- Tứ Diệu Đề - Đức Thầy
- Chú Nghĩa Thanh Sĩ
“Tứ diệu đề ai có mến ưa,
Thì Lão cũng kể sơ thêm nữa”.
Sau khi kể rõ đạo Bát chánh rất vi diệu, nó có năng lực cứu độ mọi từng lớp chúng sanh, không những thích đương trong giới xuất gia mà luôn cả hạng người tại gia nữa.
Tuy nhiên trước khi hành đạo Bát chánh, mỗi người cần phải hiểu được Tứ diệu đề là bốn cái thẩm xét khéo mầu mà trước kia Đức Phật Thích Ca lần đầu tiên đem ra dạy cho năm anh em Kiều trần Như, Ác Bệ, Bạt Đề, Ma nam Câu Ly và Thập Lực Ca Diếp. Năm ông ấy nhờ Phật thuyết pháp Tứ diệu đề mà chứng quả A La Hán.
Tứ diệu đề của Đức Phật thuyết ở ngày trước với Tứ diệu đề của Đức Thầy dạy ra ở ngày nay, hai bên tuy có một vài điều sửa đổi hơi khác, song chung qui cũng cùng một mục đích đưa nhơn sanh đến chỗ giải thoát.
Tứ diệu đề của Đức Thầy dạy gồm có:
1. – Tập đề
2. – Diệt đề
3. – Khổ đề
4. – Đạo đề
Có nghĩa là mới tu tập. Sau khi đặt chơn vào cửa đạo tức đã quy y thọ giáo với Thầy Tổ rồi, thì trước tiên cần phải tuân thủ từ điều một trong đạo đã chỉ dạy. Luật nghi ấy, dầu khó khăn, dầu chặt buộc với người tín đồ cũng vẫn phải kính cẩn và vâng lời. Nói rõ hơn, là sau khi vào đạo, mình phải sửa tánh tình khác hơn, lúc còn ngoài thế: từ cách thức đối đãi, từ tâm trạng bên trong luôn luôn được sửa đổi cho thuần lương chơn chánh hơn lúc chưa hiểu đạo lý. Đồng thời nỗ lực làm các việc công đức từ thiện.
Đi đôi với việc sửa tánh là mỗi người cần phải chú thiết đến vấn đề diệt trừ những tập tánh tham lam, sân nộ, mê si. Những tập nghiệp nầy, phần nhiều là tội ác; mà các tội ác ấy, đối với đạo lý vẫn cấm hẳn và chính nó là đối phương của kẻ tu học. Vì vậy, người tu học đạo đức cần diệt trừ phiền não là trước nhứt, mặc dù những ác tánh đó đã được mình dung túng tích trữ đã lâu, bây giờ cũng phải moi ra từng cái một để diệt trừ tận gốc, rửa sạch tận nguồn, mới có thể cổi bỏ được tất cả nghiệp ác đã có từ trước tới nay
Những tội ác của con người đã gieo rấm từ lâu, chính nó đã ăn sâu trong tâm trí con người và đã kết thành thói quen: Nó thường quen làm những điều sái quấy, nói những lời tà và nghĩ tưởng mọi việc xấu xa. Sự sái quấy, các điều tà với bao nhiêu điều nhơ xấu khác nữa, bây giờ mình diệt trừ nó là một điều rất khó. Song cái khó ấy, còn sửa chữa được, trừ diệt được. Ví dụ: Trường hợp người uống rượu, muốn bỏ rượu, mấy ngày đầu phải khó chịu, vì bịnh rượu nó hành; song cương quyết trừ bỏ, lâu ngày cũng quen đi trở thành người không ghiền rượu. Nhưng trong chỗ diệt trừ các thói xấu nơi lòng là một điều khó, mà còn ngăn ngừa ngoại cảnh trong lúc tiếp xúc lại càng khó hơn. Như mình chủ trương lẽ chơn chánh ại gặp những người xúi làm việc tà mị, hay mình muốn tránh sắc đẹp lại bị sắc đẹp cám dỗ.
