1.Tiếng Súng Bên Lầu
TIẾNG SÚNG BÊN LẦU
Nước non tan vở bởi vì đâu?
Riêng một ta mang nặng
khối sầu.
Lòng những hiến thân mưu độc-lập,
Nào hay tai họa áp bên
lầu.
Bên lầu tiếng súng nổ vang tai,
Trời đất phụ chi kẻ trí tài.
Mưu
quốc hóa ra người phản quốc
Ngàn thu mối hận dễ nào phai.
Từ ấy lao
mình vượt khổn nguy,
Băng rừng lội suối giả man-di.
Ngày mong ải Bắc
oan nầy giải,
Đem sức ra nâng lá quốc-kỳ.
Nhưng khổ càng mong càng
vắng bặt,
Trời Nam tràn ngập lũ Tây-di.
Biết bao đồng chí phơi xương
máu,
Thức-giả nhìn nhau hỏi tội gì ?
Vì tội không đành phụ nước
non,
Phô bày tiết-tháo tấm lòng son.
Ngăn phường sâu mọt lừa
dân-chúng,
Chẳng nệ thân-danh nỗi mất còn.
Nếu mất thôi đành xong món
nợ,
Nay còn há dễ ngó lơ sao ?
Dọc-ngang chí cả dù lao-khổ,
Thất
bại đâu làm dạ núng-nao.
Thất bại đâu làm dạ núng-nao,
Non sông bao
phủ khí anh-hào.
Phen nầy cũng quyết đền ơn nước,
Máu giặc nguyện đem
nhuộm chiến-bào.
Miền Đông, năm 1946.
(Trong khi Đức Thầy
ẩn lánh Việt-Minh và người Pháp vừa mới tái chiếm Nam-Việt).
2. Đồng Đảng Tương Tàn
ĐỒNG ĐẢNG TƯƠNG-TÀN
Người đồng đảng giết người đồng đảng,
Ai
Việt-Minh, Cộng-sản là ai ?
Đương cơn quyền lợi đắm say,
Anh hùng
chí-sĩ râu mày thế ư ?
Đưòng muôn dặm lời thư một khúc,
Giờ giặc đà
tá-túc nhà ta.
Ai ra nưng đỡ san-hà,
Ai ra cứu vớt nước nhà lâm nguy
?
Phát-xít sẽ tầm truy tàn-sát,
Không đảng nào mà thoát tai-ương.
Nghĩ
càng bực-tức đau-thương,
Giết nhau để lợi cho phường xâm-lăng.
Miền
Đông, năm 1946.
3. Chí Nam Nhi
CHÍ NAM NHI
Nam-nhi mang chí cả,
Bao tấm lòng sắt đá.
Thương
giống-nòi dẹp bả vinh-huê,
Lướt đạn bom giữ vững một lời thề:
Tàn-sát
hết quân thù xâm-lược.
Tranh độc-lập tự-do cho nước,
Cho giống nòi
rạng-rỡ trước năm châu.
Khí thiêng-liêng sông núi nhiệm-mầu,
Un-đúc
giống anh-hùng vang bốn bể.
Gương sáng ấy soi chung hậu-thế,
Anh em ôi
! theo dõi gót cùng ta.
Ra tay quét sạch san-hà,
Ra tay bồi-đắp nước
ta hùng-cường.
Miền Đông, ngày 10 tháng giêng Bính Tuất (1946).
4. Riêng Tôi
RIÊNG TÔI
Rứt áo cà-sa khoác chiến-bào,
Hềm vì nghịch cảnh qua
thương-đau.
Bên rừng tạm gởi thân cô-quạnh,
Nhìn thấy non sông suối lệ
trào.
Nhìn thấy non sông suối lệ trào,
Lòng nguyền giữ vững chí
thanh-cao.
Ai người mãi quốc cầu vinh nhỉ,
Hậu thế muôn thu xét thử
nào?
Hậu thế muôn thu xét thử nào?
Lòng nầy yêu nước biết là
bao?
Vì ai gieo-rắc điều hồ-mị,
Đành ngó non sông nhuộm máu đào.
Đành
ngó non sông nhuộm máu đào,
Thời-cơ độc nhứt cứu đồng-bào.
Muôn ngàn
chiến-sĩ chờ ra trận,
Bỗng vướng gông cùm chốn ngục-lao.
Miền
Đông, năm 1946.
5. Tiếng Chuông Cảnh Tỉnh
TIẾNG CHUÔNG CẢNH TỈNH
Hãy tỉnh giấc hỡi muôn ngàn chiến-sĩ,
Mở lòng
ra thương nghĩ sanh-linh.
Đồng-bào ai nỡ dứt tình,
Mà đem chém giết để
mình an vui.
Dù lúc trước nếm mùi cay đắng,
Kẻ độc-tài đem tặng cho
ta.
Sau nầy tòa-án nước nhà,
Sẽ đem kẻ ấy mà gia tội hình.
Lúc
bây giờ muôn binh xâm-lược,
Đang đạp vày non nước Việt-Nam.
Thù riêng
muôn vạn cho cam,
Cũng nên gác bỏ để làm nghĩa công.
Khắp Bắc Nam
Lạc-Hồng một giống,
Tha thứ nhau để sống cùng nhau.
