Mục Đích Của Đạo Phật Giáo Hòa Hảo

Ông Thanh Sĩ,Chú Nghĩa Thanh Sĩ, Mục Đích Của Đạo Phật Giáo Hòa Hảo

Mục Đích Của Đạo Phật Giáo Hòa Hảo
(Trích Chú Nghĩa Thanh Sĩ Trong PGHH)

  • Mục Đích Của Đạo Phật Giáo Hòa Hảo
  • Chú Nghĩa Thanh Sĩ
Chúng ta là tín đồ của Đức Thầy, cố nhiên phải biết mục đích của đạo Phật giáo Hòa Hảo như thế nào? Để rồi mỗi người nhắm theo đó mà đi tới, khỏi sợ sai đường lạc nẻo.
Vả lại trước khi vào đạo, chúng ta cũng tự hiểu mối đạo Phật Giáo Hòa Hảo dẫn chúng ta đến đâu và đạo nầy có mục đích gì? Hiểu như thế rồi chúng ta mới mạnh mẽ cầm lấy hương đến trước bàn Phật qui y. Hơn nữa mình ở trong đạo, thế nào cũng gặp người ở ngoại đạo hỏi nền đạo của mình có mục đích gì? Mình phải hiểu rõ để trả lời cho họ hiểu tường tận, không thể nói càn, trả lời Bướng được.
Vả như người trong đạo, gặp kẻ ngoại đạo hỏi mục đích của đạo mình mà mình trả lời không được, chẳng những họ cho mình là mê tín mà họ còn cho đạo mình không chánh đáng nữa. 
Vì đó tín đồ Đức Thầy trước nhứt phải biết mục đích của đạo mình, để trước là tiến thẳng trên đường tu hành,sau sẽ giúp mình giữ vững đức tin và mặt phổ hóa mình mới mạnh mẽ hướng dẫn kẻ khác quay về đạo như mình mà mình tin chắc rằng không sai lầm.
Do chỗ quan hệ đó hôm nay chúng ta ôn lại mục đích đạo Phật Giáo Hòa Hảo.

“Ta thừa vưng sắc lịnh Thế Tôn
Khắp hạ giới truyền khai đạo pháp”


Đoạn nầy Đức Thầy cho biết: Đức Thầy vưng sắc lịnh Đức Thế Tôn xuống trần truyền khai đạo pháp khắp cả nhơn sanh trong thời kỳ hạ ngươn.
Do đâu Đức Thầy ra đời truyền khai đạo pháp để trùng hưng mối đạo của Thích ca đã khai giảng ở ngàn xưa? Vì rằng chánh pháp nhỏ giọt đến thời mạt pháp, bị tà giáo pha trộn vào làm cho phai lạt tinh lý rất nhiều, nên người tu hành thì đông mà kẻ thành đạo thì chẳng được mấy ai. Nhân thế Đức Phật chẳng những cho Đức Thầy xuống trần mà còn sắc lịnh cho nhiều vị khác nữa cũng theo xuống để chỉ dạy việc nhân quả báo ứng, tội phước, chánh tà và kiếp sống thế nào? Khi thác về đâu? Vì sao có Thiên đường? Tại đâu có Địa ngục? Nếu người làm tội sẽ hưởng tội, và ngày kia không tránh khỏi luân chuyển vào đường sanh tử. Và các Ngài cũng cho biết: nếu ai có phước duyên nhiều thì được sống đến ngày thượng ngươn, hưởng lấy mọi cảnh an vui ở ngày ấy.
Giữa Phật Giáo Hòa Hảo với đạo Phật Thích Ca không khác nhau, có thể nói cùng một nguồn gốc nhưng thời kỳ Đức Phật ra đời ở buổi trước thì chúng sanh phần đông là bực thượng căn, thượng trí có thể nghe thấu nghĩa ý tối cao tối thượng và họ có thể hoàn toàn xuất gia được.
Đối với thời kỳ nầy, chúng sanh hạ căn hạ trí, với sự hiểu biết cạn cợt lòng dũng mãnh yếu ớt, không nghe được pháp cao và không làm được việc quá sức của họ. Nhứt là họ chưa ly gia cắt ái được, nên Đức Thầy dùng phương tiện, giải pháp dễ tu, dễ hành là đồng tu nhân và tu Phật. 
Đi sát câu: “Dục tu Tiên đạo, tiên tu Nhơn đạo, Nhơn đạo bất tu, Tiên đạo viễn hỉ”.
Muốn tu đạo Tiên trước phải tu đạo người, bằng đạo người không tu thì đạo Tiên không đến được.
Sở dĩ Đức Thầy dạy cho người thời nầy hành đạo làm người, bởi lẽ trình độ của phần đông còn trong vòng tam cang ngũ thường, nói rõ hơn là họ chỉ tu tại gia; còn sanh hoạt trong gia đình cha mẹ, vợ con, anh em, nhứt là họ nặng nợ tứ ân. Thế nên Đức Thầy không tiện đem những pháp xuất gia dạy người tại gia được, mà cần phải đem pháp tại gia dạy cho họ thì họ mới tu theo được. Nhờ vậy lần lượt dẫn họ đi xa hơn, cũng như người đau lại không thể bắt họ đi ngay như người mạnh được, mà phải lần lần dắt họ đi từ bước một cho quen, sau mới bảo họ đi đứng mau lẹ được.Nói rõ hơn, kẻ có nặng nợ gia đình không thể bắt họ ly gia cắt ái như kẻ xuất gia được nên dạy họ học pháp tu tề, trị mình trước đã, để họ sửa chữa thân tâm, dàn xếp gia đình và đối xử kẻ xung quanh, rồi mới tuần tự chỉ cho họ cách thức tu hành cao hơn nữa. Như vậy mới có thể làm cho họ không làm những việc quá sức.
Thế nên mục đích của đạo Phật Giáo Hòa Hảo gồm có hai việc, vãn hồi đạo nhân và xương minh đạo Phật.