Nhưng mà con người được tự giác và cương quyết giữ lòng đứng đắn tốt lành thì vẫn nghiêm nghị dũng cảm thắng phục các việc thử thách ấy.
Chẳng những thế, lại còn gặp những trường hợp gai ngạnh hơn nữa là người làm lương thiện chơn chánh, lẽ ra phải gặp điều lương thiện chơn chánh trả lại tức khắc, ngược lại họ thường gặp nghịch cảnh khốn nàn, gặp những điều bất trắc đưa lại nhiều hơn, nếu người ấy chẳng dùng trí huệ để hiểu ngay rằng: “Mình làm lành gặp dữ chẳng qua là nghiệp dữ của mình ngày trước còn dư, nên bây giờ trả lại cho thiệt sạch, khi sạch rồi không còn phải trả nữa”, thì chi cho khỏi thối chí ngã lòng và cho rằng tạo hóa bất công. Còn hiểu được nghiệp trước nghiệp sau chằng chịt, nhân quả ba đời, thì với cái họa hại, cái nghịch cảnh nào mình cũng nhẫn nại được, lướt qua được, để làm những điều nào của Thầy Tổ đã chỉ giáo.
Phương chi, với con người tu hành, cố nhiên đã biết trước rằng: mình sắp làm việc khổ hạnh, cái khổ hạnh nầy là mục đích để cầu đạo giải thoát. Trước khi giải thoát phải giũ bỏ những sự luyến ái và nhiễm ô. Trong lúc mình rửa bỏ các việc đó, cần phải cạo gọt những đóm đen, những cội rễ của tập quán cho sạch thì rất khó - mà có khó mới thành đạo sự thành đạo trong chỗ khó mới có giá trị; và giá trị ấy mới đáng để người đời noi dấu.
Sau khi vào đạo, luôn luôn tập sửa tánh tình đúng theo con người giác ngộ. Thường tự xét lòng mình để diệt trừ những điều nhơ xấu và hay chịu khổ hạnh, chịu nàn tai để gìn còn đức tin cao cả của con nhà Phật tử. Được thế, sẽ đến kết quả: Tỏ ngộ được đạo tâm. Khi đạo tâm tỏ ngộ thì tự thấy nơi mình nhẹ nhàng, trong lòng hiện ra một màu sáng suốt, soi chiếu được từ cái một của Vũ trụ vạn
hữu, thế gọi là người có trí huệ hay chứng quả đó.
Cái tỏ ngộ đạo tâm ấy, cũng không lo tính trước hay hiểu trước được đâu, mà là nó đến con người một cách thình lình, như cái hoa muốn nở người ta không thể đoán được nó sẽ nở ở cành nào, chừng nào nó xảy ra thì mới thấy được. Người ta có thể biết trước là ở việc làm như đem rấm khổ qua thì chắc chắn ngày kia có khổ qua; rấm cam đường thì chắc chắn ngày kia có cam đường. Có thế thôi.
Vì vậy, trong lúc hành đạo, chúng ta tự tin rằng: với đức tin dũng mãnh và lòng hy sinh trên lẽ đạo của mình ngày nay, chắc chắn sẽ được kết quả ở ngày mai theo ý nguyện của mình vậy. Do đó người ta vui chịu sự khổ, vui làm việc lành mà không chán mỏi.
Tứ diệu đề đã giải vừa qua đó là mô phỏng theo Tứ diệu đề của Đức Thầy đã dạy trong Sám giảng.
Thì Lão cũng kể sơ thêm nữa”.
Tuy nhiên trước khi hành đạo Bát chánh, mỗi người cần phải hiểu được Tứ diệu đề là bốn cái thẩm xét khéo mầu mà trước kia Đức Phật Thích Ca lần đầu tiên đem ra dạy cho năm anh em Kiều trần Như, Ác Bệ, Bạt Đề, Ma nam Câu Ly và Thập Lực Ca Diếp. Năm ông ấy nhờ Phật thuyết pháp Tứ diệu đề mà chứng quả A La Hán.