Quí nhau từng giọt
máu đào,
Để đem máu ấy tưới vào địch quân.
Đứng anh-hùng vang lừng bốn
bể,
Các sắc dân đều nể đều vì.
Đồng-bào nỡ giết nhau chi,
Bạng
duật tương trì lợi lũ ngư-ông.
Hỡi những kẻ có lòng yêu nước,
Nghe lời
khuyên tỉnh được giấc mê.
Anh em lớn nhỏ quày về,
Hiệp nhau một khối
chớ hề phân ly.
Đả-đảo bọn Nam-kỳ nô-lệ,
Kiếp cúi lòn thế-hệ qua
rồi.
Lời vàng kêu gọi khắp nơi,
Anh em chiến-sĩ nhớ lời ta khuyên.
(Viết
vào lối tháng 2 tại Miền-Đông, năm 1946 để khuyên anh em tín-đồ Hòa-Hảo chấm dứt
các cuộc xung-đột với Việt-Minh).
6. Quyết Rứt Cà Sa
QUYẾT RỨT CÀ-SA
Thấy dân thấy nước nghĩ mà đau,
Quyết rứt cà-sa khoác
chiến-bào.
Đuổi bọn xâm-lăng gìn đất nước,
Ngọn cờ độc-lập phất-phơ
cao.
Ngọn cờ độc-lập phất-phơ cao,
Nòi giống Lạc-Hồng hiệp sức
nhau.
Tay súng tay gươm xông trận địa,
Dầu cho giặc mạnh há lòng
nao.
Dầu cho giặc mạnh há lòng nao,
Nam-Việt ngàn xưa đúc khí hào.
Lúc
giặc xâm-lăng mưu thống-trị,
Anh-hùng đâu sá cảnh gian-lao.
Anh-hùng
đâu sá cảnh gian-lao,
Chiến-trận giao-phong rưới máu đào.
Miễn đặng
bảo-tồn non nước cũ,
Giữ an tánh mạng cả đồng-bào.
Miền Đông,
năm 1946.
7. Tặng Hội Đồng Cố Vấn Nam Kỳ
TẶNG HỘI-ĐỒNG CỐ-VẤN NAM-KỲ
Tám ông Cố-vấn Hội-đồng,
Phùng mang trợn mắt ra công bán nòi.
Hô hào nghinh-tiếp quân voi,
Về vày mộ tổ để vòi mề-đay.
Thinh múa mỏ, Phát khoe tài,
Nam-Kỳ hiến-pháp sắp bày mị dân.
Nào là chấn-chỉnh (củng-cố) hương-lân,
Để cho lũ chó làm sân săn mồi.
Vụng-về thay, bọn Tây-bồi !
Sắm tuồng vẽ mặt mà giồi phấn đen.
Ngàn muôn cử-chỉ đê-hèn,
Cúi lòn, bưng bợ tập rèn công phu.
Lòng mong dân nước dại ngu,
Để đám nghị mù tự-tiện làm quan.
Nào ngờ trong lúc dở-dang,
Nghị Phát vắn số suối vàng vội đi.
Nghị Thinh lụy nhỏ lâm-ly,
Than rằng bạn nỡ bỏ đi giữa chừng !
Họp bàn tính kế trùng hưng,
Vợ bạn đã nửa chừng xuân nhưng còn,
Ra tay dìu-dắt bốn con,
Suối vàng bạn hỡi lòng còn ghen không?
Muôn dân như chửa vừa lòng,
Ước sao cả lũ vào tròng Diêm-La.
Từ nay trong nước Nam ta,
Thề rằng chẳng chịu đẻ ra giống nầy.
Miền Đông, năm 1946.
8. Nghị Thinh với cao-ủy-ỦY D’ARGENLIEU
NGHỊ THINH VỚI CAO-ỦY D’ARGENLIEU
NGHỊ THINH:
Dạ dạ … Dám bẩm quan Cao-Ủy,
Thậm chí nguy, thậm cấp
chí nguy !
Rối beng trật-tự Nam-Kỳ,
Bạn tôi Nghị Phát mạng phi mất
rồi.
Còn bảy ông ngồi trơ mỏ chó,
Lòng những lo sóng gió bất kỳ.
Nếu
không phương pháp phòng nguy,
Ức tình tôi sẽ điện đi hoàn-cầu.
Cho
thế-giới góp thâu tài-liệu,
Rằng Việt dân chẳng chịu phục tòng.
Thế
nầy cai-trị sao xong,
Trả nước lại nó mới hòng ngủ yên.
D’ARGENDIEU:
Quan Cao-Ủy mặt liền sầm lại,
Lũ dân gì kỳ quái lạ thường.
Máy bay tàu
chiến biểu-dương,
Rõ-ràng Đại-Pháp hùng-cường thế ni.
Mà chúng vẫn
khinh-khi sự chết,
Chẳng lẽ ta giết hết trẻ già.
Bằng không, muốn dứt
can-qua,
Giao cho việc nước việc nhà nó toan.
Mình làm khách bàng-quan
thì khoẻ,
Nước Việt-Nam son trẻ ra đời.
Cộng-hòa đem lại khắp nơi,
Muôn
dân an-lạc thảnh-thơi phú-cường.