-Vãn hồi đạo nhân:

Trong xứ chúng ta, trước kia hầu hết trong nước từ hàng vua quan đến dân dã đều đồng nhứt hưởng ứng lý thuyết của Khổng Tử là tu về nhân đạo. Mỗi người đều phải học việc: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Việc nầy, phô trương khắp xứ, ai cũng biết. Sau khi biết nhân, nghĩa, lễ, trí, tín rồi họ thật hành, như: tôi trung với vua, con hiếu với cha mẹ v.v...dù ai cũng vậy. Nhưng từ sau ngày nước nhà bị trị, nghĩa là kể từ đời vua Tự Đức trở lại đây, làn sóng văn minh phương Âu tràn vào xứ sở, bôi xóa tất cả thành tích đạo nghĩa trước kia của dân tộc: từ đó đạo nghĩa bị bôi lọ tất cả, đổi lại lắm thói tồi bại trong xứ sở. Vì thế đạo luân thường phai dần đi,cho đến ngày giờ nầy, mặc dù có nhiều chùa miễu, nhiều tổ chức trùng hưng đạo Thánh hiền, nhưng không được trở lại như cũ.

Nếu mối luân thường đạo lý không trùng hưng chấn chỉnh được nó ở trong tình trạng suy vong mãi, thì trong xã hội không tránh khỏi khổ huống con giết cha, vợ bội bạc chồng, tình anh em chia xẻ nhau, và dẫn đến tình bè bạn không còn đãi nhau chơn thật nữa. Chẳng những vậy thôi, mà nó còn dẫn đến giai đoạn khốc liệt là người ăn xé người; chỉ vì lòng ích kỷ độc ác mà họ tàn sát nhau rất dễ dàng hơn giết con vật.
Bởi không thể ngồi yên một chỗ, phó cho tình cảnh phong hóa suy đồi, dân tâm điên đảo, đạo lý mờ lu, cang thường đảo ngược, nên Phật Giáo Hòa Hảo có mục đích phải làm sao cho mối đạo ngũ luân: vua tôi, cha con, Thầy trò,chồng vợ và anh em đều trở lại tô điểm màu sắc tốt tươi, bằng cách làm tôi lấy lòng trung thờ kính vua chúa, con lấy lòng hiếu thảo phụng sự cha mẹ; vợ chồng phải biết cân phân ân nghĩa; anh em ấy sự thuận hòa thương mến nhau và chia sớt cho nhau lúc khổ vui; rốt hết là giữa thầy trò bậu bạn đem lòng thành tín đối đãi nhau rất mực lịch sự.
1-Lẽ thứ nhứt, hưng phục ngũ luân cho thuần mỹ là làm sao cho tất cả mọi người trong xã hội, như làm tôi thì không bội phản; làm con thì không ngỗ nghịch, làm vợ thì không trái phu; giữa anh em không bạc ác và đối với bạn bè chẳng sự lừa phỉnh nhau. Được như thế, tức là đạo luân thường sẽ khỏi phải làm đau lòng tổ tiên và không phụ Thánh hiền xướng suất lý thuyết đạo nhân.
2-Lẽ thứ hai, khắc kỷ được chơn chánh là trước khi đứng ra hành xử đạo nhân cho được chu toàn thì mình cần phải sửa đổi thân tâm được chơn chánh tròn vẹn. Cách sửa đổi ấy, là phải rèn luyện cho mình được có nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Nếu người không lòng nhân, nghĩa, lễ, trí... thì hẳn không phải là người.Điều nầy Đức Thầy nói rõ: “Nếu thiệt người thì biết thương người”. Còn Ngài Mạnh Tử nói: “Vô nhân, nghĩa, lễ, trí, giả phi nhân dã” :Người không lòng nhân, nghĩa, lễ, trí là chẳng phải người, mặc dù họ mang xác chất như người.
Đó là phận sự của người trai, còn gái thì luôn luôn tập tành công, dung, ngôn, hạnh. Những điều nầy mỗi người phải tiêm tất giồi luyện từ lúc nhỏ đến lớn. Có được đức công thì việc làm khéo léo gọn ghẽ; có được đức dung thì dáng vẻ được trang nghiêm; có được đức ngôn thì lời được ngay thật; có được đức hạnh thì mới có những vẻ nhu mì và lòng từ hiếu được. Với người phụ nữ gìn được bốn đức ấy,sẽ làm gương mẫu cho xã hội xung quanh học theo.
