- Lịch Sử Phật Thích Ca
- Chú Nghĩa Thanh Sĩ
Khi chúng ta được hiểu Đức Thầy là một vị đệ tử trung thành của Đức Phật Thích Ca, Ngài ra đời với sứ mạng cứu vớt quần sanh và chấn chỉnh Phật đạo, thì chúng ta cần phải hiểu đến lịch sử Đức Phật Thích Ca.
Có hiểu được lịch sử của Phật rồi mới vươn mình noi theo gương phẩm cao cả của Ngài, hầu khỏi thẹn mình là người học Phật.
Bữa nay chúng ta tìm hiểu lịch sử Phật Thích Ca.
Thân thế của Thái tử Sĩ-Đạt-Ta:
Phụ thân của Thái tử là vua Tịnh Phạn Đầu Đà, còn mẹ Ngài là bà hoàng hậu Ma Gia. Cả hai ông Bà đều là người nhân từ minh chánh, nên xứ Ấn Độ thời ấy mặc dù chia ra hơn hai trăm nước nhỏ, mà nước Ca Tỳ La Vệ thì dân chúng không những có nền nếp tốt đẹp và đời sống được đầy đủ hơn hết.
Ngày và nơi đản sanh Thái tử
Đêm nọ, bà nằm mộng thấy bốn vị thần lực đến khiên giường bà lên chót núi Hy mã lạp sơn, liền đó có một thớt tượng trắng có sáu ngà, miệng ngậm bông huệ từ trên không hốt nhiên bay xuống khai hông lịnh bà chung vào, khi bà thức giấc biết mình đã thọ thai.
Ngày tháng trôi qua, vào bữa sớm mai kia bà dạo chơi trong vườn Lâm tỳ Ni, đang đứng ngắm nghía cái bông Vô ưu, liền đó Thái tử khai hông lịnh bà chung ra. Ngày ấy,nhằm mùng tám tháng tư âm lịch, trước ngày chúa Jesus giáng sanh 563 năm. Từ đó đến nay là 2.517 năm tức gần 26 thế kỷ(mỗi thế kỷ một trăm năm).
Nhiều hiện tượng trong lúc sanh Thái tử
Sở dĩ có những hiện tượng lạ thường như vậy, là bởi,Thái tử với chơn linh trước đó là vị Bồ Tát Hộ Minh từ cung Đâu Suất, Ngài dùng huệ nhãn quan sát thấy quả chúng sanh đã muồi Ngài có thể độ được. Ngài thấy hai vợ chồng vua Tịnh Phạn hiền đức và đã từng làm cha mẹ của Ngài hơn năm trăm kiếp, Ngài mới giáng sanh vào đó. Vì Ngài vô lượng kiếp đã từng cứu độ vô số chúng sanh có công đức không lường được, nên các Phật Thần ở mười phương thế giới chúc mừng Ngài ra đời tu chứng quả Như Lai và cứu vớt chúng sanh ra khỏi biển khổ. Do đó mới có hiện tượng như thế.
Tướng mạo của Thái tử và lời tiên đoán của ông Tiên A-tư- Đà
Ông xét mình đã già, từ đây đến Thái tử lớn lên đi tu chứng quả phải ba mươi mấy năm nữa, chắc ông không thể sống đến đó để nghe được lời vàng của Phật dạy bảo, nên ông phải rơi lệ.
Cách giáo dục và tài năng của Thái tử
Đời sống của Thái tử
Trái lại, với những món ngon vật lạ và tiếng hát điệu đờn của các thế nữ, mặc dù đối kẻ khác rất quyến rủ họ sa đắm, còn đối với Thái tử thì Ngài thản nhiên không hề cảm nhiễm, trên gương mặt Ngài thường biểu lộ lắm vẻ ưu buồn không kể xiết.
Thái tử lập gia đình
Lý do Thái tử xuất gia
Về đến thành, Thái tử đi ngay tới Phụ vương là vua Tịnh-Phạn, xin Phụ hoàng cho phép Ngài đi tu. Nghe Thái tử xin đi tu thì òng vua Tịnh Phạn hoảng lên và khóc lóc bảo Thái tử nên ở lại nối nghiệp trị vì thiên hạ, sau sẽ tu không muộn gì. Thái tử tâu rằng: “nếu cha có phép gì làm cho con đừng già, đừng bịnh, đừng chết và được cứu vớt các thống khổ của chúng sanh, thì con sẽ ở lại đây nối nghiệp cha, lo bề chăn dân trị quốc”. Lời yêu cầu ấy, vua Tịnh Phạn không thể làm sao được. Vua rất buồn và truyền lịnh cho cả thảy quân lính trong cung canh phòng nghiêm ngặt, không cho Thái tử đi đâu hết. Còn một mặt khác nữa, thì vua bày thêm các cuộc vui vẻ khác làm cho Thái tử nguôi sự đòi nài về việc xuất gia tầm đạo.
Mặc dù vua cha không cho, lòng Thái tử đã nhứt quyết đi tu, nên vào mùng bảy rạng ngày tám tháng hai, đầu hôm các mỹ nữ hiệp nhau ca xướng đờn địch ra vẻ lả ơi khêu gợi lòng Thái tử, cốt làm cho Ngài không còn nhớ việc đi tu.