NGHỊ THINH:
Nghị Thinh nghe bèn òa tiếng
khóc,
Thế còn công khó nhọc tôi đâu ?
D’ARGENDIEU:
Mua cho ông một vé
tàu,
Ba-ri đến đó ngõ hầu dung thân.
Miền Đông, năm 1946.
9. Tình Yêu
TÌNH YÊU
Ta có tình yêu rất đượm nồng,
Yêu đời yêu lẫn cả non sông.
Tình
yêu chan-chứa trên hoàn-vũ,
Không thể yêu riêng khách má hồng.
Nếu
khách má hồng muốn được yêu,
Thì trong tâm chí hãy xoay chiều.
Hướng
về phụng-sự cho nhơn-loại,
Sẽ gặp tình ta trong khối yêu.
Ta đã đa
mang một khối tình,
Dường như thệ-hải với sơn-minh.
Tình yêu mà chẳng
riêng ai cả,
Yêu khắp muôn loài lẫn chúng-sinh.
Miền Đông, năm
1946.
(Một thiếu-nữ ở Sài Gòn thầm yêu Đức Thầy trong khi Ngài còn ẩn
lánh V.M và Pháp; thấy vậy, Đức Thầy bèn viết ba bài thi trên đây để cảnh tỉnh
cô ấy).
10. Lấy Chồng Chệt
LẤY CHỒNG CHỆT
Lúc Đức Thầy đang ẩn lánh 1946, Ngài có gặp một cô gái Việt
lấy chồng Ngô.
Tức cảnh, Ngài có làm bài thi sau đây (dùng biệt hiệu
Hoài-Việt):
Cô ơi, nước Việt-Nam thiếu gì trai trẻ,
Mà vội đi
lấy lẽ “ba Tàu” ?!
Của tiền quí báu là bao,
Đem tuổi mười tám so vào
bốn mươi ?
Rồi nuôi tánh biếng lười mê ngủ
Để ngày kia ủ-rủ đau
thương.
Khi ba Tàu xách gói hồi hương,
Vàng bạc tóm, bỏ cô
thơ-thẩn.
Cô nhìn theo muôn vàn tiếc hận,
Cô vì chàng mà bẩn
tiết-trinh.
Cô tủi thân, cô lại bất bình,
Nhưng muộn quá, tuổi xuân
không trở lại.
Trông tương-lai cô đầy sợ hãi,
Hoa úa tàn người lại rẻ
khinh.
Cô tiếc rằng phải tuổi còn xinh (xanh),
Cô sẽ chọn người chồng
Nam-Việt.
Ở trong hàng thanh-niên, thanh-niết,
Tuy nghèo hèn mà biết
thủy chung.
Yêu đương nhau đến phút cuối cùng,
Vợ chồng ấy mới chân
hạnh-phúc.
Ta là khách phương xa tá-túc,
Thấy sự đời vẽ khúc
văn-chương.
Thấy đời cô chìm-đắm trong gió sương,
Than ít tiếng gọi
hồn chủng-loại.
Việt-Nam ! người Việt-Nam mau trở lại !
Yêu giống nòi
có phải hơn không ?
Dầu sao cũng giống Lạc-Hồng !
Miền Đông, năm
1946.
11. TUYÊN NGÔN của ĐẢNG VIỆT-NAM DÂN-CHỦ XÃ-HỘI
TUYÊN NGÔN của ĐẢNG VIỆT-NAM DÂN-CHỦ XÃ-HỘI
Việt-Nam Dân-Xã Đảng, một đảng quốc-gia tranh-thủ sự tự-chủ hoàn-toàn của dân-tộc, củng-cố nền độc-lập quốc-gia và cấu-tạo xã-hội Việt-Nam mới.
Sở dĩ Đảng đặt vấn-đề độc-lập quốc-gia trước các vấn-đề khác là vì:
1.- Trên lập-trường quốc-tế, nước Việt-Nam có được độc-lập, dân-tộc Việt-Nam mới được sống bình-đẳng với dân-tộc khác; dân-tộc bình-đẳng nhau mới chủ-trương được dân-tộc hiệp-lực, mới kiến-thiết được hoà-bình xác-thực cho thế-giới.
2.- Dân-tộc Việt-Nam được tự-chủ và mạnh mới tránh khỏi sự chi-phối của đế-quốc chủ- nghĩa để thi-hành một cách có hiệu-quả những biện-pháp chánh-trị và kinh-tế, đem lại hạnh-phúc cho các tầng lớp dân-chúng.
Việt-Nam Dân-Xã Đảng là một đảng dân-chủ, chủ-trương thiệt-thi triệt-để nguyên-tắc chánh-trị của chủ-nghĩa dân-chủ: “chủ-quyền ở nơi toàn-thể nhân-dân”.
Đã chủ-trương “Toàn dân chánh-trị” thế tất đảng chống độc-tài bất cứ hình-thức nào.
Việt-Nam Dân-Xã Đảng là một đảng cách-mạng xã-hội, chủ-trương tổ-chức nền kinh-tế theo nguyên-tắc chủ-nghĩa xã-hội: không để giai-cấp mạnh cướp công-quả của giai-cấp yếu, làm cho mọi người đều được hưởng phúc-lợi cân-xứng với tài-năng và việc làm của mình; những người tàn-tật yếu đuối thì được nuôi dưỡng đầy đủ.
