Hội thì già hoá trẻ,
Khắp hoàn-cầu đổi xác thay hồn.
Đức Ngọc-Hoàng mở cửa thiên-môn,
Đặng ban thưởng Phật Tiên với Thánh.
Khuyên trai gái học theo Khổng-Mạnh,
Sách Thánh Hiền dạy Đạo làm người.
Xem truyện thơ chẳng biết hổ-ngươi,
Mà làm thói Điêu-Thuyền, Lữ-Bố.
Sau kẻ ấy làm mồi mãnh-hổ,
70. Cảnh Núi-Non nhiều thú dị-kỳ.
Nó trọng ai hiền-đức nhu- mì,
Sát phạt kẻ bội cha phản chúa.
Đến chừng đó thiên-la lưới bủa,
Mới biết rằng Trời Phật công-bằng.
Nếu dương trần sớm biết ăn-năn,
Làm hiền-đức khỏi đường lao-lý.
Học tả-đạo làm điều tà-mị,
Theo dị-đoan cúng kiếng tinh-tà.
Thì sau nầy gặp chuyện thiết-tha,
80. Đừng có trách Khùng Điên chẳng cứu.
Thấy-bá tánh nghinh tân yểm cựu,
Học ai mà ngang-ngược nhiều lời.
Phụ mẹ cha khinh-dể Phật Trời.
Chẳng có kể công sanh dưỡng-dục.
Thương lê-thứ bày tường trong đục,
Mặc ý ai nghe phải thì làm.
Lời của người di-tịch Núi-Sam,
Chớ chẳng phải bày điều huyễn-hoặc.
Cảnh Thiên-Trước thơm-tho nồng-nặc,
90. Chẳng ở yên còn xuống phàm-trần.
Ấy vì thương trăm họ vạn dân,
Nên chẳng kể tấm thân lao-khổ.
Giả Quê Dốt khuyên người tỉnh-ngộ,
Giả Bán Buôn thức giấc người đời.
Rằng ngày nay có Phật có Trời,
Kẻo dân-thứ nhiều người kiêu-ngạo.
Xuống mượn xác nhằm năm Kỷ-Mão,
Buồn xóm làng cứ ghét Điên Khùng.
Nếu trẻ già ai biết thì dùng,
100. Chẳng có ép có nài bá-tánh.
Nghe Điên dạy sau này thơi-thảnh,
Đây chỉ đường Cực-Lạc vãng-sanh.
Đừng có ham lên mặt hùng-anh,
Sa địa ngục uổng thân uổng kiếp.
Theo đạo-lý nhứt tâm mới kịp,
Ngày nay đà gặp dịp tu-hành.
Niệm Di-Đà rán niệm cho rành,
Thì mới được sống coi Tiên-Thánh.
Đức Minh-Chúa chẳng ai dám sánh,
110. Xưa mạt Thương phụng gáy non Kỳ.
Bởi Võ-Vương đáng bực tu-mi,
Nay trở lại khác nào đời trước.
Kẻ gian-ác bị gươm ba thước,
Nơi pháp-tràng trị kẻ hung-đồ.
Được thảnh-thơi nhờ chữ Nam-Mô,
Khuyên bổn-đạo rán mà trì-chí.
Xưa Tây-Bá thất-niên Dũ-Lý,
Huống chi ta sao khỏi tiếng đời.
Dòm biển trần cảnh khổ vơi vơi,
120. Lao với khổ, khổ lao chẳng xiết.
Ghét bạo chúa là xưa Trụ-Kiệt,
Mất cơ-đồ lại bị lửa thiêu.
Thương Minh-Vương bắt chước Thuấn-Nghiêu,
Lòng hiền đức nào ai có biết.
Thương trần-thế kể sao cho xiết,
Mượn xác-trần bút tả ít hàng.
Kể rõ ràng những việc lầm-than,
Mặc làng xóm muốn nghe thì chép.
Việc tu-tỉnh Khùng không có ép,
130. Cho giấy vàng Điên chẳng có nài.
Lòng yêu dân chẳng nệ vắn dài,
Cho bổn-đạo giải khuây niệm Phật.