Tuy nhiên các việc ấy chưa đủ, cần rèn luyện thêm các đức tánh có ý nghĩa tốt đẹp khác nữa, nhứt là đừng bỏ qua một tánh hạnh tốt nào mà không trau luyện và cũng không dung chứa một tánh xấu nào mà không chừa tránh.Nếu gái trai cùng biết com kỉnh các đức tánh như đã kể qua thì trong gia đình được đầm ấm ngoài xã hội được kính vì, đối xử mỗi việc đều được chu đáo không đến dở dang tồi tệ.
Điều chót hết của đạo làm người là khi mình đứng ra xử sự, mọi việc đều lấy lẽ công bằng và nhân đạo. Không vị tư, vị kỷ, làm lịch đòn cân nhân đạo, và không làm bức người trong việc phi nghĩa, nhứt là làm sao cho mỗi người đều biết trách nhiệm của mình; hễ làm cha mẹ có bổn phận dạy con cái từ bé cho đến lúc trưởng thành, nếu mình không dạy để nó ngỗ nghịch, ngang tàng thì mình phải chịu trách nhiệm, làm anh chị phải kềm chế em út, nếu để nó lung lăng, phóng túng, làm việc bại hoại thì người anh chị chịu trách nhiệm. Các vấn đề khác cũng vậy, đều có tương quan nhau:cha mẹ chịu trách nhiệm con cái; anh chị có trách nhiệm em út; chồng có trách nhiệm vợ; đến như thầy có trách nhiệm trò, bạn bè thì có trách nhiệm binh vực nhau. Mỗi người đều phải biết trách nhiệm như thế cả.
Tóm lại, ai cũng đều biết trách nhiệm trong phạm vi của mình để xử sự cho xong cả việc nhỏ đến việc lớn, khiến từ trên đến dưới đều đem lại sự hòa hảo lẫn nhau, dù phong tục có suy đồi cách mấy hay tâm trạng con người có đen xấu bao nhiêu cũng lần lượt cải chế lại chánh đáng như trước được. Nhược bằng người sống để mà sống, chớ không hiểu bổn phận mình đối: vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em như thế nào, thì phong tục tốt cũng đổi lại xấu, còn nếu phong tục xấu thì càng xấu thêm. Như vậy thì loài người sẽ chìm xuống thấp thỏi không khác loài vật ngu độn.

Xương minh đạo Phật:

Cùng một cảnh huống đạo Không tử, đạo Phật Thích Ca ở xứ ta hồi thời nhà Đinh, Lê, Lý, Trần rất thịnh đạt,không những trong dân chúng mà luôn đến hàng vua chúa cũng cùng một tin tưởng mạnh mẽ. Các vua thời ấy, thường hay nhường ngôi cho con để đi tu, hoặc lên non núi lập chùa chiền qui tụ cả muôn tăng lữ lo việc tu hành, hoặc xây cất am tự gần thành quách của mình để truyền bá đạo Phật, nhứt là hồi nhà Trần vua Nhân Tôn tu được chứng quả, đạo hiệu của Ngài là Điều ngự Giác hoàng Đại Đầu Đà. Người thời ấy tôn Ngài làm đệ nhứt tổ của phái Thiền tông ở Việt Nam. Hàng quan tướng lúc bấy gi xem gương của vua Nhân Tôn mà họ cũng lần lượt lánh rồi cuộc công danh, phú quí lo tu hành rất đông, như con của Trần Quốc Tuấn là Trần Quốc Tảng. Lúc Trần Quốc Tảng mới mười bốn tuổi vừa đi học về nghe cha bị quân Nguyên vây tại thành Thăng Long thì ông mới nhứt thân nhứt mã ra giải vây cho cha. Chừng ông được hai mươi tuổi đã đi tu, ngộ được Phật chỉ đạo hiệu của ông là Tuệ Trung Thượng Sĩ. Còn những hạng tu hành chứng quả ở thời đó không kể xiết.