Đặc điểm của Việt-Nam Dân-Xã Đảng là, trong giai-đoạn hiện tại, không chủ-trương giai-cấp đấu-tranh giữa dân-tộc Việt-Nam vì lẽ ở xã-hội Việt-Nam hiện thời, trên 80 năm bị-trị, chỉ có một giai-cấp bị “tư-bản thực-dân” bóc-lột.
Muốn tránh khỏi giai-cấp đấu-tranh về sau, thì sự cấu-tạo “xã-hội Việt-Nam mới” phải căn-cứ nơi những yếu-tố không cho sanh-trưởng giai-cấp bóc-lột và chỉ trợ-trưởng một giai-cấp một, tức là giai-cấp sanh-sản.
12. Chương trình của Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng
CHƯƠNG-TRÌNH của ĐẢNG VIỆT-NAM DÂN-CHỦ XÃ-HỘI
I- CHÁNH TRỊ
a./ Đối ngoại:
1.- Căn cứ vào
chánh-sách (1) của Liện-Hiệp-Quốc (O.N.U.) và sự bảo-vệ chung nền hòa-bình,
cộng-tác với các dân-tộc khác trên lập-trường tự-do và bình-đẳng.
2.-
Tranh-đấu giải-phóng dân-tộc, đem lại độc-lập cho nước nhà.
3.- Thừa-nhận
quyền dân-tộc tự-quyết của các dân-tộc nhược-tiểu. Đoàn-kết với các dân-tộc ấy
để chống đế-quốc xâm-lăng.
b./ Đối nội:
4.- Nước Việt-Nam có một: ba bộ
Trung-Nam-Bắc gồm một.
5.- Củng-cố chánh-thể Dân-Chủ Cộng-Hoà bằng cách
đảm-bảo tự-do dân-chủ cho toàn dân.
6.- Ủng-hộ Chánh-Phủ Trung-Ương về mặt
tranh-thủ thống-nhứt và độc-lập.
7.- Liên-hiệp với các đảng-phái để chống
họa thực-dân.
8.- Chủ-trương “toàn dân chánh-trị”.
9.- Chống độc-tài
bất cứ hình-thức nào.
II - KINH TẾ
a./ Nguyên-tắc chung:
– Trọng
quyền tư-hữu tài-sản đến một độ không có hại đến đời sống công-cộng.
–
Dự-bị: Một phần xí-nghiệp quốc-gia (Secteur de l’État).
– Một phần tự-do
cho tư-nhân và ngoại-kiều (Secteur libre pour Vietnamiens et Étrangers).
–
Thi-hành những biện-pháp không cho bóc-lột công-nhân.
b./ Nông-nghiệp:
1.-
Di dân để mở đất hoang.
2.- Lập đồn-điền quốc-gia, lập làng kiểu-mẫu theo
chủ-nghĩa xã-hội đồn-điền.
3.- Mua lại đồn-điền bị tập-trung quá độ để bán
lại cho nông-dân hoặc để cho quốc-gia.
4.- Lập bình-dân ngân quỹ và lập
hợp-tác-xã sản-xuất để giúp nông-dân mua dụng-cụ và máy móc (cày, gặt, vận-tải
…) hợp-tác-xã để tránh nạn trung-gian.
5.- Phổ-thông khoa-học để gia-tăng
sản-xuất nông-nghiệp, chăn-nuôi, thủy-lợi, lâm-sản …
c./ Công-nghệ:
1.-
Mở-mang khí-cụ cần-thiết cho sự khuếch-trương nền kinh-tế quốc-gia.
2.-
Lần-lượt phát-triển kỹ-nghệ cần-yếu, bắt đầu từ kỹ-nghệ nhẹ.
d./ Thương-mãi:
Lập
hợp-tác-xã tiêu-thụ bán vật-dụng cần-thiết từ thành-thị, từ làng.
e./ Tài-chánh:
Lập ngân-hàng quốc-gia.
III.- XÃ-HỘI
1.- Bài-trừ thuốc phiện, rượu mạnh, cờ-bạc, mãi-dâm, tham-ô.2.- Thi-hành triệt-để luật xã-hội.
3.- Cải-thiện và nâng cao đời sống tinh-thần và vật-chất của dân cày và thầy thợ bằng cách mở thật nhiều cơ-quan y-tế, giáo-dục, cứu-tế, nhà bảo-sanh, ấu-trỉ viện, nhà dưỡng-lão, nhà thương, trường học, nhà hát bóng … làm cho dân cày cũng hưởng được những ích-lợi của khoa-học như thầy thợ ở đô-thị.
lV.- VĂN-HÓA
1.- Bài-trừ văn-hóa nô-lệ.2.- Sơ-học, tiểu-học cưỡng-bách và vô-phí.
3.- Giáo-dục chuyên-môn, tổ-chức du-học, cấp học-bổng.
4.- Lập cơ-quan điều-hướng nghề-nghiệp.