Việc xảy đến Đây truyền sự thật,
Ấy là lời của Phật giáo-khuyên.
Rán nghe lời của kẻ Khùng-Điên,
Phật, Tiên, Thánh hãy nên trọng kỉnh.
Bịnh ôn-dịch cũng đừng mời thỉnh,
Cõi ngũ-hành chẳng khá réo-kêu.
Hãy gìn lòng chớ khá dệt-thêu,
140. Nói xiên-xỏ cũng không no béo.
Đời Nguơn-Hạ ngày nay mỏng-mẻo,
Khuyên thế-trần hãy rán kiêng-dè.
Mặc tình ai lên ngựa xuống xe,
Ta chẳng có ham nơi phú-quí.
Trong bổn-đạo từ nay kim-chỉ,
Đói với nghèo sắp đến bây giờ.
Vì thương đời nên Lão kể sơ,
Cho bá-tánh rõ lời châu ngọc.
Nước Nam-Việt ai là thằng ngốc,
150. Người đời nay như ốc mượn hồn.
Chim tìm cây mới gọi chim khôn,
Người hiền-đức mới là người trí.
Theo Phật-Giáo sau nầy cao-quí,
Được nhìn xem Ngọc-Đế xử phân.
Lại dựa kề Bệ-Ngọc Các-Lân,
Cảnh phú quí nhờ ơn Phật-Tổ.
Thấy bá-tánh nhiều điều tai-khổ,
Khùng thương dân nên phải hết lời.
Dạo Lục-Châu chẳng có nghỉ-ngơi,
160. Mà lê-thứ nào đâu có biết.
Dạy Đạo chánh vì thương Nam-Việt,
Ở Cao-Miên vì mến Tần-Hoàng.
Trở về Nam đặng có sửa-sang,
Cho thiện-tín đuợc rành chơn-lý.
Trong Sáu-Tỉnh nhiều điều tà-mị,
Tu-hành mà vị-kỷ quá chừng.
Thì làm sao thoát khỏi trầm-luân,
Khuyên bổn-đạo rán tầm nẻo chánh.
Chừng lập Hội xác thân mới rảnh,
170. Nếu không thời khó thấy Phật Trời.
Khùng dạy dân chẳng dám nghỉ-ngơi,
Đi chẳng kể tấm thân già cả.
Cảnh trần-thế mặc ai thong-thả,
Chớ lòng ta chẳng đắm hồng-trần.
Có thân thì rán giữ lấy thân,
Để đến việc ăn-năn chẳng kịp.
Yêu những kẻ tâm đầu ý hiệp,
Mến những ai biết kiếm Đạo-mầu.
Cảnh Tây-Thiên báu ngọc đầy lầu,
180. Rán tu tỉnh tìm nơi an dưỡng.
Kẻ hiền-đức sau nầy được hưởng,
Phép Thần-Linh của Đức Di-Đà.
Lại được thêm thoát khỏi Ta-Bà,
Khỏi luân chuyển trong vòng Lục Đạo.
Đức Diêm-Chúa yêu người hiền thảo,
Trọng những ai biết niệm Di-Đà.
Lại được gần Bệ-Ngọc Long-Xa,
Coi chư quốc tranh-giành châu-báu.
Trai nhỏ tuổi kính thành trưởng lão,
190. Gái bé thơ biết trọng tuổi già.
Rán tỉnh tâm dẹp được lòng tà,
Thì được thấy Phật, Tiên, Thần, Thánh.
Việc hung-dữ hãy nên xa lánh,
Theo gương hiền trau sửa làm người.
Sau tà-tinh ăn sống nuốt tươi,
Mà bá-tánh chẳng lo cải thiện.
Miệng dương-thế hay bày nói huyễn,
Sách Thánh Hiền ghét kẻ nhiều lời.
Khuyên chúng-sanh niệm Phật coi đời,
200. Cõi Hạ-Giái rồng mây chơi giỡn.
Ở chòm-xóm đừng cho nhơ-bợn,
Rán giữ gìn phong-hóa nước nhà.