Nhưng kể từ khi các vị Tổ bên Trung Hoa ngưng việc truyền Y, phó Bát đến nay, phái Thần Tú càng lúc càng thêm mạnh, không những ở Trung Hoa mà còn truyền qua xứ ta, họ bày ra cách thờ cúng đầy thinh, âm, sắc tướng (đờn, đẩu, trống phách, lầu phướn xá hạt v.v...) làm việc hữu hình, hữu ảnh, dân chúng xứ ta dần dần theo đó mà xa lần mối đạo vô vi chánh pháp của Phật. Nền chánh giáo từ đó càng ngày càng mờ lu, các ngôi chùa miếu phần nhiều chỉ là cái vỏ để các tà sư làm mê hoặc thập phương, lợi dụng việc no cơm ấm áo vậy thôi, chớ họ không chủ vào việc dắt người đến chỗ sáng sủa giải thoát. Cũng bởi phần đông hành đạo không chánh đáng, nên cả ngàn muôn người tu mà chỉ có một số ít người đắc đạo; do đó mà gần đây có người lên án cho cảnh chùa là chỗ chứa những phần tử ăn bám của xã hội, chỉ là tổ chức mê hoặc lòng dân, không có tinh thần tiến hóa, thật là một con sâu làm rầu nồi canh.
Do những lý về kể qua, bây giờ muốn cứu được hạng người đương say gục tà thuyết và kẻ còn lầm đương vạy vò bị người lợi dụng có cơ tỉnh thức thoát vòng trói buộc của tà sư ngoại giáo hầu được giải thoát hay đến được Hội Long Hoa. Phật Giáo Hòa Hảo có mục đích xương minh đạo Phật.
1–Duy trì chánh giáo của Phật Thích Ca;
2–Dắt người trở lại con đường lành;
3–Khiến cho mỗi người được tỏ ngộ;
4–Đưa nhơn sanh đến Hội Long Hoa hay về cõi Cực Lạc.
1-Lẽ thứ nhứt của cuộc xương minh đạo Phật là duy trì chánh giáo của Phật Thích Ca khiến cho chúng sanh cùng được giác ngộ như nhau và cùng hiểu được chơn ý của Phật. Lúc nào họ cũng tôn thờ kính phụng mối đạo vô vi của Phật và hiểu luật nhơn quả báo ứng một cách rõ ràng, tránh tất cả những thuyết có ẩn ý làm mê tín lòng người.
2-Lẽ thứ hai của cuộc xương minh đạo Phật là dắt người trở lại con đường lành, bằng cách dùng đủ lẽ hay ho để hướng dẫn cho những kẻ lầm nghe tà thuyết, tín ngưỡng ngoại đạo, sớm thức tỉnh trở lại con đường quang minh của Tổ Thầy đã vạch sẵn. Nhứt là làm sao mọi người rứt bỏ các việc ác theo làm mọi điều lành, khiến lòng ác độc của con người được bớt lần đi, tức thì họa tham tàn lòng giết hại, sự đao inh của nhân loại dần dần ngưng hẳn; rốt hết là sẽ cứu được chúng sanh lấp xong nguồn sống chết để cùng được nhẹ nhàng siêu hóa về cõi thanh tịnh an cư của chư Phật.
3-Lẽ thứ ba của cuộc xương minh đạo Phật là khiến cho mỗi người được tỏ ngộ, bằng cách phương tiện dùng pháp quyền biến, hoặc chơn thiệt, hoặc mau hoặc chậm để vạch xé ra từ việc một của sự tham lam, sân nộ, si mê, ái dục không phải là thiệt có, mà chỉ do vọng niệm vô minh của mỗi người mà thấy nó dường như có thật. Bởi vọng niệm vô minh của chúng sanh tưởng sắc đẹp là thiệt, tưởng của cải là trường tồn mới đem lòng tham chấp ghét ưa; nhược bằng hiểu rõ rằng vạn sự của trần là huyền ảo, bọt bèo, sớm còn tối mất không trường tồn vĩnh cửu, thì dù có mất mát cũng không khờn mẻ núng nao. Chúng sanh nhận hiểu như thế, rồi tự mỗi người soi chiếu lại bản tâm của mình, được thấy nó tròn trịa sáng sủa như mặt nhựt và có đủ công năng để sử dụng một cách mầu nhiệm; nó có thể hiểu tất cả việc làm, tất cả món không bị mọi cảnh ở bên ngoài ám ảnh vào mắt, tai,mũi, miệng mình nữa, khiến đầu óc chẳng còn mê muội rối rắm, vẫn được một màu rỗng rang sáng tỏ, phân tách được từ việc một của sự đời hay sự đạo để thật hành đúng theo chơn lý. Sau hết là khiến cho mỗi người tự tu, tự ngộ lấy mình, không có ỷ lại vào sự giúp đỡ của kẻ khác; vì nếu cứ ỷ lại vào sự giúp đỡ của kẻ khác mà mình không lo lấy thì không khi nào đến chỗ giải thoát mau lẹ được.
4-Lẽ thứ tư của cuộc xương minh đạo Phật là đưa nhơn sanh đến hội Long Hoa hay về cõi Cực Lạc bằng cách là khiến mỗi người quay về con đường lành và tỏ ngộ bản tâm, tức nhiên đến ngày khai mở Long Hoa họ sẽ được đến đó để nghe lời lẽ nhiệm mầu của chư Phật giảng giải và họ sẽ được sự an thưởng của vị vua Thánh. Nếu trong lúc tu hành, lòng họ chuyên trì lục tự một cách thuần thành thì họ sẽ được Đức Di Đà hiện thân đến tiếp rước về cõi Cực Lạc hưởng lấy quả an vui hơn cõi Ta bà gấp bội.
Tóm lại, đến khi công cuộc vãn hồi đạo nhân và xương minh đạo Phật được thực hiện một cách rõ ràng từ chi tiết một của các vấn đề ấy, thì mục đích của đạo Phật Giáo Hòa Hảo thành đạt. Lúc ấy, mảnh gương của Phật đạo và nền cương kỷ của mối luân thường bát ngát thơm tho, không còn cảnh huống đê hèn diễn đi diễn lại trước mắt mọi người như ngày nay nữa.