Tứ diệu đề của Đức Phật thuyết ở ngày trước với Tứ diệu đề của Đức Thầy dạy ra ở ngày nay, hai bên tuy có một vài điều sửa đổi hơi khác, song chung qui cũng cùng một mục đích đưa nhơn sanh đến chỗ giải thoát.
Tứ diệu đề của Đức Thầy dạy gồm có:
1. – Tập đề
2. – Diệt đề
3. – Khổ đề
4. – Đạo đề
TẬP ĐỀ
DIỆT ĐỀ
KHỔ ĐỀ
Nhưng mà con người được tự giác và cương quyết giữ lòng đứng đắn tốt lành thì vẫn nghiêm nghị dũng cảm thắng phục các việc thử thách ấy.
Chẳng những thế, lại còn gặp những trường hợp gai ngạnh hơn nữa là người làm lương thiện chơn chánh, lẽ ra phải gặp điều lương thiện chơn chánh trả lại tức khắc, ngược lại họ thường gặp nghịch cảnh khốn nàn, gặp những điều bất trắc đưa lại nhiều hơn, nếu người ấy chẳng dùng trí huệ để hiểu ngay rằng: “Mình làm lành gặp dữ chẳng qua là nghiệp dữ của mình ngày trước còn dư, nên bây giờ trả lại cho thiệt sạch, khi sạch rồi không còn phải trả nữa”, thì chi cho khỏi thối chí ngã lòng và cho rằng tạo hóa bất công. Còn hiểu được nghiệp trước nghiệp sau chằng chịt, nhân quả ba đời, thì với cái họa hại, cái nghịch cảnh nào mình cũng nhẫn nại được, lướt qua được, để làm những điều nào của Thầy Tổ đã chỉ giáo.
Phương chi, với con người tu hành, cố nhiên đã biết trước rằng: mình sắp làm việc khổ hạnh, cái khổ hạnh nầy là mục đích để cầu đạo giải thoát. Trước khi giải thoát phải giũ bỏ những sự luyến ái và nhiễm ô. Trong lúc mình rửa bỏ các việc đó, cần phải cạo gọt những đóm đen, những cội rễ của tập quán cho sạch thì rất khó - mà có khó mới thành đạo sự thành đạo trong chỗ khó mới có giá trị; và giá trị ấy mới đáng để người đời noi dấu.
ĐẠO ĐỀ
hữu, thế gọi là người có trí huệ hay chứng quả đó.
Cái tỏ ngộ đạo tâm ấy, cũng không lo tính trước hay hiểu trước được đâu, mà là nó đến con người một cách thình lình, như cái hoa muốn nở người ta không thể đoán được nó sẽ nở ở cành nào, chừng nào nó xảy ra thì mới thấy được. Người ta có thể biết trước là ở việc làm như đem rấm khổ qua thì chắc chắn ngày kia có khổ qua; rấm cam đường thì chắc chắn ngày kia có cam đường. Có thế thôi.
Vì vậy, trong lúc hành đạo, chúng ta tự tin rằng: với đức tin dũng mãnh và lòng hy sinh trên lẽ đạo của mình ngày nay, chắc chắn sẽ được kết quả ở ngày mai theo ý nguyện của mình vậy. Do đó người ta vui chịu sự khổ, vui làm việc lành mà không chán mỏi.
Tứ diệu đề đã giải vừa qua đó là mô phỏng theo Tứ diệu đề của Đức Thầy đã dạy trong Sám giảng.