Câu tam-tùng bọn gái nước ta,
Chữ hiếu-nghĩa trẻ trai cho vẹn.
Ghét những kẻ có ăn bỏn-sẻn,
Thương những người đói rách lương hiền.
Muốn tu-hành thì phải cần-chuyên,
Tưởng nhớ Phật chớ nên sái buổi,
Kẻ phú-quí đừng vong cơm nguội.
210. Sau đói lòng chẳng có mà dùng.
Ta yêu đời than-thở chẳng cùng,
Mà bá-tánh chẳng theo học hỏi.
A-Di-Đà nhìn xem khắp cõi,
Đặng trông chờ mong-mỏi chúng-sanh.
Hiện hào-quang ngũ sắc hiền lành,
Đặng tìm kiếm những người hiền-đức.
Kẻ tâm-trí mau mau tỉnh-thức,
Kiếm Đạo-mầu đặng có hưởng nhờ.
Chốn hồng-trần nhiều cảnh nhuốc-nhơ,
220. Rán hiểu rõ huyền-cơ mà tránh.
Chốn tửu-điếm ta nên xa lánh,
Tứ-đổ-tường đừng có nhiễm vào.
Người tránh xa mới gọi trí cao,
Sa bốn vách mang điều nhơ-nhuốc.
Muốn tu tỉnh nay đà gặp cuộc,
Đức Di-Đà truyền mở Đạo lành.
Bởi vì Ngài thương xót chúng-sanh,
Ra sắc lịnh bảo Ta truyền dạy.
Nên khổ-lao Khùng không có nại,
230. Miễn cho đời hiểu đặng Đạo-mầu.
Ai muốn tầm Đạo cả cao sâu,
Thì hãy dẹp tánh tình ích-kỷ.
Mau trở lại đừng theo tà-quỉ,
Tham, Sân, Si chớ để trong lòng.
Phải giữ lòng cho được sạch-trong,
Mới thoát khỏi trong vòng bịnh khổ.
Lớp đau chết kể thôi vô số,
Thêm tà-ma yêu-quái chật đường.
Chốn hồng-trần nhiều nỗi thảm-thương,
240. Làm sao cứu những người hung-ác.
Khắp thế-giới cửa nhà tan-nát,
Cùng xóm làng thưa-thớt quạnh-hiu.
Bấy lâu nay nuôi dưỡng chắt-chiu,
Nay tận-diệt lập đời trở lại.
Khắp lê-thứ biến vi thương-hải,
Dùng phép-mầu lập lại Thượng-Nguơn.
Việc Thiên-Cơ Khùng tỏ hết trơn,
Cho trần-hạ tường nơi lao-lý.
Lão nào có bày điều ma-mị,
250. Mà gạt-lường bổn-đạo chúng-sanh.
Đức Minh-Vương ngự chốn Nam-Thành,
Đặng phân xử những người bội nghĩa.
Trung với hiếu ta nên trau-trỉa,
Hiền với lương bổn-đạo rèn lòng.
Thường nguyện-cầu siêu-độ Tổ-Tông,
Với bá-tánh vạn dân vô sự.
Đời Ngươn-Hạ nhiều người hung-dữ,
Nên xảy ra lắm sự tai-ương.
Đức Di-Đà xem thấy xót-thương,
260. Sai chư Phật xuống miền dương-thế.
Tu kíp kíp nếu không quá trễ,
Chừng đối đầu khó kiếm Điên Khùng.
Cứu lương-hiền chẳng cứu người hung,
Kẻ gian-ác đến sau tiêu-diệt.
Nay trở lại như đời Trụ-Kiệt,
Hãy tu nhơn chớ có tranh-giành.
Tuy nghèo hèn mà chí cao-thanh,
Được hồi-phục nhờ ơn chư Phật.
Hãy thương-xót những người tàn-tật,
270. Thấy nghèo hèn chớ khá khinh cười.
Trên Năm-Non rồng phụng tốt-tươi,
Miền Bảy-Núi mà sau báu-quí.