V.- THANH-NIÊN
1.- Tổ-chức thanh-niên thành đoàn-thể và huấn-luyện cho thành người thích-ứng với thời-đại mới.2.- Mở quán, trạm, nhà hội, sân vận-động cho thanh-niên.
Vl.- BINH-BỊ
1.- Thành-lập một đội binh phòng-vệ.2.- Mở lớp dự-bị quân-sự phòng-vệ từng làng trong một thời hạn ngắn.
3.- Mở trường đào-tạo sĩ-quan, gởi võ-quan cao cấp đi tập-sự ở ngoại-quốc.
4.- Mở lớp huấn-luyện đặc-biệt cho sĩ-quan và quân-sĩ của các đạo quân muốn gia-nhập đạo binh thường-trực quốc-gia.
_________________________________
- Có bản chép là: căn cứ vào hiến-chương của Liên-Hiệp-Quốc (Charte des Nations-unies).
13. Tế Chiến Sĩ Trận Vong Ở Vườn Thơm
TẾ CHIẾN-SĨ TRẬN VONG Ở VƯỜN THƠM
Trên linh-tọa hương trầm nghi-ngút,
Tấc
lòng thành cầu chúc vong linh.
Sa-trường hỡi các sĩ-binh,
Vườn Thơm
tuyệt mạng hiến mình non sông.
Thiệt chẳng hổ giống-dòng Nam-Việt,
Từng
nêu cao khí-tiết Lạc-Hồng.
Đã mang lấy nợ non sông,
Quyết lòng báo
quốc tồn vong sá gì.
Gương yêu nước đáng ghi đáng nhớ,
Chí hy-sinh
nhắc nhở mai sau.
Sống không hổ kiếp anh-hào,
Không ham tiền bạc sang
giàu cá-nhân.
Thân chiến-sĩ vì dân vì nước,
Vì tự-do hạnh-phước
đồng-bào.
Bao nài nguy hiểm gian lao,
Một năm kháng-chiến ra vào
chông-gai.
Bom đạn thét không phai tâm ý,
Súng gươm rền nung chí
hùng-anh.
Quyết đem xương máu hy-sanh,
Hy-sanh cứu nước rạng danh muôn
đời.
Thù giặc Pháp làm người phải trả,
Trừ tham quân bởi quá
ngang-tàng.
Nước mất đâu dễ ngồi an,
Mượn gươm Lê, Lý dẹp tan quân
thù.
Ngày hôm ấy tàn thu sương đượm,
Quân Pháp đem lực-lượng
tấn-công.
Máy bay, tàu thủy, súng đồng,
Lục-quân cơ-khí quyết lòng hại
dân.
Chúng gặp phải liên-quân anh-dũng,
Hạ phi-cơ, tuốt súng, lấy
bom,
Quanh tàu vây chặt mấy vòng,
Cả kinh giặc Pháp phục tòng rút
lui.
Phận rủi-ro riêng xui mạng bạc,
Khiến anh-hùng cỡi hạc xa bay.
Nước
non đang thiếu anh-tài,
Tử thần vội cướp đưa ngay chầu Trời.
Hồn tử-sĩ
nghe lời than tiếc,
Trừ tham quân tận diệt xâm-lăng.
Nam binh sát-khí
đằng đằng,
Thề-nguyền thành lũy đạp bằng mới thôi.
Kẻ chết đã yên rồi
một kiếp,
Người sống còn tái tiếp noi gương.
Lòng thành thắp một tuần
hương,
Vái hồn liệt-sĩ bốn phương tựu về.
Nơi làng vắng cam bề đơn
giản,
Lễ mọn nầy trước án bày ra,
Hiển-linh xin chứng gọi là …
Quéo-Ba,
ngày 1-10-46 (Bính-Tuất).
14. Cụ Phạm Thiều - Mời Đức Thầy Tham Chánh
CỤ PHẠM-THIỀU MỜI ĐỨC THẦY THAM-CHÁNH
Mưa gió thâu canh mãi dập-dồn,
Âm-u tràn ngập cả
càn-khôn.
Hỡi ai thức ngủ trong đêm ấy,
Có thấu tai chăng tiếng
quốc-hồn ?
Sao còn khoắc-khoải nhớ hiềm xưa ?
Trang sử chùi đi những
vết nhơ.
Gìn-giữ tim son không chút bợn,
Mặc tòa dư-luận thấu hay
chưa.
Sao còn lãnh-đạm với đồng bang,
Toan trút cho ai gánh trị-an
?
Thảm kịch “tương-tàn” chưa hết diễn,
Long-Xuyên Châu-Đốc lụy muôn
hàng.
Sao còn ngần-ngại chẳng ra tay,
Trước cảnh xâm-lăng cảnh đọa-đày
?
Ngọn lửa binh đao lan khắp đất,
Phật Trời soi thấu cũng châu mày.
Chẳng
áo cà-sa, chẳng chiến-bào,
Về đây tham-chánh mới là cao.
Non sông chờ
đợi người minh-triết,
Chớ để danh thơm chỉ Võ-Hầu.
TRƯỜNG-PHONG
(biệt
hiệu của cụ Phạm-Thiều)
ĐỨC THẦY họa:
Những nỗi đau thương
mãi dập-dồn,
Càng nhiều luân-lạc lại càng khôn.