HẾT
1. Đạo Làm Người
2. Tam Tùng và Tứ Đức
3. Tự Trị
4. Đức Hạnh
5. Hiếu Thảo
6. Lễ Độ
7. Công Chánh
8. Khiêm Nhượng
9. Khoan Dung
10. Thanh Bạch
11. Kiệm Tiết
12. Trung Thành
13. Kiên Trinh
14. Điềm Tĩnh
15. Suy Xét
16. Cương Quyết
17. Ôn Hoà
18. Nhẫn Nhục
19. Hổ Thẹn
20. Cần Mẫn
21. Đạo Phật
22. Tại sao chúng tôi đặt đức tin nơi Đức Huỳnh Giáo Chủ ?
23. Đại lược vài khoảng về sứ mạng Đức Thầy
24. Mục đích đạo Phật Giáo Hoà Hảo
25. Yếu pháp của Phật Giáo Hoà Hảo
26. Lịch Sử Phật Thích Ca
27. Thái Tử tham thiền và thành đạo
28. Tứ Ân
29. Thập Ác
30. Chừa Thập Ác được những công đức
31. Bát Chánh
32. Hành Bát Chánh được những lợi ích
33. Tứ Diệu Đề - Đức Thầy (đang xem)
34. Tứ Diệu Đề của Đức Phật
35. Ngũ Uẩn (hay Ngũ Ấm)
36. Lục Căn với Lục Trần
37. Trừ Tánh Nhơn Ngã
38. Phá Vô Minh
39. Luật Nhơn Quả
40. Lý Luân Hồi
41. Bốn Pháp Nhiếp Hoá
42. Sự Tích Phật A Di Đà
43. Gấp niệm Phật
44. Phương Pháp niệm Phật
45. Lợi ích của niệm Phật
46. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo
47. Bốn pháp niệm xứ
48. Bốn pháp chánh cần
49. Bốn pháp như ý túc
50. Năm pháp căn
51. Năm pháp lực
52. Bảy pháp giác tri
53. Tám pháp đạo phần
54. Đại khái pháp tu thường ngày của một tín đồ P.G.H.H
2. Tam Tùng và Tứ Đức
3. Tự Trị
4. Đức Hạnh
5. Hiếu Thảo
6. Lễ Độ
7. Công Chánh
8. Khiêm Nhượng
9. Khoan Dung
10. Thanh Bạch
11. Kiệm Tiết
12. Trung Thành
13. Kiên Trinh
14. Điềm Tĩnh
15. Suy Xét
16. Cương Quyết
17. Ôn Hoà
18. Nhẫn Nhục
19. Hổ Thẹn
20. Cần Mẫn
21. Đạo Phật
22. Tại sao chúng tôi đặt đức tin nơi Đức Huỳnh Giáo Chủ ?
23. Đại lược vài khoảng về sứ mạng Đức Thầy
24. Mục đích đạo Phật Giáo Hoà Hảo
25. Yếu pháp của Phật Giáo Hoà Hảo
26. Lịch Sử Phật Thích Ca
27. Thái Tử tham thiền và thành đạo
28. Tứ Ân
29. Thập Ác
30. Chừa Thập Ác được những công đức
31. Bát Chánh
32. Hành Bát Chánh được những lợi ích
33. Tứ Diệu Đề - Đức Thầy (đang xem)
34. Tứ Diệu Đề của Đức Phật
35. Ngũ Uẩn (hay Ngũ Ấm)
36. Lục Căn với Lục Trần
37. Trừ Tánh Nhơn Ngã
38. Phá Vô Minh
39. Luật Nhơn Quả
40. Lý Luân Hồi
41. Bốn Pháp Nhiếp Hoá
42. Sự Tích Phật A Di Đà
43. Gấp niệm Phật
44. Phương Pháp niệm Phật
45. Lợi ích của niệm Phật
46. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo
47. Bốn pháp niệm xứ
48. Bốn pháp chánh cần
49. Bốn pháp như ý túc
50. Năm pháp căn
51. Năm pháp lực
52. Bảy pháp giác tri
53. Tám pháp đạo phần
54. Đại khái pháp tu thường ngày của một tín đồ P.G.H.H
HẾT
Đăng nhận xét