Mặc trai gái trẻ già có nghĩ,
Thì khoan cười tôi rất cám ơn.
Khùng ra đời truyền dạy thiệt hơn,
Chư bổn-đạo chớ nên khinh rẻ.
Nay Khùng đã hết già hoá trẻ,
Nên giữa đồng bỗng lại có sông.
Ở Tây-Phương chư Phật ngóng trông,
280. Chờ bá-tánh rủ nhau niệm Phật.
Làm nhơn-ái ắt tiêu bịnh-tật,
Vậy hãy mau tầm Đạo Thích-Ca.
Phật tại tâm chớ có đâu xa,
Mà tìm kiếm ở trên Non-Núi.
Chúng đục-đẽo những cây với củi,
Đắp xi-măng sơn phết đặt tên.
Ngục A-Tỳ dựa kế một bên,
Chờ những kẻ tu hành giả-dối.
Khuyên sư-vãi mau mau cải-hối,
290. Làm vô-vi chánh Đạo mới mầu.
Đạo Thích-Ca nhiều nẻo cao sâu,
Hãy tìm kiếm cái không mới có.
Ngôi Tam-Bảo hãy thờ Trần-Đỏ,
Tạo làm chi những cốt với hình.
Khùng nói cho già trẻ làm tin,
Theo Lục-Tổ chớ theo Thần-Tú.
Khuyên bổn-đạo chớ nên mê ngủ,
Thức dậy tìm Đạo chánh của Khùng.
Đặng sau xem liệt quốc tranh hùng,
300. Được sanh sống nhờ ơn Chín-Bệ.
Hóa phép lạ biết bao mà kể,
Chín từng mây nhạc trổi tiêu-thiều.
Kẻ tà-gian sau bị lửa thiêu,
Người tu niệm sống đời thượng-cổ.
Khùng vưng lịnh Tây-Phương Phật-Tổ,
Nên giáo-truyền khắp cả Nam-Kỳ.
Hội Long-Hoa chọn kẻ tu-mi,
Người hiền đức đặng phò chơn Chúa.
Khuyên những kẻ giàu sang có của,
310. Hãy mở lòng thương-xót dân nghèo.
Cảnh vinh- hoa lại quá cheo-leo,
Nhà giàu có sau nhiều tai-ách.
Hỡi bá-tánh rừng sâu có mạch,
Tuy u-minh mà có đền vàng.
Lịnh Quan-Âm dạy biểu Khùng troàn,
Cho bổn-đạo rõ nguồn chơn-lý.
Lũ thầy-đám hay bày trò khỉ,
Mượn kinh luân tụng mướn lấy tiền.
Chốn Diêm-Đình ghi tội liên-miên,
320. Mà tăng-chúng nào đâu có rõ.
Theo Thần-Tú tạo nhiều chuông mõ,
Từ xưa nay có mấy ai thành?
Phật từ-bi độ tử độ sanh,
Là độ kẻ hiền-lương nhơn-ái.
Xá với phướn là trò kỳ-quái,
Làm trai-đàn che miệng thế-gian.
Kẻ vinh-hoa phú-quí giàu sang,
Mướn tăng-chúng đặng làm chữ hiếu.
Thương bá-tánh vì không rõ hiểu,
330. Tưởng vậy là nhơn nghĩa vẹn tròn.
Thấy lạc-lầm Đây động lòng son,
Khuyên bổn-đạo hãy nên tỉnh-ngộ.
Ở dương-thế tạo nhiều cảnh khổ,
Xuống huỳnh-tuyền Địa-Ngục khảo hình.
Tuy lưới Trời thưa rộng thinh-thinh,
Chớ chẳng lọt những người hung-ác.
Khi nhắm mắt hồn lìa khỏi xác,
Quỉ Vô-Thường dắt xuống Diêm-Đình.
Sổ sách kia tội phước đinh-ninh,
340. Phạt với thưởng hai đường tỏ rõ.
Tìm Cực-Lạc, Đây rành đường ngõ,
Hãy mau-mau tu tỉnh mới mầu.