Lặng nhìn thế sự nào
ai ngủ !
Chờ dịp vung tay dậy quốc-hồn.
Từ-bi đâu vướng mối hiềm
xưa,
Nhưng vẫn lọc-lừa bạn sạch nhơ.
Nếu quả tri-âm tri-ngộ có,
Thì
là hiệp-lực hiểu hay chưa ?
Nhìn sang Trung-quốc khách lân bang,
Cứ cố
xỏ ngầm sao trị an ?
Nếu thiệt hai bên đồng hiệp trí,
Kẻ gây thảm kịch
phải qui hàng.
Lắm kẻ chực hờ đặng phổng tay,
Mà sao chánh-sách bắt
dân đày.
Vẫn còn áp-dụng vì phe đảng,
Chẳng muốn xông ra sợ cháy
mày.
Thà ở trong quân mặc chiến-bào,
Ngày qua sẽ biết thấp hay cao.
Nào
ai dám sánh mình minh-triết,
Mà dám lăm-le mộng Võ-Hầu.
HOÀNG-ANH
(biệt
hiệu của Đ.T.)
Miền Đông, ngày 1 tháng 10-1946.
15. Đức Huỳnh Giáo Chủ Tuyên Bố
ĐỨC HUỲNH GIÁO-CHỦ TUYÊN-BỐLỜI TÒA-SOẠN
Ông Huỳnh-Phú-S.. tức Giáo-Chủ Phật-Giáo Hòa-Hảo. Người đã có một lịch-sử chánh-trị cận-đại ở Nam-Bộ, người ta đã nói về Ông rất nhiều. Kế sau nầy các báo đều đăng tin rằng Ông có dự vào U.B.H.C.N.B.
Nhớ lại đoạn đường đã qua, nhiều người phân-vân.
Để trả lời chung, hôm nay Ông Huỳnh-Phú-S.. nhờ chúng tôi đăng bài tuyên-bố để trả lời: “Vì sao tôi tham-chánh”. Chúng tôi sẵn-sàng đưa ra trước dư-luận:
Tháng tám năm 1945, Phát-xít Nhựt đầu hàng không điều-kiện. Tin ấy bay ra làm cho tất cả dân-chúng Việt-Nam từ nhà lãnh-đạo cách-mạng cho đến đại-chúng cần-lao, mọi người đều nhận thấy một ánh sáng của quê-hương chói dậy. Giờ thiêng-liêng của lịch-sử đã đến; sự hoạt-động bí-mật nhường chỗ cho sự hoạt-động công-khai.
Tôi, một đệ tử trung-thành của đạo Phật, một chiến-sĩ trì chí của phong-trào giải-phóng dân-tộc Việt-Nam sẵn-sàng cùng đoàn-thể mình cương-quyết đứng dậy đáp lại tiếng gọi của non sông, cương-quyết tranh-đấu để bảo-vệ quyền-lợi chung cho nòi giống.
Tiếc vì một hoàn-cảnh đặc-biệt đau thương buộc tôi phải dung mình trong non cao rừng thẳm. Sự độc-đoán, sự ngờ-vực đã đưa đến chỗ chia-ly, mà kẻ thức-thời nhìn qua sự thật không khỏi ngậm-ngùi than-trách. Một năm trời biến-cố, dấu tang-thương gieo khắp trời Nam, song cảnh cam-go ấy tôi muốn tìm phương cứu chữa, nhưng khốn thay, bị đứt mối liên-lạc với Trung-Ương và các đồng- chí, nên đành nuốt hận và nhìn bọn xâm-lăng tung-hoành trong đất nước. Lúc ấy tất cả quần- chúng của tôi, Ban chỉ-huy cao-cấp không còn.
Ban chỉ-huy địa-phương tan rã, họ bơ-vơ như bầy chim lạc đàn không nơi nương dựa, mà còn phải trải qua những giờ phút hãi-hùng, rồi nén lòng chờ đợi cứu-tinh, rồi tuyệt vọng. Khi quân giặc đến, không ai chỉ-đạo cho họ tranh-đấu, nỗi lòng hoang-mang xui cho những phần-tử quá trung-thành mà nông-nổi không dằn được khí phẩn-uất nên họ đi tới chỗ xung-đột vô ý-thức.
Tháng 2 năm 1946, tôi vừa bắt được liên-lạc và hiểu rõ tình-trạng đau đớn trên thì liền dùng đủ biện-pháp làm cho cuộc xô-xát âm-thầm chấm- dứt. Hơn nữa, trên các mặt trận, cũng cố-gắng tìm cách ủng-hộ chiến-sĩ về hai phương-diện vật-chất lẫn tinh-thần, đồng thời xếp đặt các chiến-sĩ mình vào một tổ-chức quân-sự, chen vai thích cánh với đồng-bào trong cuộc kháng-chiến.
Hôm nay, nhận rõ cuộc tranh-đấu cho tổ-quốc còn dài và cần nhiều nỗ-lực, hưởng-ứng với tiếng gọi đại đoàn-kết của Chánh-phủ Trung-Ương, tôi quyết-định tham-gia hành-chánh với mục-đích nầy:
1.- Để cho quốc-dân và chánh-phủ thấy rằng chúng tôi chủ-trương thống-nhứt lãnh-thổ và độc-lập quốc-gia.