Trời lần lần khuya, các cô mệt ngã bên tường mạnh ai nấy ngủ. Lúc ấy Thái tử Ngài thấy dáng mặt các người lúc nãy đẹp đẽ xinh xắn, môi son má phấn, uốn éo lả ơi, có vẻ yêu kiều diễm lệ, bây giờ ai cũng ngã ra ngủ như chết, mồ hôi đổ ướt dầm, son phấn trôi đùn lại, lúc nãy thơm bấy nhiêu thì bây giờ trở lại hôi hám bấy nhiêu, khiến Ngài càng chán hơn nữa. Rồi đó Ngài mới kêu tên Xa Nặc ra chuồng dắt con ngựa Kiền trắc đem cho Ngài, Ngài muốn vào thăm vợ con lần chót, nhưng Ngài sợ vợ con hay mà cản trở việc đi tu của Ngài, nên Ngài nén lòng đi luôn. Ngài cùng tên Xa Nặc lên lưng con Kiền trắc nhảy ngang qua thành trốn đi vào lúc canh khuya. Khi đó Ngài được mười chín tuổi.
Khi Ngài phi ngựa đến sông A-Nô-Ma, thì Ngài cùng tên Xa Nặc xuống ngựa, Ngài lấy gươm cắt tóc của Ngài và Ngài lột áo mão giao lại cho tên Xa Nặc đem về thành tâu lại Phụ vương hiểu lòng Thái tử đã quyết định như vậy. Lúc Ngài cắt tóc có bốn vị Thiên Vương thỉnh tóc Ngài đem về Trời xây tháp để thờ .
HẾT
1. Đạo Làm Người
2. Tam Tùng và Tứ Đức
3. Tự Trị
4. Đức Hạnh
5. Hiếu Thảo
6. Lễ Độ
7. Công Chánh
8. Khiêm Nhượng
9. Khoan Dung
10. Thanh Bạch
11. Kiệm Tiết
12. Trung Thành
13. Kiên Trinh
14. Điềm Tĩnh
15. Suy Xét
16. Cương Quyết
17. Ôn Hoà
18. Nhẫn Nhục
19. Hổ Thẹn
20. Cần Mẫn
21. Đạo Phật
22. Tại sao chúng tôi đặt đức tin nơi Đức Huỳnh Giáo Chủ ?
23. Đại lược vài khoảng về sứ mạng Đức Thầy
24. Mục đích đạo Phật Giáo Hoà Hảo
25. Yếu pháp của Phật Giáo Hoà Hảo
26. Lịch Sử Phật Thích Ca (đang xem)
27. Thái Tử tham thiền và thành đạo
28. Tứ Ân
29. Thập Ác
30. Chừa Thập Ác được những công đức
31. Bát Chánh
32. Hành Bát Chánh được những lợi ích
33. Tứ Diệu Đề - Đức Thầy
34. Tứ Diệu Đề của Đức Phật
35. Ngũ Uẩn (hay Ngũ Ấm)
36. Lục Căn với Lục Trần
37. Trừ Tánh Nhơn Ngã
38. Phá Vô Minh
39. Luật Nhơn Quả
40. Lý Luân Hồi
41. Bốn Pháp Nhiếp Hoá
42. Sự Tích Phật A Di Đà
43. Gấp niệm Phật
44. Phương Pháp niệm Phật
45. Lợi ích của niệm Phật
46. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo
47. Bốn pháp niệm xứ
48. Bốn pháp chánh cần
49. Bốn pháp như ý túc
50. Năm pháp căn
51. Năm pháp lực
52. Bảy pháp giác tri
53. Tám pháp đạo phần
54. Đại khái pháp tu thường ngày của một tín đồ P.G.H.H
2. Tam Tùng và Tứ Đức
3. Tự Trị
4. Đức Hạnh
5. Hiếu Thảo
6. Lễ Độ
7. Công Chánh
8. Khiêm Nhượng
9. Khoan Dung
10. Thanh Bạch
11. Kiệm Tiết
12. Trung Thành
13. Kiên Trinh
14. Điềm Tĩnh
15. Suy Xét
16. Cương Quyết
17. Ôn Hoà
18. Nhẫn Nhục
19. Hổ Thẹn
20. Cần Mẫn
21. Đạo Phật
22. Tại sao chúng tôi đặt đức tin nơi Đức Huỳnh Giáo Chủ ?
23. Đại lược vài khoảng về sứ mạng Đức Thầy
24. Mục đích đạo Phật Giáo Hoà Hảo
25. Yếu pháp của Phật Giáo Hoà Hảo
26. Lịch Sử Phật Thích Ca (đang xem)
27. Thái Tử tham thiền và thành đạo
28. Tứ Ân
29. Thập Ác
30. Chừa Thập Ác được những công đức
31. Bát Chánh
32. Hành Bát Chánh được những lợi ích
33. Tứ Diệu Đề - Đức Thầy
34. Tứ Diệu Đề của Đức Phật
35. Ngũ Uẩn (hay Ngũ Ấm)
36. Lục Căn với Lục Trần
37. Trừ Tánh Nhơn Ngã
38. Phá Vô Minh
39. Luật Nhơn Quả
40. Lý Luân Hồi
41. Bốn Pháp Nhiếp Hoá
42. Sự Tích Phật A Di Đà
43. Gấp niệm Phật
44. Phương Pháp niệm Phật
45. Lợi ích của niệm Phật
46. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo
47. Bốn pháp niệm xứ
48. Bốn pháp chánh cần
49. Bốn pháp như ý túc
50. Năm pháp căn
51. Năm pháp lực
52. Bảy pháp giác tri
53. Tám pháp đạo phần
54. Đại khái pháp tu thường ngày của một tín đồ P.G.H.H
HẾT
Đăng nhận xét