Giới thiệu
Ba phương pháp truyền đạo của Đức Huỳnh Giáo Chủ (tam độ nhứt như):
1. Chữa bệnh để truyền giáo:
Là bậc "sanh nhi tri", cho nên trong việc chữa trị, như Ngài đã nói trong Sứ mạng"...dùng huyền diệu của tiên gia...", để làm cho người hết bịnh với mục đích là dẫn dắt người đến chỗ cảm lòng từ bi mà quy y học Phật. Phương pháp chữa trị của Đức Huỳnh Giáo Chủ rất đơn giản. Tùy theo triệu chứng của bệnh nhân, lúc thì Ngài dùng nước lã, giấy vàng; lúc thì bông trang, lá bưởi...Một điều đáng để ý là mỗi khi trị bệnh cho người nào Ngài đều khuyên họ nên niệm PPhật, vì:
"Thành lòng nước lã nên hồ
Hữu tâm chí đức cam lồ Phật ban"
"Thành lòng nước lã nên hồ
Hữu tâm chí đức cam lồ Phật ban"
2. Thuyết pháp để truyền giáo:
Với đức Huỳnh Giáo Chủ, thì:
"Miệng nhích môi đầy văn tao nhã
Hạ bút thần thơ đã đề khai"
Từ tháng 5 năm 1939 đến 1945, Đức Huỳnh Giáo Chủ chu du khắp miền Nam mở hàng ngàn cuộc khuyến thuyết và khuyến nông quan trọng với nhiều đề tài khác biệt để truyền bá tôn giáo của Ngài và cứu đói miền Bắc do chiến tranh xâm lược của thực dân, phát xít gây ra.
3. Sáng tác Sấm, Thi để truyền bá giáo lý Phật giáo Hòa Hảo.
Ngài viết dù tản văn, vận văn; thi, họa hay đối đáp đều viết thẳng một mạch, không dùng giấy nháp. Những bài thi văn giáo lý vừa có giá trị giáo dục đạo đức làm người, vừa có tính văn chương tao nhã không những trong đồng đạo Phật giáo Hòa Hảo kính cẫn thuộc lòng mà trong giới văn nghệ sĩ ngoài đạo đều trân trọng.
Bài "Tình yêu" của Đức Huỳnh Giáo Chủ là một trong những thí dụ:
"Ta có tình yêu rất đượm nồng,
Yêu đời yêu lẫn cả non sông.
Tình yêu chan chứa trên hoàn vũ
Không thể riêng yêu khách má hồng
Nếu khách má hồng muốn được yêu
Thì trong tâm chí hãy xoay chiều
Hướng về phụng sự cho nhơn loại
Sẽ gặp tình ta trong khối yêu.
Ta đã đa mang một khối tình
Dường như thệ hải với sơn minh
Tình yêu mà chẳng riêng ai cả
Yêu khắp muôn loài lẫn chúng sinh."
Ngoài những thi, đối minh họa cho giáo lý, Ngài còn sáng tác Sấm Giảng, khuyên con người quày đầu hướng thiện, làm lành lánh dữ và tiên tri những việc xảy ra.
"Mèo kêu bá tánh lao xao
Đến chừng rồng rắn máu đào chỉn ghê
Con ngựa lại đá con dê
Khắp trong trần hạ nhiều bề gian lao
Khỉ kia cũng bị xáo xào
Canh khuya gà gáy máu đào mới ngưng."
Tiên tri thế chiến thứ II (Khởi đầu thế chiến thứ 2, Mèo kêu: 1939 đến khi chấm dứt chiến tranh, Gà gáy: 1945).
Bài "Tình yêu" của Đức Huỳnh Giáo Chủ là một trong những thí dụ:
"Ta có tình yêu rất đượm nồng,
Yêu đời yêu lẫn cả non sông.
Tình yêu chan chứa trên hoàn vũ
Không thể riêng yêu khách má hồng
Nếu khách má hồng muốn được yêu
Thì trong tâm chí hãy xoay chiều
Hướng về phụng sự cho nhơn loại
Sẽ gặp tình ta trong khối yêu.
Ta đã đa mang một khối tình
Dường như thệ hải với sơn minh
Tình yêu mà chẳng riêng ai cả
Yêu khắp muôn loài lẫn chúng sinh."
Ngoài những thi, đối minh họa cho giáo lý, Ngài còn sáng tác Sấm Giảng, khuyên con người quày đầu hướng thiện, làm lành lánh dữ và tiên tri những việc xảy ra.
Sấm giảng gồm sáu quyển:
Quyển Nhứt: KHUYÊN NGƯỜI ĐỜI TU NIỆM
văn lục bát, dài 912 câu, viết trước đệ nhị thế chiến, năm 1939:"Mèo kêu bá tánh lao xao
Đến chừng rồng rắn máu đào chỉn ghê
Con ngựa lại đá con dê
Khắp trong trần hạ nhiều bề gian lao
Khỉ kia cũng bị xáo xào
Canh khuya gà gáy máu đào mới ngưng."
Tiên tri thế chiến thứ II (Khởi đầu thế chiến thứ 2, Mèo kêu: 1939 đến khi chấm dứt chiến tranh, Gà gáy: 1945).