Tận thế-gian còn có bao lâu,
Mà chẳng chịu làm tròn nhân-đạo.
Kẻ nghèo khó hụt tiền thiếu gạo,
Mở lòng nhơn tiếp rước mới là.
Làm hiền-lành hơn tụng hơ-hà,
Hãy tưởng Phật hay hơn ó-ré.
Đã chánh Đạo thêm còn sức khoẻ,
350. Đặng nuôi cha dưỡng mẹ cho tròn.
Vẹn mười ơn mới đạo làm con,
Lúc sanh sống chớ nên phụ-bạc.
Nếu làm đám được về Cực-Lạc,
Thì giàu-sang được trọn hai bề.
Ỷ tước-quyền làm ác ê-hề,
Khi bỏ xác nhiều tiền lo-lót.
Kinh với sám tụng nghe thảnh-thót,
Lũ nhưn-bông tập luyện đã rành.
Đẩu với đờn, kèn, trống, nhịp sanh,
360. Làm ăn-rập đặng đòi cao giá.
Tâm trần-tục còn phân nhơn ngã,
Thì làm sao thoát khỏi luân-hồi.
Những giấy-tiền vàng-bạc cũng thôi,
Chớ có đốt tốn tiền vô lý.
Xưa Thần-Tú bày điều tà-mị,
Mà dắt-dìu bá-tánh đời Đường.
Thấy chúng-sanh lầm lạc đáng thương,
Cõi Âm-Phủ đâu ăn của hối.
Đúc Phật lớn chùa cao bối-rối,
370. Mà làm cho Phật-Giáo suy đồi.
Tu Vô-Vi chớ cúng chè xôi,
Phật chẳng muốn chúng-sanh lo lót.
Tăng với chúng ưa ăn đồ ngọt,
Nên bày ra cúng kiếng hoài hoài.
Ỷ nhiều tiền chẳng biết thương ai,
Cúng với lạy khó trừ cho đặng.
Kẻ nghèo khó tu hành ngay thẳng,
Không cầu siêu Phật bỏ hay sao?
Lập trai đàn chạy-chọt lao xao,
380. Bôi lem mặt làm tuồng hát Phật.
Nay nhằm lúc mùa màng ngập thất,
Vậy hãy mau bỏ bớt dị-đoan.
Rán giữ-gìn luân-lý tam cang,
Tròn đức-hạnh mới là báu-quí.
Nay gần đến long phi xà vĩ,
Cảnh gian-nan bá-tánh hầu kề.
Thấy chúng sanh còn hỡi say mê,
Khùng chỉ rõ đường tà nẻo chánh.
Ta là kẻ vô hình hữu ảnh,
390. Ẩn xác phàm gìn đạo Thích-Ca.
Làm gian ác là quỉ là ma,
Làm chơn chánh là Tiên là Phật.
Hiếm những kẻ không nhà không đất,
Mà sang giàu chẳng xót thương giùm.
Có lỡ-lầm chửi mắng um-sùm,
Thêm đánh đập khác nào con vật.
Ăn không hết lo dành lo cất,
Đem bạc trăm cúng Phật làm chi?
Phật Tây-Phương vốn tánh từ-bi,
400. Đâu túng thiếu mà quơ mà tởi.
Khùng cả tiếng kêu dân ơi hỡi,
Hãy giúp cho kẻ đói mới nhằm.
Đến loạn-ly khổ hạnh khỏi lâm,
Còn hơn đúc chuông đồng Phật bự.
Chẳng làm phước để làm hung dữ,
Rồi vào chùa lạy Phật mà trừ.
Phật Tây-Phương có lẽ hiểu dư,
Dụng tâm ý chớ không dụng vật.
Muốn bổn-đạo tánh tình chơn-chất,
410. Rèn lòng hiền thương xót lẫn nhau.
Kể từ rày vàng lộn với thau,
Phật, Tiên, Thánh cùng nhau xuống thế.
Cứu bá-tánh không cần lễ mễ,
Để dắt-dìu đạo lý rành đường.