2.-Để biểu-dương tinh-thần đoàn-kết của dân-tộc hầu mau đem thắng-lợi cuối cùng.
3.- Để tỏ cho các đảng phái thấy rằng chúng tôi không khi nào có những tham-vọng cao sang vương-bá hay vì hềm riêng mà hờ-hững với phận-sự cứu-quốc.Biểu-lộ tấm lòng thành thật ấy, tôi chỉ nhận một nhiệm-vụ cần-thiết, hạp với hoàn-cảnh và năng-lực mình, cố-gắng giàn-xếp về hành-chánh và quân-sự để củng-cố và tăng-cường lực-lượng của quốc-gia.
Đối với toàn-thể tín-đồ Phật-Giáo, tôi vẫn không quên rằng tôi là một đệ-tử trung-thành của Đức Phật Thích-Ca, tôi tin chắc rằng giáo-lý giải-thoát chúng-sanh chẳng những được truyền-bá ở Thiền-lâm mà còn phải thực-hiện trên trường chánh-trị.
Đối với các đồng-chí hiện đang cùng tôi đeo-đuổi một chương-trình Dân-Chủ Xã-Hội, tôi tuyên-bố luôn luôn sát cánh với họ để chung lo gầy-dựng một nước Việt-Nam công-bình và nhơn-đạo, một nước Việt-Nam tương-xứng với các nước Dân-chủ tiền-tiến trên hoàn-cầu.
16. Ông Hồn Quyên (ở Sài Gòn) vào Chiến Khu Phỏng Vấn Đức Huỳnh Giáo Chủ
ÔNG HỒN-QUYÊN (Ở SÀI GÒN) VÀO CHIẾN-KHU PHỎNG-VẤN ĐỨC HUỲNH-GIÁO-CHỦ
Vấn.- Ông có thể cho chúng tôi biết về tổ-chức quân-sự và
hành-chánh trong đoàn-thể của ông chăng ?
Đáp.- Tôi không thể nói cho
ông rõ tất cả những chi-tiết của tổ-chức ấy. Nhưng về đại-cương tôi có thể nói
rằng cách chừng sáu tháng nay, những chiến-sĩ trong hàng-ngũ của tôi, khi họ
nghe tôi còn sống, họ bắt đầu tập-họp lại thành những bộ-đội kháng-chiến ở khắp
các tỉnh miền Tây. Tuy không trực-tiếp liên-lạc với Chánh-phủ Trung-Ương nhưng
họ cũng lấy tên là Vệ-Quốc Đoàn để tỏ rằng lúc nào họ cũng theo sự hướng-đạo của
Chánh-Phủ mà tranh-đấu. Từ nay về sau các bộ-đội ấy liên-lạc trực-tiếp vơi các
khu-trưởng trong vùng của họ để nối hệ-thống thành đạo quân chánh-qui của nước
Việt-Nam.
Về hành-chánh chúng tôi không có tổ-chức nào riêng biệt.
Chỉ có những tổ-chức để ủng-hộ cuộc kháng-chiến, trong các làng-mạc. Hiện thời
chúng tôi đã ra chỉ-dụ cho các tổ-chức ấy phải xem xét chương-trình tổ-chức
chung của Chánh-Phủ để sáp nhập vào các cơ-quan chánh-thức của Chánh-Phủ.
Vấn.-
Chúng tôi nghe nói hình như ở Hậu-Giang còn vài cuộc rắc-rối do tín-đồ ông gây
ra. Có phải vậy không ?
Đáp.- Từ trước tới nay, tôi đã nghe rất nhiều
lời phê-bình của một số đồng-bào về những hành-động vô ý-thức của một nhóm
tín-đồ tôi. Hôm nay nhơn-dịp gặp ông, tôi xin thanh-minh và đính-chánh về những
lời đồn-đãi đó. Tôi quả-quyết với ông rằng: Tất cả tín-đồ có học-thức và những
người hiểu biết được rõ-ràng một vài phần trong giáo-lý chơn-chánh của đạo Phật
thì trong thời đã qua họ đã thiệt hành được lời dạy bảo của Đức Phật là lấy lòng
nhơn-hậu mà đối-đãi với sự thù-oán mặc dầu trong đó họ bị đau khổ nhiều.
Còn
riêng về những cuộc xô-xát vừa qua là do sự phẩn-uất của một nhóm võ-sĩ mà tôi
đã kết nạp vào hàng-ngũ Bảo-An Đội, bởi vì cửa Phật luôn luôn mở rộng cho bất cứ
một chúng-sanh nào muốn trở về với Đạo mà tôi thấy họ rất cần-thiết cho
phong-trào tranh-đấu để giải-phóng dân-tộc.