Quyển Nhì: KỆ DÂN CỦA NGƯỜI KHÙNG
văn thất ngôn trường thiên, dài 846 câu, viết xong năm 1939.
"Những giấy tiền vàng bạc cũng thôi
Chớ có đốt tiền vô lý...
...
Tu vô vi chẳng cúng chè xôi
Phật chẳng muốn chúng sanh lo lót"
Cũng như quyển thứ I, Đức Giáo Chủ tiên tri tai nàn sắp xảy đến cho nhân dân, khuyên mọi người làm lành lánh dữ và đánh đổ những mê tín, dị đoan, những âm thanh sắc tướng, những sự dối tu loè đời.
"Tu cầu cha mẹ thảnh thơi
Quốc vương thủy thổ chiều mơi phản hồi
Tu vô vi chẳng cúng chè xôi
Phật chẳng muốn chúng sanh lo lót"
Cũng như quyển thứ I, Đức Giáo Chủ tiên tri tai nàn sắp xảy đến cho nhân dân, khuyên mọi người làm lành lánh dữ và đánh đổ những mê tín, dị đoan, những âm thanh sắc tướng, những sự dối tu loè đời.
Quyển Ba:SÁM GIẢNG
văn lục bát, dài 612 câu, viết xong năm 1939."Tu cầu cha mẹ thảnh thơi
Quốc vương thủy thổ chiều mơi phản hồi
...
Tu đền nợ thế cho rồi
Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen"
Bài nầy Đức Huỳnh Giáo Chủ dặn mọi người đừng để bị vật chất, xa hoa lôi cuốn đến trụy lạc, đã phá cực lực những hủ tục và khuyên người làm tròn nhân đạo, giữ gìn luân lý, tam cang ngũ thường.
Tu đền nợ thế cho rồi
Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen"
Bài nầy Đức Huỳnh Giáo Chủ dặn mọi người đừng để bị vật chất, xa hoa lôi cuốn đến trụy lạc, đã phá cực lực những hủ tục và khuyên người làm tròn nhân đạo, giữ gìn luân lý, tam cang ngũ thường.
Quyển Tư:GIÁC MÊ TÂM KỆ
văn thất ngôn trường thiên, dài 846 câu, viết xong năm 1939
"Khai ngọn đuốc từ bi chí thiện
Tìm con lành dắt lại Phật đường...
...
Tỏ ít câu cầu chúc cho đời
Mong bá tánh vạn dân giải thoát"
Đây là bài dạy tín đồ tránh những tai họa hãi hùng xảy ra trong thời hạ ngươn mạt pháp. Giảng rõ về tứ đổ tường, tứ khổ, ngũ quẩn, lục căn, lục trần, tứ diệu đề, bát chánh và bát nhẫn. Đức Giáo Chủ khuyên tín đồ tu theo giáo lý chân truyền của Đức Phật, như:
"Ai chưỡi mắng thì ta giã điếc
Đợi cho người hết giận ta khuyên
Chữ nhẫn hòa ta để đầu tiên
Thì đâu có mang câu thù oán"
Quyển Năm: KHUYẾN THIỆN
đoạn nhứt và đoạn cuối viết bằng văn lục bát, đoạn giữa viết lối thất ngôn, dài 756 câu, viết xong năm 1942 tại Bạc Liêu; khởi đầu bằng câu:
"Băng tâm ngẫu hứng thừa nhàn"
Quyển Năm: KHUYẾN THIỆN
đoạn nhứt và đoạn cuối viết bằng văn lục bát, đoạn giữa viết lối thất ngôn, dài 756 câu, viết xong năm 1942 tại Bạc Liêu; khởi đầu bằng câu:
"Băng tâm ngẫu hứng thừa nhàn"
Và chấm dứt bằng câu:
"Rán trau đức hạnh ngày sau sẽ tường"
Nội dung Đức Giáo Chủ nhắc đến sử Đức Thích Ca và luận giải về tám sự khổ trong cõi ta bà, chỉ rõ về pháp môn tịnh độ, diệt ngũ trược trừ thập ác và hành thập thiện.
Quyển Sáu: NHỮNG ĐIỀU SƠ LƯỢC CẦN BIẾT CỦA KẺ TU HIỀN
(Tôn chỉ hành đạo), viết bằng văn xuôi, viết xong năm 1945. Lời văn giản dị mà lưu loát, dễ hiểu.Bài nầy Đức Giáo Chủ luận giải về tứ ân, tam nghiệp, thập ác và hành bát chánh đạo.Ngài còn canh tân trong việc thờ phượng, cúng lạy, nghi thức cử hành tang lễ, hôn nhân, đối nhân, xử thế, tôn trọng tôn giáo bạn và các tăng sư...
Phật giáo Hòa Hảo là nền Đạo chân truyền của Phật đạo do Đức Huỳnh Giáo Chủ khai sáng tại miền Nam Việt Nam. Giáo lý, thi văn của Ngài đều dùng chữ quốc ngữ; lời văn dễ học; phương pháp dễ hành, cách tu giản dị, bằng giáo pháp "học Phật - tu Nhân", tại gia cư sĩ.
HẾT