Nước Nam-Việt nhằm cõi Trung-Ương,
Sau sẽ có Phật Tiên tại thế.
Khuyên sư vãi bớt dùng của thế,
Gắng công tu đặng có xem đời.
Tu thật tâm thì được thảnh-thơi,
420. Tu giả-dối thì lao thì lý,
Khùng khuyên hết kẻ ngu người trí,
Rán tỉnh tâm suy nghĩ Đạo-mầu.
Chuyện huyền-cơ bí-hiểm cao sâu,
Hãy nghiệm xét hai đường tà chánh.
Các chư Phật không khi nào rảnh,
Tâm từ-bi vẫn nhớ chúng-sanh.
Các chư Thần tuần vãng năm canh,
Về Thượng-Giái tâu qua Thượng-Đế.
Sổ tội ác thì vô số kể,
430. Còn làm nhơn thì quá ít-oi.
Hội công-đồng xem xét hẳn-hòi,
Sai chư tướng xuống răn trần-thế.
Đau nhiều chứng dị-kỳ khó kể,
Sắp từ nay lao-khổ đến cùng.
Kẻ dương gian khó nổi thung-dung,
Người bạo ác không toàn tánh mạng.
Đường đạo-lý chớ nên chán-nản,
Hãy bền lòng tầm Phật trong tâm.
Phật Tây-Phương thiệt quá xa-xăm,
440. Phải tìm kiếm ở trong não trí.
Sau đến việc sơn băng kiệt thủy,
Khùng thảm thương bá-tánh quá chừng.
Nhìn xem trần nước mắt rưng-rưng,
Cảnh áo-não kể sao cho xiết.
Ta dạy-dỗ là vì tình thiệt,
Cho bá-gia rõ biết người Khùng.
Thấy dương-trần làm dữ làm hung,
Nên khuyên nhủ cho người lương-thiện.
Chữ Lục-Tự trì tâm bất viễn,
450. Thì lâm nguy có kẻ cứu mình.
Ai lòng nhơn hoặc chép hay in,
Mà truyền-bá đặng nhiều phước-đức.
Trong bá-tánh từ nay buồn bực,
Khùng yêu dân chỉ rõ Đạo mầu.
Rán trì tâm tưởng niệm canh thâu,
Nằm đi đứng hay ngồi chẳng chấp.
Việc biến chuyển Thiên-Cơ rất gấp,
Khuyên chúng-sanh hãy rán tu hành.
Cầu linh-hồn cho được vãng-sanh,
460. Đây chỉ rõ đường đi nước bước.
Hãy tưởng Phật đừng làm bạo ngược,
Ta phần hồn dạo khắp thế-gian.
Vào xác-trần nước mắt chứa-chan,
Khắp lê-thứ nghe lời thì ít .
Chốn sơn-lãnh bây giờ mù-mịt,
Cho nên dân dạy chẳng nghe lời.
Kể từ nay nói chuyện chiều mơi,
Chớ chẳng nói dông dài khó hiểu.
Cờ đã thất còn chờ nước chiếu,
470. Mà còn ăn con chốt làm chi.
Ai là người quân-tử tu mi?
Phải sớm xử thân mình cho vẹn.
Chừng lập Hội khỏi thùa khỏi thẹn,
Với Phật-Tiên cũng chẳng xa chi.
Lời cao-siêu khuyên hãy gắn ghi,
476. Ta ra sức dắt-dìu bá-tánh.

NAM-MÔ TAM-GIÁO QUI NGUƠN,
PHỔ-ĐỘ CHÚNG-SANH A-DI-ĐÀ PHẬT


BỬU ngọc vãng-lai rõ Đạo-mầu,
SƠN tầm hạnh Thích nẻo cao sâu.
KỲ giả thức tâm tìm Đạo-lý,
HƯƠNG tuyệt đăng lui bãi phục cầu.

DANH MỤC
  • Sấm Giảng
  • Thi Văn Giáo Lý

Đăng nhận xét

Cảm ơn Đạo Hữu đã đóng góp. Chúc Đạo Hữu một ngày an lạc! A Di Đà Phật