Hiện nay, nếu quả thật
như lời ông nói, còn một vài cuộc rắc rối là do những bọn bất lương mà trong tất
cả thời loạn nào cũng có, mượn danh-nghĩa của ông Trần-văn-Soái tự là Năm-Lửa để
bóc lột lương dân. Nhưng chính ông Năm Lửa đang nỗ-lực tiểu-trừ bọn ấy và cũng
đang phải đối-phó với những bọn phản-động trong hàng ngũ binh-đội Pháp, sau ngày
30-10, ở một vài nơi còn tiếp-tục khủng bố chúng tôi và dân-chúng, như 16 người
trong hàng ngũ chúng tôi bị bắn và đánh chết trong lúc ban đêm tại Lấp-Vò chẳng
hạn. Còn toàn thể đều tuân theo lịnh ngưng-chiến theo tinh-thần của Thỏa-Hiệp-Án
14-9.
Vấn.- Vậy sau khi ông tham-chánh tình-hình tín-đồ của ông ở
Hậu-Giang thế nào ?
Đáp.- Một năm qua, tôi mất hẳn liên-lạc trong sáu
tháng đầu. Từ tháng hai, sau khi tôi có vài liên-lạc gián-tiếp thì những
xung-đột dữ-dội ngừng dứt rõ-rệt. Tuy vậy, không tránh khỏi vài sự xung-đột nhỏ
giữa hai bên. Nó có tánh-cách cá-nhơn hơn là tánh-cách toàn-thể như trước, vì
tôi và những người cấp trên Việt-Minh không gặp-gỡ nhau nên những huấn-lịnh
nghiêm-trị của một bên không được hiệu-lực toàn-vẹn. Theo những báo-cáo mấy hôm
nay thì sau khi tôi tham-chánh, quần-chúng của tôi bắt đầu có một sự tín-nhiệm ở
nơi sự hiệp-tác giữa đôi bên và sự tham-chánh của tôi cáo-chung những
tuyên-truyền láo-khoét, phao-vu từ trước tới giờ. Những sự tuyên-truyền đó đã
làm cho toàn-thể bị tủi-nhục.
Vấn.- Trong việc tham-chánh, ông có
đại-biểu cho một chánh đảng nào không ?
Đáp.- Về dĩ-vãng, sự
hoạt-động của tôi xuất phát trong địa-phận Phật-giáo và kết nạp được hơn triệu
tín-đồ. Thể theo tinh-thần đại đoàn-kết của toàn dân, tôi thay mặt cho đám
quần-chúng đó mà tham-gia hành-chánh về mặt tinh-thần. Nhưng trong sự hoạt-động
để kiến-thiết quốc-gia về mặt chánh-trị thì tôi sẽ là đại-biều cho chánh đảng
nào có một chương-trình dân-chủ xã-hội.
Vấn.- Như vậy xin ông cho
biết lý-tưởng chánh-trị của ông có liên-quan với giáo-lý nhà Phật không ?
Đáp.-
Theo sự nhận-xét của tôi về giáo-lý nhà Phật do nơi Đức Thích-Ca Mâu-Ni Phật đã
khai-sáng lấy Chủ-nghĩa từ-bi bác-ái đại-đồng đối với tất cả chúng-sanh làm nòng
cốt thì tôi nhận Ngài là một nhà cách-mạng triệt-để về tư-tưởng; vì những câu
“Nhứt thiết chúng-sanh giai hữu Phật tánh” và “Phật cũng đồng nhứt thể bình-đẳng
với chúng-sanh”.
Đã có những sự bình-đẳng về thể-tánh như thế mà
chúng-sanh còn không bằng được Đức Phật là do nơi trình-độ giác-ngộ của họ không
đồng đều, chớ không phải họ không tiến-hóa ngang hàng với chư Phật được. Nếu
trong cõi nhơn-gian nầy còn có chúng-sanh tiền-tiến áp-bức những chúng-sanh
lạc-hậu thì là một việc trái hẳn với những giáo-lý chơn-chánh ấy. Giáo-lý đó,
Đức Thích-Ca Mâu-Ni không áp-dụng được một cách thiết-thực trong đời của Ngài là
do nơi hoàn cảnh xã-hội Ấn-Độ xưa không thuận-tiện. Thế nên
Ngài chỉ
phát-dương cái tinh-thần đó mà thôi. Ngày nay, trình-độ tiến-hoá của nhơn-loại
đã tới một mức khả-quan, đồng thời với tiến-bộ về khoa-học thì ta có thể
thực-hành giáo-lý ấy để thiệt-hiện một xã-hội công-bằng và nhơn-đạo. Thế nên với
cái tâm-hồn bác-ái, từ-bi mà tôi đã hấp-thụ, tôi sẽ điều-hòa với phương-pháp
tổ-chức xã-hội mới, để phụng-sự một cách thiết-thực đồng-bào và nhơn-loại.
Vấn.-
Trước khi từ-giã, xin ông cho biết đời sống ở bưng-biền có ảnh-hưởng chi tới sự
hành Đạo của ông chăng ?
Đáp.- Với sự hành Đạo của tôi cảnh sống nào
tôi cũng có thể sống được. Cái hành Đạo đúng theo ý-tưởng xác-thực của nó là làm
thế nào phát-hiện được những đức tánh cao cả và thực-hành trên thiệt-tế bằng mọi
biện-pháp để đem lại cái phước-lợi cho toàn-thể chúng-sanh thì đó là sự thỏa-mãn
trong đời hành Đạo của mình, chớ những sự tùy-tiện về vật-chất đối với tôi,
không có nghĩa lý gì hết.