1. Đạo Làm Người
2. Tam Tùng và Tứ Đức
3. Tự Trị
4. Đức Hạnh
5. Hiếu Thảo
6. Lễ Độ
7. Công Chánh
8. Khiêm Nhượng
9. Khoan Dung
10. Thanh Bạch
11. Kiệm Tiết
12. Trung Thành
13. Kiên Trinh
14. Điềm Tĩnh
15. Suy Xét
16. Cương Quyết
17. Ôn Hoà
18. Nhẫn Nhục
19. Hổ Thẹn
20. Cần Mẫn
21. Đạo Phật
22. Tại sao chúng tôi đặt đức tin nơi Đức Huỳnh Giáo Chủ ?
23. Đại lược vài khoảng về sứ mạng Đức Thầy
24. Mục Đích Của Đạo Phật Giáo Hòa Hảo (đang xem)
25. Yếu pháp của Phật Giáo Hoà Hảo
26. Lịch Sử Phật Thích Ca
27. Thái Tử tham thiền và thành đạo
28. Tứ Ân
29. Thập Ác
30. Chừa Thập Ác được những công đức
31. Bát Chánh
32. Hành Bát Chánh được những lợi ích
33. Tứ Diệu Đề - Đức Thầy
34. Tứ Diệu Đề của Đức Phật
35. Ngũ Uẩn (hay Ngũ Ấm)
36. Lục Căn với Lục Trần
37. Trừ Tánh Nhơn Ngã
38. Phá Vô Minh
39. Luật Nhơn Quả
40. Lý Luân Hồi
41. Bốn Pháp Nhiếp Hoá
42. Sự Tích Phật A Di Đà
43. Gấp niệm Phật
44. Phương Pháp niệm Phật
45. Lợi ích của niệm Phật
46. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo
47. Bốn pháp niệm xứ
48. Bốn pháp chánh cần
49. Bốn pháp như ý túc
50. Năm pháp căn
51. Năm pháp lực
52. Bảy pháp giác tri
53. Tám pháp đạo phần
54. Đại khái pháp tu thường ngày của một tín đồ P.G.H.H

HẾT

Post a Comment

Cảm ơn Đạo Hữu đã đóng góp. Chúc Đạo Hữu một ngày an lạc! A Di Đà Phật